So sánh quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong quốc triều hình luật và Đại Minh luật

Tài liệu So sánh quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong quốc triều hình luật và Đại Minh luật: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0016 Social Sci., 2017, Vol. 62, No. 2, pp. 110-117 This paper is available online at SO SÁNH QUY ĐỊNH VỀ XỬ PHẠT HÀNH VI THAM NHŨNG TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT VÀ ĐẠI MINH LUẬT Phan Ngọc Huyền Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Đại Minh luật và Quốc triều hình luật là hai bộ pháp điển quan trọng của vương triều Đại Minh và Đại Việt. Nghiên cứu các quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong bộĐại Minh luật (thời Minh) và Quốc triều hình luật (thời Lê Sơ), có thể nhận thấy một số điểm tương đồng bên cạnh sự khác biệt về số lượng điều luật, phạm vi điều chỉnh và mức độ hình phạt. Bài viết này tập trung khảo cứu và so sánh các quy định về xử phạt hành vi tham nhũng của quan lại trong bộ Đại Minh luật và Quốc triều hình luật, thông qua đó góp phần nghiên cứu so sánh chính sách phòng chống tham nhũng trong lịch sử của các triều đại Việt Nam và Trung Quốc thời trung đại. Từ khóa: Tham nhũng, Quốc triều...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 438 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong quốc triều hình luật và Đại Minh luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0016 Social Sci., 2017, Vol. 62, No. 2, pp. 110-117 This paper is available online at SO SÁNH QUY ĐỊNH VỀ XỬ PHẠT HÀNH VI THAM NHŨNG TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT VÀ ĐẠI MINH LUẬT Phan Ngọc Huyền Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Đại Minh luật và Quốc triều hình luật là hai bộ pháp điển quan trọng của vương triều Đại Minh và Đại Việt. Nghiên cứu các quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong bộĐại Minh luật (thời Minh) và Quốc triều hình luật (thời Lê Sơ), có thể nhận thấy một số điểm tương đồng bên cạnh sự khác biệt về số lượng điều luật, phạm vi điều chỉnh và mức độ hình phạt. Bài viết này tập trung khảo cứu và so sánh các quy định về xử phạt hành vi tham nhũng của quan lại trong bộ Đại Minh luật và Quốc triều hình luật, thông qua đó góp phần nghiên cứu so sánh chính sách phòng chống tham nhũng trong lịch sử của các triều đại Việt Nam và Trung Quốc thời trung đại. Từ khóa: Tham nhũng, Quốc triều hình luật, Đại Minh luật, Xử phạt. 1. Mở đầu Phòng chống tham nhũng, giữ gìn sự trong sạch của chốn quan trường từ xưa đến nay luôn là một trong những vấn đề trăn trở của mỗi chính quyền nhà nước. Thời nào cũng vậy, muốn chống được tham nhũng thì trước hết phải có chế tài pháp luật. Trong bộ Quốc triều hình luật thời Lê Sơ, các quy định về xử phạt hành vi tham nhũng chiếm số lượng không ít. Điều này nếu so sánh với nội dung các quy định trong bộ Đại Minh luật thì thấy có nhiều điểm tương đồng bên cạnh những khác biệt về vị trí các điều luật và mức độ hình phạt. Cho đến nay, những nghiên cứu về quy định phòng chống tham nhũng qua từng bộ luật mới chỉ được đề cập đến qua một vài bài viết, tham luận khoa học. Chẳng hạn, khảo cứu về các quy định xử phạt hành vi tham nhũng trong Quốc triều hình luật mới có một số bài viết của Nguyễn Văn Thanh (2008) về Các quy định về phòng, chống tham nhũng trong bộ Quốc triều hình luật và những bài học cho công cuộc phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay; Phan Văn Báu (2013) về Quốc triều hình luật với việc đấu tranh phòng chống các tội phạm về tham nhũng hay Phan Ngọc Huyền (2015) về Khảo cứu về quy định chống tham nhũng trong Quốc triều hình luật. . . Đặc biệt hơn, cho đến nay chưa có bài viết nào tiến hành so sánh các quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong hai bộ Quốc triều hình luật thời Lê Sơ và Đại Minh luật thời Minh. Thông qua bài viết này, người viết hi vọng sẽ góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu vấn đề lập pháp về phòng chống tham nhũng trong lịch sử hai vương triều Lê Sơ và Đại Minh. Ngày nhận bài: 15/10/2016. Ngày nhận đăng: 20/3/2017 Liên hệ: Phan Ngọc Huyền, e-mail: huyenpn@hnue.edu.vn 110 So sánh quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong Quốc triều hình luật và Đại minh luật 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong Đại Minh luật Đại Minh luật (tên gọi đầy đủ là Đại Minh luật tập giải phụ lệ) là bộ pháp điển quan trọng của vương triều Đại Minh được ban hành dưới thời Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương). Bộ luật được biên soạn từ năm Ngô nguyên niên (1364) và trải qua 3 lần hiệu chỉnh vào các năm Hồng Vũ thứ 7 (1374), Hồng Vũ thứ 22 (1389) và Hồng Vũ thứ 30 (1397) mới hoàn thành. Đại Minh luật bao gồm 30 quyển, phân thành Danh lệ 01 quyển, Lại luật 02 quyển, Hộ luật 7 quyển, Lễ luật 02 quyển, Binh luật 05 quyển, Hình luật 11 quyển và Công luật 02 quyển, tổng cộng có 460 điều. Các điều luật về tội tham nhũng và xử phạt hành vi tham nhũng trong Đại Minh luật khá nhiều. Luật thời Minh có kế thừa danh mục Lục tang (chỉ các quy định về 6 loại hành vi phạm tội liên quan đến tham nhũng) của luật thời Đường song đã có sự cải biến. Đường luật quy tội thụ tang (tham ô, nhận tiền của trái pháp luật) bằng 6 hình thức phạm tội như sau: thụ tài uổng pháp (nhận tiền/của làm trái pháp luật), thụ tài bất uổng pháp (nhận tiền/của nhưng không làm trái pháp luật khi xét xử), thụ sở giám lâm (nhận tiền của của quan dân ở nơi đến công tác), cường đạo (cưỡng ép người khác để lấy tiền của), thiết đạo (ngầm chiếm đoạt của công), tọa tang (tham ô của công). Đại Minh luật lại phân Lục tang ra làm 6 loại: Giám thủ tang (quan giám lâm chủ thủ tham ô, ăn trộm của công do mình quản lí), thường nhân tang (quan lại cấp thấp hoặc người thường ăn trộm/chiếm đoạt của công), thiết đạo (ngầm tham ô, chiếm đoạt của công), uổng pháp tang (tham ô, nhận tiền của làm trái pháp luật), bất uổng pháp tang (tham ô, nhận tiền của làm trái pháp luật nhưng không làm trái pháp luật), tọa tang (tham ô của công). Đáng lưu ý là Đại Minh luật đã đặt hành vi tham ô, nhận hối lộ, ăn trộm của công của các giám thủ đạo/giám lâm chủ thủ (tức các quan viên nắm chức trách quản lí ở các châu huyện) lên hàng đầu trong số Lục tang. Điều này cho thấy các quy định về phòng chống quan lại tham nhũng trong luật thời Minh rất được xem trọng với mức xử phạt nghiêm minh. Ví dụ, trong điều luật Giám thủ tự đạo thương khố tiền lương quy định: “Phàm quan giám lâm chủ thủ lấy trộm tiền lương, đồ vật của kho khố, không phân thủ tòng, đều luận tội tham tang. . . Từ 1 quan đến 2 quan 500 văn, đánh 90 trượng; 5 quan, đánh 100 trượng. . . ;25 quan, đánh 100 trượng, lưu 3000 dặm; 40 quan, xử trảm” [2;37]. Trong phần Hình luật, Đại Minh luật đã đặt một mục riêng gọi là thụ tang (nhận tiền của hối lộ, chiếm dụng của công trái phép) với tổng số 11 điều, bao gồm: Quan lại thụ tài (Quan lại nhận tiền của), Tọa tang chí tội (Vướng vào tang vật đưa đến tội), Sự hậu thụ tài (Nhận tiền của sau khi xong việc), Hữu sự dĩ tài thỉnh cầu (Có việc đem tiền của thỉnh cầu), Tại quan cầu sách tá hóa nhân tài vật (Quan buộc mượn hàng hóa, tài vật của người); Gia nhân cầu sách (Để người nhà sách nhiễu tiền của), Phong hiến quan lại phạm tang (Phong hiến quan lại phạm tội ăn hối lộ), Nhân công thiện khoa liễm (Nhân việc công mà tự ý bắt dân đóng góp), Tư thu công hầu tài vật (Tư ý thu lấy tài vật của công hầu), Khắc lưu đạo tang (Giữ lại tang vật ăn trộm) và Quan lại thính hứa tài vật (Quan lại hứa nhận tài vật). Trong đó, riêng quy định về Quan lại thụ tài (Quan lại nhận tiền của) đã phân biệt chế tài giữa những “người có lộc” (chỉ những người có lương tháng không được đến 01 thạch) với những người “không có lộc” (chỉ những người có lương mỗi tháng 01 thạch trở lên) như sau: “Phàm quan lại nhận tiền của thì (căn cứ) tính theo tang vật mà xử tội. Người không có lộc thì đều được giảm một bậc. Quan thì bị truy thu bằng sắc, bãi bỏ các chức danh trong quan tịch; lại thì bị bãi dịch không kể thứ bậc nào. Trường hợp nhân có việc mà mang tiền đi hối lộ thì người đó, nếu có lộc thì tội được giảm nhẹ hơn người nhận tiền một bậc, người không có lộc thì tội được giảm nhẹ (hơn người nhận tiền) hai bậc. Tội chỉ phạt 100 trượng, bắt di chuyển đi nơi khác. Trường hợp là người nhận hối lộ thì tùy theo tang vật mà xử phạt nặng” [2;83]. 111 Phan Ngọc Huyền Ngoài 11 điều trong mục thụ tang như trên, trong nhiều chương, phần khác của Đại Minh luật cũng còn rất nhiều điều luật liên quan đến việc xử phạt các hành vi tham ô, nhận hối lộ. Theo thống kê của người viết, Đại Minh luật có đến 95 điều luật liên quan đến vấn đề này: Bảng 1. Tổng số điều luật về hình thức xử phạt các hành vi tham nhũng của quan lại trong “Đại Minh luật” Quyển/ Phần Danh lệ luật Lại luật Hộ luật Chức chế Công thức Hộ dịch Điền trạch Thương khố Khóa trình Tiền trái Thị triền Số điều 6 1 1 6 6 20 6 1 2 Tổng 3 2 41 Binh luật Hình luật Công luật Quân chính Quan tân Cứu mục Bưu dịch Đạo tặc Thụ tang Trá ngụy Tạp phạm Bộ vong Đoán ngục Doanh tạo 4 2 2 3 7 11 1 1 3 9 3 11 35 3 (Nguồn: “Đại Minh luật”, Hoài Hiệu Phong biên tập, Liêu Thẩm thư xã xuất bản, năm 1990) Bảng thống kê với tổng số 95 điều luật liên quan đến việc xử phạt quan lại tham nhũng cho thấy phạm vi điều chỉnh của Đại Minh luật tính toàn diện, thể hiện trên nhiều phương diện (nhân khẩu, quản lí đất đai, thuế dịch, hình ngục. . . ) và góc độ (hành chính, dân sự, quân sự) cùng với chế tài xử phạt khá nghiêm khắc. Những điều luật này trong Đại Minh luật đã trở thành văn bản có tính pháp quy rất quan trọng của triều Minh về phòng chống tham nhũng. 2.2. Quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong Quốc triều hình luật Thi hành chính sách chống tham nhũng, nhất định phải có luật pháp về chống tham nhũng. Xuất phát từ nhận thức đó, Lê Thánh Tông đã nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế định rất nhiều các điều luật về phòng chống tham nhũng. Đầu thời Lê Sơ, để củng cố chế độ và quản lí xã hội, hoàng đế Lê Thánh Tông đã hạ lệnh biên soạn bộ pháp điển của triều đại mình. Năm Hồng Đức thứ 14 (1483), Lê Thánh Tông đã phê chuẩn việc ban hành bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Lê triều hình luật hay Luật Hồng Đức). Bộ luật này gồm 6 quyển, 13 chương, 722 điều bao gồm nhiều lĩnh vực như hình pháp, dân sự, hôn nhân, gia đình. . . Trong số 13 chương của Quốc triều hình luật, có không ít điều luật có nội dung liên quan đến phòng chống tham nhũng. Trừ các chương Thông gian, Đấu tụng, Bộ vong, 10 chương còn lại đều có các quy định xử phạt các hành vi tham ô, chiếm đoạt của công. Theo thống kê của người viết, trong Quốc triều hình luật có tất cả 76 điều luật có liên quan đến chế tài xử phạt các hành vi tham ô, nhận hối lộ của quan lại. Cụ thể như sau: Bảng 2. Thống kê các điều luật có nội dung liên quan đến phòng chống tham ô trong “Quốc triều hình luật” Chương Danhlệ Vệ cấm Vi chế Quân chính Hộ hôn Điền sản Đạo tặc Trá ngụy Tạp luật Đoán ngục Tổng Điều luật liên quan 1 5 23 8 9 4 3 3 11 9 76 (Nguồn: “Quốc triều hình luật” (bản dịch), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995) 112 So sánh quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong Quốc triều hình luật và Đại minh luật Trong số hơn 70 điều luật nói trên, nội dung phản ánh về các hành vi tham nhũng của quan lại khá đa dạng, như: tổng quan về việc trừng phạt tội người nhận hối lộ, người đưa hối lộ; thượng cấp nhận hối lộ mà bao che, dung túng cho cấp dưới; hoành hành nhũng nhiễu lương dân để lấy tiền của; nhận hối lộ mà dung túng tội phạm; nhận tiền đút lót mà miễn binh dịch cho người; ăn cắp tài vật của công; vơ vét hoặc ăn bớt của công. . . Nghiên cứu cụ thể cho thấy, các điều luật liên quan đến xử phạt hành vi tham nhũng của quan lại trong Quốc triều hình luật tập trung nhiều nhất ở chương Vi chế, tiếp đến là các chương Tạp luật, Hộ hôn và Đoán ngục. Tuy không đặt riêng thành lục Thụ tang (như Đại Minh luật) song nội dung phòng chống tham ô khá phong phú, cụ thể được biểu hiện qua những khía cạnh dưới đây: Một là, xử phạt hành vi nhận hối lộ và đưa hối lộ: hình phạt nặng nhẹ tùy thuộc vào mức độ phạm tội. Đối với người nhận hối lộ, Quốc triều hình luật quy định xử phạt như sau. Điều thứ 42, chương Vi chế viết: “Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan thì xử tội biếm hay bãi chức, từ 10 quan đến 19 quan thì xử tội đồ hay lưu, từ 20 quan trở lên thì xử tội chém. Những bậc công thần quý thần cùng những người có tài được dự vào hàng bát nghị mà ăn hối lộ từ 1 quan trở lên đến 9 quan thì xử phạt tiền 50 quan, từ 10 quan đến 19 quan thì xử phạt tiền từ 60 quan đến 100 quan, từ 20 quan trở lên thì xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho” [4;74]. Không chỉ người nhận hối lộ bị xử phạt, kẻ đưa hối lộ nếu dùng tiền bạc để nhờ vả quan trên, cố ý làm trái pháp luật cũng phải chịu tội. Nếu do oan uổng thật mà vẫn phải đi hối lộ người ta thì sẽ được xem xét giảm tội. Điều thứ 44, chương Vi chế quy định: “Những người đưa hối lộ mà xét ra việc của họ trái lẽ thì theo việc của họ mà định tội. Còn người nào thật oan khổ vì muốn cho khỏi tội mà hối lộ thì được giảm tội. Người không phải việc mình mà đi hối lộ thay người khác thì xử tội nhẹ hơn người ăn hối lộ hai bậc. Những người thuộc hạ mà xúc xiểm quan trên thì cũng xử tội như thế. Của hối lộ phải nộp vào kho” [4;75]. Hai là, xử phạt việc lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu, mưu đoạt lợi lộc: Đây là nội dung được phản ánh nhiều nhất trong số các điều luật liên quan đến các hành vi tham nhũng của quan lại, chiếm khoảng hơn 20 điều trong số 76 điều luật có liên quan. Quốc triều hình luật quy định rất rõ, đối với mọi biểu hiện lợi dụng uy quyền, cưỡng chiếm tài sản công của quan lại đều xử phạt không dung túng. Chẳng hạn, điều thứ 80, chương Tạp luật viết: “Các quan cai quản quân dân các hạt, vô cớ mà đi đến những làng, xã trong hạt, hay là cho vợ cả, vợ lẽ, người nhà đi lại, mượn việc mua bán làm cớ để quấy nhiễu quân dân, lấy của biếu xén thì xử tội biếm hay bãi chức. Người tố cáo đúng sự thật thì được thưởng tùy theo việc nặng nhẹ” [4;215]. Điều thứ 86 chương Tạp luật cũng viết: “Các quan cai quản quân dân cùng những nhà quyền quý mà sách nhiễu vay mượn của cải đồ vật của dân trong hạt thì khép vào tội làm trái pháp luật và phải trả lại tài vật cho dân” [4;217]. Ba là, xử phạt các hành vi lợi dụng việc công để làm việc tư, chiếm đoạt/ăn bớt/ăn cắp của công: Với những hành vi này, Quốc triều hình luật thời Lê Sơ có những quy định xử phạt khá cụ thể. Với các quan viên giữ kho khố (thường hay phạm phải tội kiểu này nhất), điều thứ 11 chương Tạp luật viết: “Những quan giữ việc thu phát của công mà trái luật (trái luật như là thu vào nhiều mà phát ra ít, đáng phát thứ cũ lại phát thứ mới, đáng nhận thứ tốt lại nhận thứ xấu) thì xử biếm một tư và tính số thừa thiếu ấy bồi thường nộp vào của công. Quan chủ ti giấu không phát giác ra thì xử phạt 50 roi, quá nữa thì xử tội biếm hay phạt. Người giữ kho bắt người đến lĩnh vật gì làm giấy biên nhận, trong giấy biên nhiều mà phát cho ít thì xử tội đồ và phải bồi thường như luật” [4;199]. Riêng các lại viên khi đi trưng thu thuế lương ở các địa phương xã, thôn, nếu tâu báo số 113 Phan Ngọc Huyền lượng sai để ăn bớt thì lộ, huyện, xã quan đều phải căn cứ vào các tình tiết nặng nhẹ để luận tội: “Những sổ thuế tâu lên về thuế má, đầm ao đất bãi mà tâu nhiều làm ít, đất quan làm đất hoang, hạng trên làm hạng dưới, thêm bớt thay đổi để hụt của công và tổn hại cho dân thì lộ, huyện, xã quan đều phải theo việc nặng nhẹ mà trị tội và ghép vào tội giấu giếm của cải nhà nước” [4;136]. Ngoài ra, trong Quốc triều hình luật, tội ăn trộm tiền của, lợi dụng chức quyền để chiếm đoạt của công cũng bị xem là hành vi tham nhũng. Bộ luật này quy định, nếu như viên quan quản kho mà ăn trộm/lấy cắp tiền của thì cũng xếp vào tội ăn cắp của công: “Quan giám lâm, người coi kho mà tự lấy trộm thì xử như tội ăn trộm thường và phải bồi thường tang vật gấp hai lần” [4;161]. Đặc biệt với hành vi ăn trộm quốc khố, quân lương, luật có quy định xử phạt rất nghiêm khắc. Chỉ cần mắc tội ăn trộm quân lương, khiến cho việc quân bị ảnh hưởng thì đều xử tử theo quân pháp. Điều thứ 30 chương Quân chính quy định rất rõ ràng: “Khi hành quân mà coi việc vận lương sai kỳ hạn, để đến nỗi hết lương, thì phải xử tội theo quân pháp. Đi đường để mất lương thực hay vật dụng thì phải đền số tổn thất; ăn trộm hay giấu giếm lương thực hay vật dụng thì phải chém và phải bồi thường gấp hai. . . ” [4;109]. Các quan viên trưng thu lương thuế, nếu trưng thu mãn kì mà không nhập kho, cố ý xâm hại của công, sẽ bị xử tội đồ hay lưu. Các chương Vi chế, Hộ hôn, Điền sản đều có các quy định xử phạt tội ăn trộm lương thuế của công. Chẳng hạn, điều 44 chương Hộ hôn viết: “Nếu những quan thu tiền thuế và những đồ phải thu đã thu được mà để quá kỳ không nộp vào kho, nếu quá 2 tháng, 3 tháng, cho là tội giấu giếm, quá 4 tháng trở lên cho là tội ăn trộm; tội giấu giếm thì một quan xử biếm một tư, 10 quan biếm hai tư, 30 quan biếm ba tư, 50 quan xử đồ làm khao đinh, 100 quan đồ làm tượng phường binh, 200 quan đồ làm chủng điền binh, 300 quan trở lên thì xử lưu đi châu gần, tội ăn trộm thì xử tội theo luật ăn trộm và bồi thường gấp hai” [4; 124-125]. Những dẫn chứng liên quan đến các chế tài xử phạt hành vi tham ô của quan lại ở trên cho thấy, phạm vi điều chỉnh và chế tài xử phạt tội tham ô và các hành vi liên quan khá rộng. Đây là cơ sở để xem Quốc triều hình luật như một bộ luật có giá trị về phòng chống tham ô đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam. 2.3. So sánh các quy định xử phạt hành vi tham nhũng thể hiện trong hai bộ luật Nhìn chung, Đại Minh luật với 460 điều và Quốc triều hình luật với 722 điều đều thể hiện phạm vi điều chỉnh khá rộng đối với nhiều lĩnh vực của xã hội từ hình luật, dân sự đến tố tụng. . . với đại bộ phận là các quy định liên quan đến hình luật. Tuy nhiên, về mặt kết cấu và phân loại, dễ nhận thấy Đại Minh luật có sự hoàn thiện hơn Quốc triều hình luật. Nếu so với Đường luật, việc bộ Đại Minh luật kết cấu thành Lại luật, Hộ luật, Lễ luật, Hình luật... đã thể hiện rõ tính cụ thể và sự hoàn thiện hơn một bước về trình độ lập pháp. Bộ Quốc triều hình luật của nhà Lê sơ có tham khảo “tinh thần lập pháp” của luật Đường, luật Minh nhưng chủ yếu tham khảo kết cấu luật của nhà Đường, phân làm các chương Danh lệ, Vệ cấm, Vi chế, Quân chính, Đạo tặc, Đấu tụng, Đoán ngục. Vì vậy, tính hoàn thiện về kết cấu của Quốc triều hình luật không thể ngang bằng với Đại Minh luật, đó cũng là điều dễ hiểu. Nếu so sánh về nội dung các tội danh liên quan đến hành vi tham nhũng, nhận hối lộ, có thể thấy Đại Minh luật quy định các tội danh Lục tang khá cụ thể. Trong phần Hình luật, Đại Minh luật đặt Thụ tang (nhận tang vật hối lộ) thành một phần riêng với tổng số 11 điều quy định mức xử phạt khác nhau đối với các hành vi khác nhau. Biên mục này trong Quốc triều hình luật không có. Về số điều luật xử phạt các hành vi tham nhũng của quan lại, cả hai bộ luật đều có khá không ít quy định liên quan. Tuy nhiên, theo con số thống kê tương quan thì tỉ lệ số điều luật về 114 So sánh quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong Quốc triều hình luật và Đại minh luật phòng chống tham nhũng trong Đại Minh luật nhiều hơn Quốc triều hình luật (Đại Minh luật có 96/460 điều, chiếm 20,8%; Quốc triều hình luật có 76/722 điều, chiếm 10,5%). Tuy chưa đạt đến mức độ có một bộ luật riêng biệt về phòng chống tham nhũng nhưng phải thừa nhận rằng, phạm vi điều chỉnh của cả hai bộ luật về các loại hành vi tham nhũng khá rộng: từ các quy định xử phạt việc lợi dụng chức quyền để nhận hối lộ, cậy thế nhà quan để sách nhiễu tiền của dân lành đến việc lợi dụng chức vụ để ăn cắp, bớt xén, chiếm đoạt của công. . . Tương ứng với từng hành vi phạm tội, cả hai bộ luật đều có các quy định xử phạt cụ thể: mức độ hình phạt về cơ bản đều tuân theo nguyên tắc tính theo tang vật mà luận tội nặng nhẹ. Người phạm tội nhẹ thì phạt trượng, biếm/bãi chức, đánh roi/gậy. Kẻ phạm tội nặng thì phạt đồ, lưu, thậm chí là tử tội. Đối với người nhận hối lộ làm trái pháp luật, Đại Minh luật quy định: từ 01 quan trở xuống, phạt 70 trượng; 01 quan trở lên đến 5 quan, phạt 80 trượng; 10 quan, phạt 90 trượng; 15 quan, phạt 100 trượng; 20 quan, phạt 60 trượng, đồ 1 năm; 25 quan, phạt 70 trượng, đồ 1 năm rưỡi; 30 quan, phạt 80 trượng, đồ 2 năm; 35 quan, phạt 90 trượng, đồ 2 năm rưỡi; 40 quan, phạt 100 trượng, đồ 3 năm; 45 quan, phạt 100 trượng, lưu 2000 dặm; 50 quan, phạt 100 trượng, lưu 2500 dặm; 55 quan, phạt 100 trượng, lưu 3000 dặm; 80 quan xử giảo [2;83]. Trong Quốc triều hình luật, luật cũng quy định về các mức độ xử phạt tương ứng với số tiền nhận hối lộ nhiều hay ít song mức thang hình phạt có phần gọn hơn: “Quan ti làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan thì xử tội biếm hay bãi chức, từ 10 quan đến 19 quan thì xử tội đồ hay lưu, từ 20 quan trở lên thì xử tội chém” [4;74]. Thoạt nhìn, dẫn chứng trên dễ đưa đến suy đoán mức độ xử phạt trong Quốc triều hình luật có phần nặng hơn Đại Minh luật. Thực tế không phải như vậy. Trong Quốc triều hình luật, hình thức xử phạt đối với các hành vi tham nhũng chủ yếu gồm: dùng tiền chuộc tội, biếm/bãi chức, phạt đánh roi/trượng, đồ, lưu, không có nhiều điều luật áp dụng khung hình phạt xử tử. Trong 76 điều luật liên quan đến phòng chống các hành vi tham nhũng của Quốc triều hình luật, chỉ có 10 điều nhắc đến việc xử tội chết, bao gồm các điều sau: Bảng 3. Các điều luật liên quan đến các hành vi tham nhũng bị xử tội chết trong “Quốc triều hình luật” Điều luật Hành vi phạm tội Hình phạt Điều thứ 30, chương Vệ cấm Sứ thần đi sứ ra nước ngoài. . . lấy của hối lộ mà tiết lộ công việc nước nhà Xử tội chém. Điều thứ 42, chương Vi chế Quan ti làm trái pháp luật ăn hối lộ từ 20 quan trở lên Xử tội chém. Điều thứ 101, chương Vi chế Quan liêm phóng (quan mật tra) khi xét việc vì báo ân báo oán hay ăn hối lộ mà đổi trắng thay đen Mức cao nhất là xử tội chết Điều thứ 13, chương Vi chế Những người giữ kho vũ khí, bán trộm đồ vũ khí Xử tội chém Điều thứ 17, chương Vi chế Chánh, phó ngũ trưởng cai quản quân đội sai đi cướp quân nhu hay chặn đường quân địch định lấy tiền hay ăn bớt Mức cao nhất là xử tội chết Điều thứ 30, chương Quân chính Khi hành quân coi việc vận lương mà ăn trộm hay giấu giếm lương thực hoặc vật dụng Mức cao nhất là xử tội chém Điều thứ 39, chương Quân chính Khi đi đánh dẹp bắt được giặc mà lấy của cải đồ vật, rồi lại vì có thân tình quen biết mà thả ra Mức cao nhất là xử tội chết Điều thứ 42, chương Tạp luật Giấu những đồ vật của công từ 50 quan trở lên Xử tội chết Điều thứ 74, chương Tạp luật Tội nhân được nhà vua đặc ân tha cho mà quan đại thần, quan hành khiển cùng các quan coi ngục tụng tự nhận là ơn của mình để đòi hối lộ Mức cao nhất là xử tội chết 115 Phan Ngọc Huyền Điều thứ 47, chương Đoán ngục Ngục giám, ngục lại đi bắt phạm nhân mà lấy tiền của người ta, nếu đòi nhiều quá đến nỗi cả xã ấy bị phá sản Mức cao nhất là xử tội chết (Nguồn: “Quốc triều hình luật” (bản dịch), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội) Bảng thống nhũng, ăn cắp/chiếm đoạt của công không nhiều, nếu có thì mức độ xử phạt đối với các tình huống dân sự rất ít, chủ yếu tập trung xử phạt các vi phạm trong quân đội nhằm giữ vững kỉ cương quân ngũ. Trong Đại Minh luật, số điều luật áp dụng mức phạt tử hình đối với tội tham nhũng, nhận hối lộ cũng không nhiều, chỉ được nhắc đến trong 9 điều so với tổng số 95 điều luật có liên quan. Bảng 4. Các điều luật liên quan đến các hành vi tham nhũng bị xử tội chết trong “Đại Minh luật” Tên điều luật Xuất xứ trong bộ luật Mức hình phạt cao nhất Tên gọi đồng với tội giảo Danh luật lệ, quyển 1 Xử giảo Báo cáo quân vụ Binh luật, phần Quân chính, quyển thứ 14 Xử chém Ăn trộm đồ ngự tế thần Hình luật, phần Đạo tặc, quyển thứ 18 Xử chém Ăn trộm đồ vật nội phủ Hình luật, phần Đạo tặc, quyển thứ 18 Xử chém Quan giám thủ ăn trộm lương tiền kho khố Hình luật, phần Đạo tặc, quyển thứ 18 Xử chém Thường nhân [lại viên] ăn trộm lương tiền kho khố Hình luật, phần Đạo tặc, quyển thứ 18 Xử giảo Quan lại nhận tài vật Hình luật, phần Thụ tang, quyển thứ 23 Xử giảo Tư nhận tài vật của công hầu Hình luật, phần Thụ tang, quyển thứ 23 Xử tử Giả truyền thánh chỉ Hình luật, phần Trá ngụy, quyển thứ 24 Xử trảm (Nguồn: “Đại Minh luật”, Hoài Hiệu Phong biên tập, Liêu Thẩm thư xã, năm 1990) Bảng thống kê trên cho thấy, mức độ xử phạt nặng nhất đối với hành vi tham nhũng của quan lại cũng chỉ dừng ở xử trảm (chém), thứ đến là xử giảo (thắt cổ). Mức độ hình phạt như vậy về lí thuyết mà nói cơ bản cũng giống với Quốc triều hình luật. Cần lưu ý thêm, không chỉ có chế tài xử phạt với người nhận hối lộ mà cả Đại Minh luật và Quốc triều hình luật đều có điều luật xử phạt người đưa hối lộ. Đối với người đưa hối lộ, cả Đại Minh luật và Quốc triều hình luật đều quy định xử phạt căn cứ vào mức độ và tình tiết phạm tội cụ thể. Ví dụ điều luật Hữu sự dĩ tài thỉnh cầu (Có việc đem tiền của thỉnh cầu) trong Đại Minh luật quy định: “Phàm trường hợp những người có việc dùng tiền của cầu xin nhằm được xử sai pháp luật thì tính số tiền của đã đưa lấy đó buộc tội vướng vào tang vật. Nếu làm sai pháp luật là tránh chuyện khó [tội nặng] đổi thành chuyện dễ [tội nhẹ] thì tội nặng hơn người đưa tiền” [2;87]. Tương tự như vậy, Quốc triều hình luật cũng quy định: “Những người đưa hối lộ mà xét ra việc của họ trái lẽ thì theo việc của họ mà định tội. Còn người nào thật oan khổ vì muốn cho khỏi tội mà hối lộ thì được giảm tội. Người không phải việc mình mà đi hối lộ thay người khác thì xử tội nhẹ hơn người ăn hối lộ hai bậc” [4;75]. Cần lưu ý thêm, về mặt nguyên tắc xét xử, cả hai bộ luật của nhà Minh và nhà Lê Sơ đều quy định: tội tham nhũng không được xét giảm tội theo chế độ “bát nghị”. Điều thứ 5 của chương Danh lệ trong Quốc triều hình luật viết: “Những họ bà phi của Hoàng thái tử từ đại công trở lên mà phạm tử tội, thì cũng phải làm bản tâu dâng lên vua xét định, từ tội lưu trở xuống được giảm một bậc, nếu tội thập ác, giết người, gian dâm, trộm cắp trong cung cấm, ăn hối lộ làm trái phép, thì không theo luật này” [4;38]. 116 So sánh quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong Quốc triều hình luật và Đại minh luật Tương tự, trong phần Danh luật lệ của Đại Minh luật cũng có quy định: “. . . Những kẻ phạm tội thập ác, phản nghịch, gian đạo sát nhân, nhận hối lộ vi phạm pháp luật, không áp dụng theo luật này” [tức không được hưởng chế độ “bát nghị”] [2;6]. Điều này cho thấy, cả hai bộ luật đều định rõ tiêu chuẩn xử phạt khá nghiêm khắc, minh chứng rõ quyết tâm của hai triều đại nhà Minh và nhà Lê Sơ trong việc sử dụng pháp luật làm công cụ phòng chống tham nhũng. 3. Kết luận Mặc dù chưa biên chép riêng thành từng quyển nhưng các quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong hai bộ Quốc triều hình luật và Đại Minh luật đều chiếm số lượng đáng kể trong tổng số các điều luật. Đương nhiên, bên cạnh một số điểm tương đồng, các quy định cụ thể về phòng chống tham nhũng giữa hai bộ luật còn có nhiều điểm khác biệt. Một vài so sánh bước đầu như trên không chỉ giúp những người nghiên cứu về cổ luật Việt Nam hiểu thêm được những đặc điểm, giá trị riêng của Quốc triều hình luật trong so sánh với Đại Minh luật nhìn từ một vấn đề chuyên sâu mà còn bước đầu làm sáng tỏ các quy định xử phạt về tội tham nhũng trong hai bộ luật có gì giống và khác nhau về trình độ lập pháp, về phạm vi điều chỉnh và mức độ hình phạt. Đây là cơ sở quan trọng để tiến tới nghiên cứu so sánh kĩ hơn về chính sách phòng chống tham nhũng trong lịch sử của các triều đại Việt Nam và Trung Quốc thời trung đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phan Ngọc Huyền, 2012. Nghiên cứu so sánh chính sách phòng chống tham quan ô lại của Minh Thái Tổ và Lê Thánh Tông. Luận án Tiến sĩ, Đại học Vũ Hán, Trung Quốc (Bản tiếng Trung). [2] Hoài Hiệu Phong (biên tập), 1990. Đại Minh luật. Liêu Thẩm thư xã xuất bản, Liêu Ninh (bản tiếng Trung). [3] Tiết Duẫn Thăng, 1997. Đường Minh luật hợp biên. Nxb Pháp luật, Bắc Kinh (bản tiếng Trung). [4] Viện sử học (dịch), 1995. Quốc triều hình luật. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. ABSTRACT A Comparison of anti-corruption regulations between Quoc trieu hinh luat and Dai Minh luat Phan Ngoc Huyen Faculty of History, Hanoi National University of Education Dai Minh luat andQuoc trieu hinh luat are two important codes of the Ming dynasty and the Early Le dynasty. The research on regulations on punishment for corruption and bribe receiving in Dai Minh luat (the Ming dynasty) and Quoc trieu hinh luat (the Early Le dynasty), shows some common features besides the differences on the number of laws, adjustment violations and punishment level. This article focuses on studying and comparing the regulations on officials’ corruption punishment between Dai Minh luat and Quoc trieu hinh luat, through that contributing to the comparison about anti-corruption policies in Vietnamese and Chinese history in the Medieval period. Keywords: Corruption, Dai Minh luat, Quoc trieu hinh luat, punishment. 117

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4681_pnhuyen_8011_2128486.pdf