Tài liệu So sánh một số phương pháp phân tích móng bè cọc: ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2016 52
SO SÁNH MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP
PHÂN TÍCH MÓNG BÈ CỌC
TRẦN ĐỒNG KIẾM LAM*
The comparison between some methods of analysis of piled raft
foundations
Abstract: In pile foundation approach, piles are designed to assume total
design load. But when the ground under the raft is better, Combined Pile-
Raft Foundation - CPRF approach provides an economical foundation
compared to conventional pile foundation.
In this paper, some different approaches for the analysis of piled raft
foundations forwarded by different researchers from time to time are
reviewed. A comparison between some methods and numerical full three
dimensional finite element method (with PLAXIS 3d program) is presented
also in this paper.
Keywords: Combined Pile-Raft Foundation, three dimensional finite
element method.
I. GIỚI THIỆU *
Từ những năm 50 - 60 của thế kỷ XX đến
những năm đầu thế kỷ XXI nhiều công trình
nghiên cứu về ứng xử của móng bè cọc đã được
công bố...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 519 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh một số phương pháp phân tích móng bè cọc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2016 52
SO SÁNH MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP
PHÂN TÍCH MÓNG BÈ CỌC
TRẦN ĐỒNG KIẾM LAM*
The comparison between some methods of analysis of piled raft
foundations
Abstract: In pile foundation approach, piles are designed to assume total
design load. But when the ground under the raft is better, Combined Pile-
Raft Foundation - CPRF approach provides an economical foundation
compared to conventional pile foundation.
In this paper, some different approaches for the analysis of piled raft
foundations forwarded by different researchers from time to time are
reviewed. A comparison between some methods and numerical full three
dimensional finite element method (with PLAXIS 3d program) is presented
also in this paper.
Keywords: Combined Pile-Raft Foundation, three dimensional finite
element method.
I. GIỚI THIỆU *
Từ những năm 50 - 60 của thế kỷ XX đến
những năm đầu thế kỷ XXI nhiều công trình
nghiên cứu về ứng xử của móng bè cọc đã được
công bố, điển hình như: Zeevaert (1957), Davis
& Poulos (1972), Hooper (1979, 1973), Burland
(1977), Sommer et al. (1985), Franke (1991),
O’Neill et al. (1996), van Impe & Lungu (1996),
El - Mossallamy & Franke (1997), Poulos
(1993, 1994, 1999, 2000, 2001, 2002), Chow &
Small (2008), Yamashita et al. (2011, 2015).,
đặc biệt tại ISSMGE TC212 - Deep Foundation
(2013) đã thông qua ISSMGE Combined Pile-
Raft Foundation Guideline. Điều này chứng tỏ,
móng bè cọc là một đề tài hay cần phải được
tiếp tục nghiên cứu và phát triển.
Trong bài báo này, tác giả tóm tắt lại một số
phương pháp phân tích móng bè cọc và so sánh
kết quả của một số phương pháp thông dụng với
phương pháp phần tử hữu hạn ba chiều.
*
Đại học Kiến Trúc Tp. HCM
196 Pasture phường 6, Quận 3, Hồ Chí Minh.
E-mail: lam.trandongkiem@uah.edu.vn
II. CƠ CHẾ LÀM VIỆC CỦA HỆ BÈ CỌC
Tải trọng công trình Rt truyền xuống nền đất
bên dưới thông qua áp lực tiếp xúc giữa đất nền
và bè ký hiệu là Rr và thông qua ma sát tiếp xúc,
cũng như là sức kháng mũi giữa các cọc và đất
xung quanh ký hiệu là Rp.
Hình 1. Các tương tác trong hệ móng bè cọc [1]
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2016 53
Ta có: rpt RRR
Với Rt: là tổng tải trọng của công trình.
Rp: là tổng sức kháng của các cọc bao gồm
ma sát tiếp xúc và sức kháng mũi.
Rr: là áp lực tiếp xúc giữa nền và bè
Gọi
t
p
R
R
là hệ số phân bố tải trọng cho
cọc. Hệ số = 1 đối với trường hợp móng cọc
thuần túy cổ điển còn khi hệ số = 0 là trường
hợp móng bè. Hệ số này phụ thuộc vào tải trọng
tác dụng, địa chất khu vực xây dựng, cũng như
là chiều dài, đường kính cọc
III. KHÁI QUÁT VỀ CÁC PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
Tổng hợp từ nhiều nghiên cứu trên thế giời,
tác giả chia các phương pháp phân tích móng bè
cọc thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Phương pháp tính toán đơn giản.
Nhóm 2: Phương pháp tính gần đúng dựa vào
máy tính.
Nhóm 3: Phương pháp tính toán chính xác
dựa vào máy tính.
Phương pháp tính toán đơn giản bao gồm
các phương pháp của Poulos và Davis (1980)
[2], Randolph (1983) [3], Poulos (2001) [4].Các
phương pháp này cùng được xây dưng dựa trên
lý thuyết đàn hồi tuyến tính nhưng đa phần khác
nhau ở công thức xác định độ cứng của các
phần tử: bè, cọc và bè - cọc.
Phương pháp tính toán gần đúng bao gồm
các phương pháp sau:
- Phương pháp dãy trên nền lò xo được
Poulos kiến nghị năm 1991 [5]. Một phần của
bè được mô phỏng thành thanh dầm và cọc
được mô phỏng là những lò xo. Phương pháp
này cho phép kể đến bốn thành phần tương tác
trong móng bè cọc là: tương tác giữa các phần
tử bè - bè, cọc - cọc, bè - cọc, cọc - bè, và ảnh
hưởng của các phần tử bè bên ngoài dãy được
phân tích cũng vào trong bài toán.
- Phương pháp tấm trên lò xo (plate on springs)
trong đó bè được đại diện bởi tấm còn cọc là các
lò xo. Clancy & Randolph (1993) [6] kết hợp
phương pháp phần tử hữu hạn và lời giải tích phân
để phân tích bài toán trong đó bè được mô phỏng
như một bản mỏng hai phương, còn cọc được mô
phỏng thành các thanh một phương đồng thời ứng
xử của đất nền được tính toán bằng lời giải tích
phân. Trong khi đó, Poulos (1994) [7] áp dụng
phương pháp sai phân hữu hạn cho bè có kể đến
tất cả các tương tác trong móng bè cọc
Phương pháp chính xác hơn bao gồm:
- Phương pháp phần tử biên (BEM).
Butterfield, R. và Banerjee, P. K. (1971) [8] dùng
phương pháp này để phân tích ứng xử của nhóm
cọc trong bán không gian đàn hồi lý tưởng được
liên kết với bè tuyệt đối cứng. Tác giả dùng lời
giải Mindlin để mô tả ứng xử của các tương tác
trong móng bè cọc. Các tác giả Brown, P.T. và
Wiesner, T. J. (1975) [9] cũng dùng phương pháp
này để phân tích móng băng trên nền cọc trong
môi trường bán không gian đàn hồi đồng nhất
đẳng hướng. Bè và cọc được chia ra thành nhiều
vùng với lực hoặc ứng suất trên bề mặt tác dụng
vào các vùng tương ứng. Lời giải Mindlin cũng
được sử dụng để phân tích các mối quan hệ
tương tác do lực bề mặt gây ra.
- Phương pháp phần tử hữu hạn là một trong
các phương pháp mạnh nhất để phân tích móng
bè cọc. Trong phương pháp này, cả kết cấu gồm
bè cọc và nền đều được rời rạc hóa. Khi đó số
lượng phương trình cân bằng sẽ rất lớn, chỉ có
thể tính toán dựa vào máy tính. Một trong
những phương pháp làm giảm sự phụ thuộc vào
máy tính là chuyển bài toán không gian ba chiều
thành bài toán đối xứng trục hoặc bài toán ứng
suất phẳng. Ví dụ tính toán đầu tiên về móng bè
cọc dùng phương pháp phần tử hữu hạn được
trình bày bởi Hooper (1973) [10], với mô hình
đối xứng trục dùng phần tử tám nút. Trong
phương pháp này, độ cứng của nhóm cọc được
ước lượng một cách gần đúng. Nền đất được mô
phỏng như một vật liệu đồng nhất đàn hồi tuyến
tính với module tăng tuyến tính theo độ sâu.
Chow and Teh (1991) [11] dùng phương pháp
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2016 54
số phân tích ứng xử của móng bè cọc tuyệt đối
cứng trên nền không đồng nhất. Bè được rời rạc
hóa thành các phần tử con hình vuông. Tác giả
xem bè tiếp xúc hoàn toàn với đất nền và mặt
tiếp xúc giữa bè và nền được tính toán chính xác
thông qua các vùng chia nhỏ hình vuông đó. Đất
nền được mô phỏng là vật liệu tuyến tính đàn
hồi đẳng hướng và module Young tăng tuyến
tính theo độ sâu. Cọc tiết diện hình tròn và được
rời rạc thành hai phần tử nút tại mặt tiếp xúc
giữa đất và cọc. Tương tác giữa bè, cọc và đất
nền được kể đến vào quá trình tính toán.
Prakoso and Kulhawy (2001) [12] phân tích
móng bè cọc bằng mô hình phần tử hữu hạn
biến dạng phẳng phi tuyến và đàn hồi tuyến tính
thông qua mô phỏng móng bè cọc ba chiều
thành móng bè hai chiều. Reul and Randolph
(2003) [13] - với sự trợ giúp của phần mềm
ABAQUS - giới thiệu phương pháp phần tử hữu
hạn đàn dẻo ba chiều để phân tích móng bè cọc
trên nền đất sét quá cố kết – đất sét Frankfurt.
- Phương pháp kết hợp giữa phần tử biên cho
cọc và phần tử hữu hạn cho bè. Hain and Lee
(1978) [14] nghiên cứu ứng xử của bè chịu uốn
được gánh đỡ bởi nhóm cọc làm việc tại sức chịu
tải cực hạn. Bè được mô phỏng là một tấm mỏng
chịu uốn – dùng phương pháp phần tử hữu hạn –
còn ứng xử giữa nhóm cọc và đất nền được giải
quyết bằng phương trình Mindlin – phương pháp
phần tử biên để giải quyết bài toán. Sau đó, nhiều
nhà nghiên cứu tiếp tục phân tích ứng xử móng
bè cọc dựa theo phương pháp này như: Kakurai
et al. (1987), Ta and Small (1996); Mandolini
and Viggiani (1997), Franke et al. (2000),
Mendonça and de Paiva (2003)
- Phương pháp phần tử hữu hạn kết hợp phần
tử lớp. Ta and Small (1996) [15] giới thiệu một
phương pháp mới phân tích ứng xử của móng bè
cọc trên nền nhiều lớp chịu tải trọng thẳng
đứng. Đất nền được chia thành các lớp theo
phương ngang, bè được xem như là một bản
mỏng đàn hồi và cọc được chia thành các phần
tử nút. Phần đất nền được phân tích bằng
phương pháp phần tử lớp (được phát triển bởi
Small and Booker (1984, 1986)) trong khi đó bè
và cọc được phân tích bằng phương pháp phần
tử hữu hạn.
Poulos (2001) [4] có phân tích so sánh khả
năng một số phương pháp tính toán trình bày
trong bảng 1.
Bảng 1: Tổng hợp năng lực tính toán của một số phƣơng pháp theo Poulos (2001) [4]
Phương pháp
Các đặc trưng tính toán
Độ lún
Độ lún
lệch
Tải trọng
cọc
Moment
trong bè
Lực cắt
Poulos & Davis (1980)
Randolph (1983)
Van Impe & Clerq (1995)
Equivalent Raft (Poulos, 1994)
Brown & Wisener (1975)
Clancy & Randolph (1993)
Poulos (1994)
Kuwabara (1989)
Hain & Lee (1978)
Sinha (1996)
Franke et al (1994)
Hooper (1973)
Hewitt & Gue (1994)
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2016 55
Phương pháp
Các đặc trưng tính toán
Độ lún
Độ lún
lệch
Tải trọng
cọc
Moment
trong bè
Lực cắt
Lee et al (1993)
Ta & Small (1996)
Wang (1995)
Katzenbach et al (1998)
IV. SO SÁNH PHƢƠNG PHÁP PHẦN
TỬ HỮU HẠN BA CHIỀU VỚI MỘT SỐ
PHƢƠNG PHÁP KHÁC
IV.1 Sử dụng phƣơng pháp phần tử hữu
hạn ba chiều để phân tích bài toán cổ điển
1m 4m 4m 1m
1
m
2
m
2
m
1
m
0
.5
m
1
0
m
4m 4m
P1
P2
P1
Hình 2. Bài toán móng bè trên nền cọc
Hệ bè cọc gồm có một bè dày 0.5m kích
thước 6m x 10m và 09 cọc BTCT cạnh 0.5m dài
10m, đặt trên nền đất có module Young là
20MPa và hệ số Poisson là 0.3. Bê tông có
cường độ 30000 MPa và hệ số Poison là 0.2.
Nền đất dày 20m tính từ đáy móng. (Hình 2).
Tổng tải trọng tác dụng lên bè cọc là 12 MN,
với P1 = 1MN, P2 = 2MN. Số lượng cọc dưới bè
là 9 cọc. Tiến hành phân tích bài toán bằng
phương pháp phần tử hữu hạn ba chiều (dựa vào
phần mềm Plaxis 3D) sau đó tiến hành so sánh
kết quả với một số các phương pháp khác (đã
được Poulos H.G. trình bày các năm 1991,
1994, 2001).
Sử dụng phần mềm Plaxis 3D, trong đó nền
đất được mô phỏng theo mô hình Mohr –
Coulomb, cọc và sàn được mô phỏng dựa vào
các phần tử sẵn có trong phần mềm.
Hình 3. Biến dạng tổng thể của móng bè cọc
Kết quả thu được: biến dạng tổng thể của hệ
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2016 56
là 36.77 mm, hệ số phân bố tải trọng là 52%.
%52
10*5.0*5.0*)1825(*96*10*)1825(12000
6543
*****
1
11
pppprrraft
n
i
n
i
tot
n
i
pr
LAnBLwV
P
P
P
IV.2 So sánh kết quả thu đƣợc giữa
phƣơng pháp phần tử hữu hạn ba chiều với
một số phƣơng pháp khác
Hình 4 tổng kết kết quả tính toán ứng xử của
móng bè cọc với 9 cọc, khi chịu tải trọng thiết kế
là 12000 kN. Nhiều phương pháp được tính toán
như phương pháp PDR, Burland, Strip (GASP),
Plate (GARP), FE Ta & Small, FE + BE Sinha,
FLAC 2D, FLAC 3D và PLAXIS 3D.
Hình 4. Biểu đồ so sánh hệ số phân bố tải trọng giữa các phương pháp
Biểu đồ 4 so sánh hệ số phân bố tải trọng
được xác định theo nhiều phương pháp khác
nhau đối với bài toán có đất nền tương đối tốt E
= 20MPa. Từ biểu đồ ta nhận thấy rằng, tất cả
các phương pháp đều cho kết quả là cọc gánh đỡ
phần lớn tải trọng của kết cấu thấp nhất là 52 %
(Plaxis 3D) cao nhất là 79,5% (FLAC 2D).
Phương pháp 3D (Plaxis 3D) cho kết quả nhỏ
nhất trong các phương pháp và sai lệch với
phương pháp gần đúng PDR 25%. Tuy nhiên
nếu so sánh cùng phương pháp 3D khác (Plaxis
3D và FLAC 3D) thì kết quả chỉ sai lệch 6%.
Từ những kết quả thu được ở trên ta thấy mỗi
phương pháp tính toán cho ra một đáp án khác
nhau và khó có thể nói đáp án nào là chính xác
hoàn toàn. Để biết được phương pháp nào đúng
hơn ta cần phân tích công trình cụ thể và có số
liệu đo đạc để so sánh. Tuy nhiên, ta có thể
khẳng định, trong trường hợp này (cường độ đất
nền lớn) thì bè trong móng bè cọc có tham gia
chịu lực với phần trăm tải trọng tác dụng lên bè
dao động từ 20 % đến 50 %. Điều này có ý
nghĩa lớn trong việc thiết kế móng bè cọc có xét
đến yếu tố kinh tế.
KẾT LUẬN
Bài báo trình bày một số phương pháp phân
tích móng bè cọc và có tiến hành so sánh
phương pháp phần tử hữu hạn ba chiều (phần
mềm Plaxis 3D) với các phương pháp khác. Tác
giả nhận thấy rằng có nhiều phương pháp từ đơn
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2016 57
giản đến phức tạp dùng để dự đoán ứng xử của
móng bè cọc. Mỗi một phương pháp đều cho kết
quả sai khác nhau, nhưng có thể khẳng định khi
nền đất dưới đài móng là đất tốt thì tải trọng bên
trên có truyền một phần cho các phần tử bè tiếp
xúc với đất gánh đỡ. Vậy phương án móng bè
cọc trên nền đất tốt sẽ kinh tế hơn phương án
móng cọc thuần túy. Về phần phương pháp phân
tích, phương pháp phần tử hữu hạn ba chiều với
sự trợ giúp của phần mềm Plaxis 3D cho kết quả
tương đương với phần mềm 3D khác là FLAC
3D. Vì thế, ta hoàn toàn có thể sử dụng phần
mềm Plaxis 3D trong việc nghiên cứu và thiết
kế móng bè cọc. Tuy nhiên, ta cần tiến hành đo
đạc, quan trắc thực tế để so sánh lại với kết quả
tính toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] R. Katzenbach and D. Choudhury,
"ISSMGE combined piled raft foundation
guideline," ISSMGE TC212 design guideline.
Technische Universitat Darmstadt, Darmstadt,
Germany, pp. 1-23, 2013.
[2] H. G. Poulos and E. H. David, Pile
Foundation Analysis and Design. New York:
Wiley, 1980.
[3] M. F. Randolph, Design of piled raft
foundations: Cambridge University Engineering
Department, 1983.
[4] H. Poulos, "Piled raft foundations:
design and applications," Geotechnique, vol. 51,
pp. 95-113, 2001.
[5] H. G. Poulos, "Analysis of piled strip
foundations," Computer methods and advances
in geomechanics, pp. 183-191, 1991.
[6] M. Randolph and P. Clancy, "Analysis
and design of piled raft foundations,"
International Journal for Numerical and
Analytical Methods in Geomechanics, vol. 10,
pp. 59-72, 1993.
[7] H. G. Poulos, "An approximate
numerical analysis of pile–raft interaction,"
International Journal for Numerical and
Analytical Methods in Geomechanics, vol. 18,
pp. 73-92, 1994.
[8] R. Butterfield and P. Banerjee, "The
elastic analysis of compressible piles and pile
groups," Geotechnique, vol. 21, pp. 43-60, 1971.
[9] P. Brown and T. J. Wiesner, "The
behaviour of uniformly loaded piled strip
footings," 土質工学会論文報告集, vol. 15, pp.
13-21, 1975.
[10] J. Hooper, "Observations on the
behaviour of a piled-raft foundation on London
Clay," in ICE Proceedings, 1973, pp. 855-877.
[11] Y. K. Chow and C. I. Teh, "Pile-cap-
pile-group interaction in nonhomogeneous soil,"
Journal of Geotechnical Engineering, vol. 117,
pp. 1655-1668, 1991.
[12] W. A. Prakoso and F. H. Kulhawy,
"Contribution to piled raft foundation design,"
Journal of Geotechnical and Geoenvironmental
Engineering, vol. 127, pp. 17-24, 2001.
[13] O. Reul and M. Randolph, "Piled rafts in
overconsolidated clay: comparison of in situ
measurements and numerical analyses,"
Geotechnique, vol. 53, pp. 301-315, 2003.
[14] S. Hain and I. K. Lee, "The analysis of
flexible raft-pile systems," Geotechnique, vol.
28, pp. 65-83, 1978.
[15] L. Ta and J. Small, "Analysis and
performance of piled raft foundations on layered
soils," Int. J. Numer. Analytic. Meth. Geomech,
vol. 20, pp. 57-72, 1996.
Người phản biện: PGS, TS. TÔ VĂN LẬN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 88_426_2159848.pdf