Tài liệu So sánh kết quả cấy vi khuẩn và kháng sinh đồ của mẫu cấy xương và mẫu cấy không phải xương trong viêm xương tủy xương: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 216
SO SÁNH KẾT QUẢ CẤY VI KHUẨN VÀ KHÁNG SINH ĐỒ CỦA MẪU
CẤY XƯƠNG VÀ MẪU CẤY KHÔNG PHẢI XƯƠNG
TRONG VIÊM XƯƠNG TỦY XƯƠNG
Diệp Nghĩa Phúc*, Đỗ Phước Hùng**, Phạm Thanh Nhã**, Nguyễn Hoàng Phú**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Điều trị viêm xương tủy xương (VXTX) cần phối hợp nhiều phương pháp khác nhau, trong đó
việc định danh chính xác tác nhân rất quan trọng. Vi khuẩn gây bệnh thực sự chính là vi khuẩn hiện diện trong
mô bệnh, trong VXTX đó chính là mô xương. Trong thực hành lâm sàng hiện tại, các bác sĩ thường dùng kết quả
cấy từ việc phết mủ nông ở vết thương hoặc đường rò để định hướng cho việc sử dụng kháng sinh cho bệnh nhân.
Chính vì lý do đó, nghiên cứu này so sánh kết quả cấy giữa mẫu cấy xương và mẫu cấy không phải xương để biết
được giá trị chẩn đoán tác nhân của từng loại bệnh phẩm.
Mục đích: Xác định tính thống nhất của kết quả cấy giữa mẫu cấy xương và mẫu cấy không p...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 120 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh kết quả cấy vi khuẩn và kháng sinh đồ của mẫu cấy xương và mẫu cấy không phải xương trong viêm xương tủy xương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 216
SO SÁNH KẾT QUẢ CẤY VI KHUẨN VÀ KHÁNG SINH ĐỒ CỦA MẪU
CẤY XƯƠNG VÀ MẪU CẤY KHÔNG PHẢI XƯƠNG
TRONG VIÊM XƯƠNG TỦY XƯƠNG
Diệp Nghĩa Phúc*, Đỗ Phước Hùng**, Phạm Thanh Nhã**, Nguyễn Hoàng Phú**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Điều trị viêm xương tủy xương (VXTX) cần phối hợp nhiều phương pháp khác nhau, trong đó
việc định danh chính xác tác nhân rất quan trọng. Vi khuẩn gây bệnh thực sự chính là vi khuẩn hiện diện trong
mô bệnh, trong VXTX đó chính là mô xương. Trong thực hành lâm sàng hiện tại, các bác sĩ thường dùng kết quả
cấy từ việc phết mủ nông ở vết thương hoặc đường rò để định hướng cho việc sử dụng kháng sinh cho bệnh nhân.
Chính vì lý do đó, nghiên cứu này so sánh kết quả cấy giữa mẫu cấy xương và mẫu cấy không phải xương để biết
được giá trị chẩn đoán tác nhân của từng loại bệnh phẩm.
Mục đích: Xác định tính thống nhất của kết quả cấy giữa mẫu cấy xương và mẫu cấy không phải xương
(dịch mủ, máu mô mềm).
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca.
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân viêm xương tủy xương.
Kết quả: Thực hiện lấy 40 mẫu trên 36 bệnh nhân. Tỉ lệ thống nhất của cả 3 loại bệnh phẩm là 32,5%, của
cặp bệnh phẩm dịch mủ - xương 32,5%, dịch mủ - máu mô mềm 45%, máu mô mềm - xương 70%. Ti lệ thống
nhất của vi khuẩn Staphylococcus aureus và các vi khuẩn không phải Staphylococccus aureus lần lượt là 37,5%
và 28,5%. Các yếu tố vùng chi, thời gian sau chấn thương/khởi bệnh, thời gian sau nằm viện, số lần mổ, số lượng
dấu hiệu VXTX trên X quang không ảnh hưởng đến tính thống nhất.
Kết luận: Việc chẩn đoán tác nhân và điều trị VXTX không thể dựa vào kết quả mẫu cấy không phải xương
vì kết quả cấy của mẫu cấy không phải xương có sự khác biệt rõ rệt với kết quả cấy của mẫu cấy xương.
Từ khóa: Viêm xương tủy xương, tính thống nhất, vi khuẩn học
ABSTRACT
COMPARISION OF MICROBIOLOGY BETWEEN BONE SPECIMENS AND NON-BONE SPECIMENS
IN OSTEOMYELITIS
Diep Nghia Phuc, Do Phuoc Hung, Pham Thanh Nha, Nguyen Hoang Phu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 216 - 221
Introduction: Treatment of osteomyelitis (OM) requires the strict coordination of a variety of different
methods and accurate path ogen identification is absolutely crucial. The actual pathogens are the bacteria residing
inside the infected tissue which is just the infected bone in OM. In daily clinical practice, physicians often base on
microbiological results of superficial swabs from surfaces of wounds or sinus tracks to guide their antibiotic
regimens. For that reason, this study compares the microbiology of bone specimens and non-bone specimens to
define the diagnostic value of each type of specimen.
Objective: Define the concordance of microbiology between bone specimens and non-bone specimens
(discharged fluid, soft tissue fluid)
* Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình TPHCM
** Bộ môn Chấn thương chỉnh hình – Phục hồi chức năng, Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Diệp Nghĩa Phúc, ĐT: 0984727984, Email: diepnghiaphuc@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 217
Method and Materials: Case series of Osteomyelitis patients
Result: The study was conducted on 36 OM patients with 40 samples. Concordance of all 3 types of
specimens was 32.5%. This figure for discharged fluid- bone was 32.5%, for discharged fluid- soft tissue fluid was
45% and for soft tissue fluid- bone was 70%. Concordance of Staphylococcus aureus and bacteria other than
Staphylococcus aureus was 37.5% and 28.5% respectively. There was no relation between concordance and
extremities, period after accident/ onset of diseases, period after admission, number of operations, number of OM
signs on X-ray films.
Conclusion: Diagnosis and treatment of OM could not be based on non-bone cultures because there is a
substaintial difference in microbiology between non-bone specimens and bone specimens.
Key words: Osteomyelitis, concordance, microbiology
ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều trị viêm xương tủy xương (VXTX)
ngày nay vẫn là một thách thức đối với các bác
sĩ lâm sàng bởi tỉ lệ thất bại trong điều trị và tỉ
lệ tái phát khá cao. Để thành công trong việc
điều trị VXTX cần phải phối hợp chặt chẽ nhiều
phương pháp khác nhau. Trong đó, việc định
danh chính xác tác nhân gây bệnh rất quan
trọng để sử dụng kháng sinh(2,3). Vi khuẩn gây
bệnh thực sự chính là vi khuẩn nằm trong mô
bệnh, trong VXTX chính là mô xương(7,8). Tại
Việt Nam, việc sử dụng kết quả từ mẫu cấy mủ
và dịch tiết ở bề mặt nông vết thương và đường
dò để định hướng cho việc lựa chọn kháng sinh
điều trị VXTX là phổ biến. Vì lý do trên, việc
thực hiện nghiên cứu về định danh và tính
nhạy cảm kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh,
khảo sát sự thống nhất giữa kết quả mẫu cấy
xương và mẫu cấy không phải xương (dịch tiết,
mủ) là hết sức cần thiết để có thể điều trị hiệu
quả bệnh lý VXTX.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá tính thống nhất của kết quả cấy
giữa mẫu cấy xương và mẫu cấy không phải
xương (dịch mủ, máu mô mềm).
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân VXTX đường máu và VXTX do
tác nhân ngoại sinh đã được khẳng định chẩn
đoán bằng lâm sàng, X quang và giải phẫu bệnh.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những bệnh nhân có cơ địa đặc biệt như: Sử
dụng thuốc gây nghiện, béo phì, mắc bệnh hồng
cầu hình liềm, các bệnh suy giảm miễn dịch như:
ĐTĐ, sử dụng thuốc ức chế miễn dịch, nhiễm
HIV, suy dinh dưỡng.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca.
Cở mẫu
40 mẫu.
Các bước tiến hành nghiên cứu
Lựa chọn bệnh nhân. Nhận định và đếm các
dấu hiệu viêm xương trên X quang: Phản ứng
màng xương, bào mòn vỏ xương, hủy xương,
mảnh xương tù, hình ảnh răng cưa của màng
xương trong. Thông báo và hỏi ý kiến bệnh nhân
về vấn đề tham gia nghiên cứu. Môi trường cấy
được lấy ngay trước khi thực hiện phẫu thuật.
Thực hiện lấy mẫu tại phòng mổ, lấy 5 mẫu cấy
thuộc 3 loại bệnh phẩm,
Bệnh phẩm mủ: Dùng que cấy phết dịch mủ
nông vết thương hoặc đường rò trước khi rửa
bệnh để cấy hiếu khí.
Bệnh phẩm máu mô mềm quanh xương
viêm: Thực hiện sau khi rửa bệnh, bộc lộ
xương viêm. Dùng xi-lanh hút máu quanh
xương viêm bơm vào 2 môi trường cấy
BATECTM Plus aerobic/ F culture vials,
BATECTM Plus anaerobic/ F culture vials để
cấy hiếu khí và kị khí.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 218
Bệnh phẩm xương: Đục và nghiền vụn
xương viêm cho vào lọ đựng nước muối sinh lý
để cấy hiếu khí và môi trường BATECTM Plus
anaerobic/ F culture vials để cấy kị khí.
Vận chuyển mẫu từ phòng mổ đến khoa Vi
Sinh ngay sau khi mẫu được lấy. Mẫu được cấy
tại khoa Vi sinh. Thu thập kết quả cấy sau 7-10
ngày. Xử lý và phân tích số liệu bằng phần mềm
Microsoft Excel 2013 và SPSS.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu thực hiện lấy 40 mẫu trên 36
bệnh nhân với các đặc điểm của mẫu như sau:
Tuổi trung bình: 37,45 15,83.
Tỉ lệ nam/nữ: 4/1.
Tỉ lệ mẫu ở chi dưới/chi trên: 4/1.
36 trường hợp VXTX sau chấn thương, 4
trường hợp VXTX đường máu.
Đặc điểm vi khuẩn học
Tất cả các bệnh phẩm
Tỉ lệ vi khuẩn Gram (+), Gram (-) lần lượt là
55,08% và 44,92%. Trong tất cả các mẫu phân lập
được tất cả 17 loại vi khuẩn, trong đó
Staphylococcus aureus chiếm tỉ lệ cao nhất với
dòng vi khuẩn đề kháng Methycilline chiếm ưu
thế (43,22%).
Tỉ lệ đa kháng thuốc của tất cả vi khuẩn là
70,94%. Vi khuẩn Staphylococcus aureus đề kháng
với hầu hết các kháng sinh được thử. Các kháng
sinh có tỉ lệ bị đề kháng cao nhất là Penicilline,
Imipenem, Erythromycin, Clindamycin. Chưa
ghi nhận trường hợp nào vi khuẩn Staphylococcus
aureus đề kháng Vancomycin, Teicoplanin.
Ngoài ra, trong cùng một nhóm kháng sinh, có
những kháng sinh có tỉ lệ bị đề kháng thấp hơn
đáng kể so với các kháng sinh khác.
Từng loại bệnh phẩm
Tỉ lệ mọc của mẫu cấy sắp xếp theo thứ tự
tăng dần là: Dịch mủ, máu mô mềm, xương.
Trong đó tỉ lệ mọc của mẫu cấy xương là 100%.
Tỉ lệ cấy đa khuẩn của mẫu cấy xương tương
đương với mẫu cấy máu mô mềm, và ít hơn so
với dịch mủ.
Thời gian sau chấn thương/ khởi bệnh, thời
gian sau nhập viện, số lần mổ, số lượng dấu hiệu
VXTX trên X quang không ảnh hưởng đến khả
năng mọc của mẫu cấy.
Trong mẫu cấy máu mô mềm và xương, vi
khuẩn Gram (+) chiếm ưu thế. Ngược lại, vi
khuẩn Gram (-) chiếm ưu thế hơn trong mẫu cấy
dịch mủ.
Trong 3 loại mẫu cấy, vi khuẩn hiếu khí đều
là tác nhân chiếm ưu thế. Chỉ có 1 mẫu cấy duy
nhất từ xương phân lập được vi khuẩn kị khí.
Staphylococcus aureus là tác nhân chính phân
lập được ở cả 3 loại mẫu cấy, trong đó MRSA
chiếm ưu thể hơn so với MSSA. Ngoài ra,
Staphylococcus aureus có xu hướng kháng
Methicillin cao hơn ở mẫu cấy dịch mủ.
Tính thống nhất
Tỉ lệ thống nhất của cặp bệnh phẩm dịch mủ
- xương là 32,5%, của cặp bệnh phẩm máu mô
mềm – xương là 70%, của cặp bệnh phẩm dịch
mủ- máu mô mềm là 45%. Tỉ lệ thống nhất giữa
3 bệnh phẩm dịch mủ - máu mô mềm- xương là
32,5%.
Trong các mẫu có sự thống nhất thì sự phân
bố các vi khuẩn theo thứ tự giảm dần như sau:
MRSA 61,5%, MSSA 7,7%, trực khuẩn Gram (-)
7,7%, cầu khuẩn Gram (-) khác 0%.
Tỉ lệ thống nhất ở từng loài VK là MRSA
44,4%, MSSA: 16,7%, cầu khuẩn Gram (+) khác
0%, trực khuẩn Gram (-): 35,3%. Như vậy tỉ lệ
thống nhất của vi khuẩn Staphylococcus aureus và
của vi khuẩn không phải Staphylococcus aureus
lần lượt là 37,5% và 28,5%.
Bằng phép kiểm 2, kết quả cho thấy vùng
chi, thời gian sau chấn thương / khởi bệnh,
thời gian sau nhập viện, số lần mổ và số lượng
dấu hiệu viêm xương trên X quang không ảnh
hưởng đến tính thống nhất kết quả giữa các
mẫu cấy.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 219
BÀN LUẬN
Đặc điểm vi khuẩn học
Tất cả các loại bệnh phẩm
Trong nghiên cứu, hơn 50% vi khuẩn phân
lập được là staphylococci. Điều này phù hợp
với đặc điểm vi khuẩn học của nhiễm trùng hệ
cơ xương khớp và cũng phù hợp với hầu hết
các nghiên cứu về tác nhân gây VXTX2,3,9).
Staphylococci là tác nhân gây viêm xương
thường gặp nhất vì có những đặc điểm
sau(6,7,13): Thứ nhất, đây là loại vi khuẩn phổ
biến và thường trú trên da; Thứ hai,
staphylococci đã được thích nghi qua quá
trình chọn lọc lọc tự nhiên tạo cho nó những
độc tố đặc biệt gây viêm xương và mô mềm.
Cụ thể là, Staphyloccus aureus có nhiều chất
gắn kết giúp nó có thể bám chặt vào mô mềm
và xương như protein gắn kết fibronectin hay
protein gắn kết collagen; Thứ ba, các vi khuẩn
còn được bảo vệ trong lớp glycocalyx có thể
kháng lại đáp ứng miễn dịch thể dịch và qua
trung gian tế bào của kí chủ, kháng sinh; Thứ
tư, staphylococci có khả năng xâm lấn và phá
hủy mạnh mẽ khi bám vào xương.
Tỉ lệ đa kháng thuốc của tất các VK phân lập
được đều ở mức cao, điều này phản ánh tình
trạng sử dụng kháng sinh tại Việt Nam thiếu
kiểm soát. Do tỉ lệ đa kháng thuốc cao, nên trên
thực tế lâm sàng, khi lựa chọn kháng sinh để
điều trị cho bệnh nhân nên dựa trên kháng sinh
đồ của mẫu cấy xương nhằm tăng hiệu quả điều
trị cũng như hạn chế xảy ra tình trạng kháng
thuốc sau một thời gian ngắn đối với các kháng
sinh có độ nhạy còn cao.
Trong nghiên cứu của chúng tôi,
Staphylococcus aureus đề kháng với hầu hết các
nhóm kháng sinh mà các nghiên cứu khác trên
thế giới đã báo cáo trước đó, bao gồm:
Penicillins, Carbapenem, Aminoglycosides,
Fluoroquinolones, Macrolides, Tetracyclins và tỉ
lệ đề kháng ở mức cao. Ngoài ra, chúng tôi còn
ghi nhận, trong cùng một nhóm kháng sinh,
nhưng tỉ lệ kháng thuốc khác nhau rõ rệt giữa
các kháng sinh khác nhau. Như vậy, trong
trường hợp sử dụng phải sử dụng nhóm kháng
sinh đó, nên ưu tiên sử dụng các kháng sinh có tỉ
lệ bị đề kháng thấp hơn. Đối với nhóm kháng
sinh Glycopeptides, nghiên cứu của chúng tôi
chưa ghi nhận trường hợp nào đề kháng với
Vancomycin và Teicoplanin, tuy nhiên chúng tôi
khuyến nghị nên thận trọng, không nên lạm
dụng 2 kháng sinh này vì trên thế giới đã có báo
những trường hợp Staphylococcus aureus đề
kháng Vancomycin(5,11,14,17).
Từng loại bệnh phẩm
Trong 3 loại mẫu cấy, tỉ lệ cấy âm tính và tỉ lệ
cấy đa khuẩn của mẫu cấy dịch mủ cao nhất và tỉ
lệ này giảm dần theo chiều sâu bệnh phẩm được
lấy.Có nhiều nguyên làm cho kết quả cấy mủ
phần lớn là âm tính: Thứ nhất, thành phần của
mủ chủ yếu là xác vi khuẩn, xác bạch cầu, mô
hoại tử, sợi fibrin, protein huyết thanh; Thứ hai,
trong viêm xương tủy xương, sau khi vi khuẩn
xâm nhập sẽ nhanh chóng hình thành lớp màng
sinh học bảo vệ làm cho cấy bằng phương pháp
thông thường không phân lập được vi khuẩn;
Thứ ba, những mẫu cấy của chúng tôi lấy khi đã
điều trị kháng sinh toàn thân nên có thể làm tình
trạng nhiễm trùng cụt đầu (8,10,12).
Đối với những trường hợp cấy dịch mủ ra
nhiều tác nhân hoặc cấy ra một tác nhân nhưng
không đồng nhất với kết quả cấy xương là do
dịch mủ là môi trường giàu dinh dưỡng nên các
vi khuẩn cơ hội từ môi trường ngoài đến tạo
dòng đơn thuần.
Tỉ lệ cấy âm tính và tỉ lệ cấy đa khuẩn của
mẫu cấy máu mô mềm thấp hơn so với mẫu cấy
dịch mủ là do máu mô mềm nằm sâu bên trong,
cạnh xương viêm nên ít bị vấy bởi những vi
khuẩn cơ hội.
Về tỉ lệ đa kháng thuốc, tỉ lệ đa kháng thuốc
giảm dần theo chiều sâu vị trí bệnh phẩm được
lấy. Nguyên nhân là do các mẫu cấy nông, phơi
nhiễm với môi trường ngoài, đặc biệt là mô
trường bệnh viện nên dễ hình thành các dòng vi
khuẩn đa kháng. Các nghiên cứu tương tự
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 220
không đánh giá tỉ lệ kháng thuốc của các vi
khuẩn phân lập được tuy nhiên số liệu của
nghiên cứu chúng tôi cho thấy rằng, tỉ lệ đa
kháng thuốc của các vi khuẩn ở mức rất cao. Đây
là hậu quả của tình trạng sử dụng kháng sinh
thiếu kiểm soát tại Việt Nam.
Tính thống nhất
Tính thống nhất của bệnh phẩm không phải
xương so với xương viêm tăng dần theo chiều
sâu của vị trí bệnh phẩm được lấy.
Tỉ lệ thống nhất trong nghiên cứu của chúng
tôi có chút khác biệt so với các nghiên cứu khác
trên thế giới(1,4,15,16). Tuy nhiên, tính thống nhất
kết quả giữa các mẫu cấy của tất cả các nghiên
cứu nhìn chung là thấp (dưới 50%). Nếu xem vi
khuẩn hiện diện ở mô đích bị nhiễm trùng mới
thật sự là tác nhân gây bệnh chính, cụ thể trong
VXTX chính là mô xương, thì tính thống nhất
giữa mẫu cấy xương và mẫu cấy không phải
xương thấp cho thấy mẫu cấy không phải xương
(dịch mủ, máu mô mềm) không đáng tin cậy
trong việc xác định tác nhân gây bệnh để định
hướng điều trị.
Đối với cặp bệnh phẩm máu mô mềm xung
quanh xương viêm- xương viêm, tính thống nhất
cao hơn đáng kể (70%) so với cặp kết quả dịch
mủ- xương do máu mô mềm lân cận xương
viêm nằm sâu bên trong, kế cận xương viêm nên
ít bị ngoại nhiễm bởi các vi khuẩn cơ hội. Qua đó
cho thấy rằng, giá trị của mẫu cấy máu mô mềm
trong chẩn đoán tác nhân gây bệnh cao hơn so
với mẫu cấy mủ. Vì thế, trong những trường hợp
không lấy được xương để cấy, có thể lấy máu mô
mềm quanh xương viêm cấy sẽ cho kết quả
chính xác hơn mẫu cấy dịch mủ.
Về mức độ thống nhất của từng loại vi
khuẩn, tính thống nhất kết quả trong tất cả các
mẫu cấy của vi khuẩn Staphylococcus aureus cao
hơn so với các vi khuẩn khác, đặc biệt là MRSA.
Tuy nhiên, tỉ lệ thống nhất của Staphylococcus
aureus dù cao hơn các vi khuẩn khác nhưng hầu
hết cũng chỉ ở mức thấp (<50%) nên một mẫu
cấy không phải xương phân lập được
Staphylococcus aureus thì khả năng dự đoán chính
xác tác nhân gây bệnh ở xương là không cao và
không thể thay thế cho mẫu cấy xương.
Về các yếu tố ảnh hưởng, 5 yếu tố chúng tôi
khảo sát: Vùng chi, thời gian sau chấn
thương/khởi bệnh, thời gian sau nhập viện, số
lần mổ, số lượng dấu hiệu VXTX trên X quang
đều không ảnh hưởng đến tính thống nhất kết
quả giữa các mẫu cấy. Qua đó cho thấy, dù
VXTX ở vị trí nào, mổ bao lâu sau chấn
thương/khởi bệnh hay nhập viện, mổ bao nhiêu
lần, có bao nhiêu dấu hiệu VXTX trên X quang
thì giá trị của các mẫu cấy không phải xương
đều thấp.
KẾT LUẬN
Mẫu cấy xương có giá trị nhất trong chẩn
đoán tác nhân và định hướng điều trị. Tỉ lệ
thống nhất kết quả cấy giữa bệnh phẩm xương
và bệnh phẩm không phải xương rất thấp
(32,5%). Như vậy không thể căn cứ vào kết quả
cấy của mẫu bệnh phẩm không phải xương (dịch
mủ, máu mô mềm) để chẩn đoán tác nhân và
định hướng điều trị. Tuy nhiên, tỉ lệ thống nhất
của cặp mẫu cấy máu mô mềm - xương cao hơn
so với cặp mẫu cấy dịch mủ - xương, do đó trong
trường hợp không thể lấy được xương có thể sử
dụng máu mô mềm quanh xương viêm để cấy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andrés F.Z, Wilson G, Fabián J, et al. (2002), "Lack of
microbiological concordance between bone and non-bone
specimens in chronic osteomyelitis: an observational study".
BMC Infectious Diseases, 2 (1): 1-7.
2. Bruce H.Z, Wade R.S, Nalini R (2015), "Othopedic infections and
osteomyelitis", In: Charles MCB, et al., Editors, Rockwood and
Green's Fractures in Adults, Wolters Kluwer, Philadelphia,
USA, 8th. pp. 793-800.
3. Calhoun J.H, Manring M, Shirtliff M (2009), "Osteomyelitis of
the Long Bones". Seminars in Plastic Surgery, 23 (2): 59-72.
4. Chayan L, Christina Y, et al. (2010), "Sensitivity of superficial
cultures in lower extremity wounds". Journal of Hospital
Medicine, 5 (7): 415-420.
5. Chang S, Sievert D.M, Hageman J.C, et al. (2003), "Infection
with Vancomycin-Resistant Staphylococcus aureus
Containing the vanA Resistance Gene". New England Journal of
Medicine, 348 (14): 1342-1347.
6. Claro T, Widaa A, McDonnell C, et al. (2013), "Staphylococcus
aureus protein A binding to osteoblast tumour necrosis factor
receptor 1 results in activation of nuclear factor kappa B and
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 221
release of interleukin-6 in bone infection". Microbiology, 159 (1):
147-154.
7. Corrigan R.M, Rigby D, Handley P, et al. (2007), "The role of
Staphylococcus aureus surface protein SasG in adherence and
biofilm formation". Microbiology, 153 (8): 2435-2446.
8. Del P.J.L, Hanssen A.D, Patel R (2009), "The microbiology of
musculoskeletal infections". Orthopaedic knowledge update: 15-
32.
9. Fritz J.M, McDonald J.R (2008), "Osteomyelitis: Approach to
Diagnosis and Treatment". Phys Sportsmed, 36 (1): 1168-1223.
10. Gristina A.G, Naylor P.T, Myrvik QN (1991), "Mechanisms of
musculoskeletal sepsis". Orthop Clin North Am, 22 (3): 363-731.
11. Hiramatsu K, Aritaka N, Hanaki H, et al. (1997),
"Dissemination in Japanese hospitals of strains of
Staphylococcus aureus heterogeneously resistant to
vancomycin". The Lancet, 350 (9092): 1670-1673.
12. Jaramillo D (2011), "Infection: musculoskeletal". Pediatr Radiol,
41 Suppl 1: 127-34.
13. Lowy F.D (2003) "Antimicrobial resistance: the example of
Staphylococcus aureus". J Clin Invest, 111 (9): 1265-1273.
14. Mackowiak K (2000) "Staphylococcus aureus with reduced
susceptibility to vancomycin--Illinois, 1999". MMWR Morb
Mortal Wkly Rep, 48 (51-52): 1165-1207.
15. Mackowiak P.A, Jones S.R, Smith J.W (1978), "Diagnostic
value of sinus-tract cultures in chronic osteomyelitis". Jama,
239 (26): 2772-2775.
16. Parvez N, Dutta P, Ray P, et al. (2012), "Microbial profile and
utility of soft tissue, pus, and bone cultures in diagnosing
diabetic foot infections". Diabetes Technol Ther, 14 (8): 669-674.
17. Tabaqchali S (1997), "Vancomycin-resistant Staphylococcus
aureus: apocalypse now?". The Lancet, 350 (9092): 1644-1645.
Ngày nhận bài báo: 06/12/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_ket_qua_cay_vi_khuan_va_khang_sinh_do_cua_mau_cay_xu.pdf