So sánh hiệu quả ranibizumab và bevacizumab trong điều trị phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc

Tài liệu So sánh hiệu quả ranibizumab và bevacizumab trong điều trị phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 7 SO SÁNH HIỆU QUẢ RANIBIZUMAB VÀ BEVACIZUMAB TRONG ĐIỀU TRỊ PHÙ HOÀNG ĐIỂM DO TẮC TĨNH MẠCH VÕNG MẠC Nguyễn Thị Tú Uyên*, Trần Anh Tuấn** TÓM TẮT Mục tiêu: So sánh hiệu quả Ranibizumab và Bevacizumab trong điều trị phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc. Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu pilot thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên. Hai nhóm, mỗi nhóm 30 mắt được chia ngẫu nhiên điều trị với Ranibizumab (Nhóm 1) hoặc Bevacizumab (Nhóm 2).Bệnh nhiên được tiêm lần 1 vào thời điểm bắt đầu nghiên cứu và tái khám sau mỗi 4, 8, 12 và 24 tuần.Chỉ định tiêm từ lần thứ 2 trở đi dựa trên đáp ứng của từng bệnh nhân. Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân là 56,65 ± 10,98. 56,67% là nam giới. Nhóm 1 có thị lực cải thiện trung bình 33,20 ± 12,12 ký tự ETDRS. 96,67% mắt có cải thiện trên 10 ký tự ETDRS. Độ dày võng mạc trung tâm cải thiện trung bình 355,33 ± 176,70 µ...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh hiệu quả ranibizumab và bevacizumab trong điều trị phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 7 SO SÁNH HIỆU QUẢ RANIBIZUMAB VÀ BEVACIZUMAB TRONG ĐIỀU TRỊ PHÙ HOÀNG ĐIỂM DO TẮC TĨNH MẠCH VÕNG MẠC Nguyễn Thị Tú Uyên*, Trần Anh Tuấn** TÓM TẮT Mục tiêu: So sánh hiệu quả Ranibizumab và Bevacizumab trong điều trị phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc. Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu pilot thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên. Hai nhóm, mỗi nhóm 30 mắt được chia ngẫu nhiên điều trị với Ranibizumab (Nhóm 1) hoặc Bevacizumab (Nhóm 2).Bệnh nhiên được tiêm lần 1 vào thời điểm bắt đầu nghiên cứu và tái khám sau mỗi 4, 8, 12 và 24 tuần.Chỉ định tiêm từ lần thứ 2 trở đi dựa trên đáp ứng của từng bệnh nhân. Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân là 56,65 ± 10,98. 56,67% là nam giới. Nhóm 1 có thị lực cải thiện trung bình 33,20 ± 12,12 ký tự ETDRS. 96,67% mắt có cải thiện trên 10 ký tự ETDRS. Độ dày võng mạc trung tâm cải thiện trung bình 355,33 ± 176,70 µm. 100% mắt có độ dày võng mạc trung tâm sau điều trị < 250 µm. Nhóm 2 có thị lực cải thiện trung bình 31,10 ± 15,73 ký tự ETDRS. 83,33% mắt có cải thiện trên 10 ký tự ETDRS. Độ dày võng mạc trung tâm cải thiện trung bình 402,73 ± 199,66 µm. 100% mắt có độ dày võng mạc trung tâm sau điều trị < 250 µm. Cả hai nhóm không có biến chứng nào sau điều trị. Kết luận: Ranibizumab và Bevacizumab có hiệu quả tương đương trong điều trị phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc về mặt cải thiện cấu trúc và chức năng. Nhóm Ranibizumab có xu hướng cải thiện sớm hơn nhóm Bevacizumab. Từ khóa: Ranibizumab, Bevacizumab ABSTRACT COMPARING THE EFFICACY OF RANIBIZUMAB AND BEVACIZUMAB IN MACULAR EDEMA DUE TO RETINAL VEIN OCCLUSION MANAGEMENT Nguyen Thi Tu Uyen, Tran Anh Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 7 - 13 Purpose: To compare the efficacy of Ranibizumab and Bevacizumab for macular edema management in retinal vein occlusion. Method: Pilot study. Two groups, 30 eyes each were randomized into treatment with Ranibizumab (Group 1) or Bevacizumab (Group 2). The patient received the 1st injection on Day 1 and rechecked after 4, 8, 12 and 24 weeks. The indication for the 2nd injection so far is based on the response of each patient. Results: The average age were56.65 ± 10.98 years old. 56.67% is male. The visual acuity in group 1 increased 33.20 ± 12.12 (ETDRS). 96.67% eyes increased more than 10 letters (ETDRS). CRT decreased 355.33 ± 176.70 µm. 100% eyes had CRT < 250 µm after 6 months. The visual acuity in group 2 were31.10 ± 15.73 (ETDRS). 83.33% eyes increased more than 10 letters (ETDRS). CRT decreased 402.73 ± 199.66 µm. 100% eyes had CRT < 250 µm after treatment. Both group had no complication of treatment. * Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh, ** Bộ môn Mắt, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Tú Uyên ĐT: (08)39325713 Email: uyeny96@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 8 Conclusion: Ranibizumab and Bevacizumab had similar efficacy in macular edema due to retinal vein occlusion treatment. Ranibizumab has the tendency to response sooner than Bevacizumab. Keywords: Ranibizumab, Bevacizumab MỞ ĐẦU Tắc tĩnh mạch võng mạc là tình trạng ngừng trệ lưu thông trở về của tĩnh mạch trung tâm võng mạc hoặc nhánh của tĩnh mạch, là bệnh mạch máu võng mạc đứng thứ hai sau bệnh võng mạc do đái tháo đường(8,12).Bệnh có tỉ lệ hiện mắc thay đổi từ 0,6- 2% và gia tăng theo tuổi trong đó tần suất mắc bệnh tắc tĩnh mạch trung tâm võng mạc là 8/1000người(8). Bệnh có thể gây giảm thị lực trầm trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh hoạt và chất lượng sống của bệnh nhân vì các biến chứng như phù hoàng điểm, xuất huyết dịch kính, tân mạch, trong đó, phù hoàng điểm là biến chứng thường gặp nhất(8). Những biến đổi về hệ thống mao mạch võng mạc như mao mạch bị phù nề và dãn, tăng tính thấm dịch qua thành mao mạch, tắc nghẽn tuần hoàn mao mạch, là nguyên nhân gây phù hoàng điểm. Phù hoàng điểm kéo dài có thể làm tổn hại các nơ ron thần kinh và dẫn đến mất thị lực không hồi phục(3,6).Vì vậy, điều trị phù hoàng điểm là vấn đề then chốt trong quá trình điều trị bệnh tắc tĩnh mạch võng mạc. Mục tiêu nghiên cứu 1. Mô tả đặc điểm dịch tễ và lâm sàng của bệnh nhân tắc tĩnh mạch võng mạc. 2. So sánh hiệu quả của Ranibizumab và Bevacizumab trong điều trị phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân có phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu đến khám và điều trị tại khoa Dịch kính võng mạc bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian nghiên cứu từ tháng 06/2016 đến tháng 06/2017. Quy trình nghiên cứu 1. Khai thác bệnh sử, tiền sử bản thân, tiền sử gia đình. 2. Đo khúc xạ: chủ quan, khách quan. 3. Khám mắt: chẩn đoán phù hoàng điểm do tắc mạch võng mạc. 4. Chụp OCT: đo độ dày hoàng điểm. 5. Nhóm tiêmRanibizumab. 6. Nhóm tiêmBevacizumab. 7. Tái khám mỗi 4 tuần: tiêm liên tiếp 3 lần, đánh giá lại thị lực, OCT, nhãn áp và biến chứng. 8. Nếu OCT< 250 µm, TL≥10/10 thì ngưng tiêm tái khám sau 4 tuần, còn OCT ≥ 250 µm hay TL < 10/10 thì tiêm tiếp, tái khám sau 4 tuần. 9. Nhập dữ liệu và thống kê. KẾT QUẢ Đề tài nghiên cứu được tiến hành từ tháng 6/2016 đến tháng 7/2017, gồm tổng cộng 59 bệnh nhân, tương đương 60 mắt thoả các tiêu chuẩn nhận vào và tiêu chuẩn loại ra được đưa vào nghiên cứu. Đặc điểm dịch tễ của mẫu nghiên cứu Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 56,65 ± 10,98, với nhóm Ranibizumab là 55,63 ± 12,12 và nhóm Bevacizumab là 57,67 ± 9,83, độ tuổi trung bình của hai nhóm không có sự khác biệt thống kê (p = 0,47). Về giới tính, khoảng phân nửa số bệnh nhân vẫn còn đi làm, còn lại thuộc nhóm hưu trí hoặc nội trợ. Phân bố nghề nghiệp ở hai nhóm nghiên cứu không có sự khác biệt có ý nghĩa (p = 0,30). 20% bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu có hút thuốc lá, 26,67% mắc tiểu đường, 45,00% có tình trạng tăng huyết áp và 5,00% rối loạn lipid máu. Tỷ lệ bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ này ở hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p> 0,05). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 9 Thời gian khởi bệnh trung bình ở nhóm Ranibizumab là 22,89 ± 20,65 ngày, nhóm Bevacizumab là 32,00 ± 24,60 ngày, không khác biệt về mặt thống kê với p = 0,13. Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ của mẫu nghiên cứu Toàn bộ mẫu nghiên cứu Nhóm Ranibizumab Nhóm Bevacizumab p Tuổi (năm) 56,65± 10,98 55,63 ± 12,12 57,67 ± 9,83 0,47* Giới tính Nam Nữ 56,67% 43,33% 63,33% 36,67% 50,00% 50,00% 0,30* Nghề nghiệp Đi làm Nội trợ Hưu trí 51,67% 11,67% 36,67% 56,67% 36,67% 6,66% 46,67% 36,67% 16,66% 0,46* Các yếu tố nguy cơ Hút thuốc lá Tiểu đường Tăng lipid máu Tăng huyết áp 20,00% 26,67% 5,00% 45,00% 16,67% 26,67% 6,67% 53,33% 23,33% 26,67% 3,33% 36,67% 0,52* 1,00* 5,54* 0,19* Thời gian khởi bệnh (ngày) 27,45 ± 22,99 22,89 ± 20,65 32,00 ± 24,60 0,13** *kiểm định tham số Chi bình phương **kiểm định t-test So sánh hai nhóm Ranibizumab và Bevacizumab Trong suốt thời gian theo dõi 24 tuần, các bệnh nhân ở mỗi nhóm được ghi nhận lại thị lực theo bảng ký tự EDTRS. Bảng 2 dưới đây cho thấy sự mức thị lực của bệnh nhân ở hai nhóm vào từng thời điểm tương đương. Bảng 2: Mức độ cải thiện thị lực khi sử dụng hiệu số thị lực ETDRStrước và sau điều trị Thị lực Ranibizumab (n=30) Bevacizumab (n=30) p* Trước điều trị 35,23 ± 10,09 33,07 ± 8,06 0,37 Tuần 4 45,70 ± 13,81 43,43 ± 13,04 0,52 Tuần 8 56,23 ± 16,22 53,30 ± 15,45 0,48 Tuần 12 65,80 ± 15,30 59,50 ± 17,26 0,14 Tuần 16 67,93 ± 15,04 62,37 ± 16,95 0,18 Tuần 20 68,63 ± 15,04 63,60 ± 16,75 0,26 Tuần 24 68,43 ± 14,99 64,17 ± 16,85 0,30 Sự thay đổi thị lực 33,20 ± 12,12 31,10 ± 15,73 0,58 *kiểm định t-test Tại tất cả các thời điểm theo dõi, thị lực ở hai nhóm Ranibizumab và Bevacizumab không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Khi xét đến mức độ cải thiện thị lực, nhóm Ranibizumab có mức cải thiện là 33,20 ± 12,12 và nhóm Bevacizumab 31,10 ± 15,73 theo thang thị lực EDTRS, là tương đương nhau (p = 0,18). Biểu đồ 1: Sự thay đổi độ dày võng mạc trung tâm theo thời gian ở hai nhóm Ranibizumab và Bevacizumab Độ dày võng mạc trung tâm trung bình ở cả hai nhóm giảm nhanh trong 12 tuần đầu và lấy dần độ ổn định sau đó và không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Tương quan giữa sự thay đổi thị lực và thay đổi độ dày võng mạc trung tâm trước và sau điều trị (thời điểm 24 tuần) Biểu đồ phân tán dưới đây, với trục hoành là sự thay đổi độ dày võng mạc trung tâm và trục tung là sự thay đổi thị lực giữa thời điểm trước và sau điều trị, cho thấy mối tương quan giữa sự thay đổi thị lực và thay đổi độ dày trung tâm võng mạc. Chúng tôi quy định biến độc lập là sự thay đổi chiều dày võng mạc trung tâm và biến phụ thuộc là sự thay đổi thị lực, để dự đoán thay Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 10 đổi của thị lực theo thay đổi độ dày trung tâm võng mạc. Biểu đồ 2: Tương quan giữa thay đổi độ dày võng mạc trung tâm, thay đổi thị lực Nhận xét: Biểu đồ cho thấy sự thay đổi thị lực và thay đổi độ dày võng mạc trung tâm không có sự tương quan tuyến tính với nhau ở cả hai nhóm. Hệ số Pearson ở nhóm Ranibizumab là 0,14 (p = 0,46) và nhóm Bevacizumab là -0,22 (p = 0,24) không có ý nghĩa thống kê. Tác dụng phụ Bệnh nhân được theo dõi và ghi nhận các tác dụng phụ toàn thân và tại chỗ trong suốt thời gian nghiên cứu. Tác dụng phụ tại chỗ Các tác dụng phụ tại chỗ được ghi nhận trong suốt quá trình điều trị ở các lần tái khám và được mô tả trong bảng 3. Bảng 3: Tác dụng phụ tại chỗ Ranibizumab Bevacizumab p* Tác dụng phụ tại chỗ Tăng nhãn áp Co kéo dịch kính võng mạc Biến dạng hình Xuất huyết dịch kính Bong võng mạc Viêm mủ nội nhãn Kích ứng tại chỗ 0,00% 0,00% 0,00% 0,00% 0,00% 0,00% 26,67% 0,00% 0,00% 0,00% 0,00% 0,00% 0,00% 6,67% 0,038 Nhận xét: Tác dụng phụ tại chỗ chủ yếu và duy nhất ghi nhận được trong quá trình nghiên cứu là kích ứng kết mạc tại chỗ. Nhóm Ranibizumab có tác dụng phụ tại chỗ nhiều hơn nhóm Bevacizumab (p = 0,038). Biến chứng toàn thân Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi không ghi nhận có trường hợp nào xuất hiện các biến chứng toàn thân như khuyến cáo của các thử nghiệm lâm sàng sau khi tiêm nội nhãn Ranibizumab. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 11 Trong nghiên cứu này cũng không ghi nhận biến cố bất lợi toàn thân, không huyết khối tắc mạch, không tai biến mạch máu não hoặc nhồi máu cơ tim. BÀN LUẬN Đặc điểm dịch tễ của mẫu nghiên cứu Độ tuổi này cũng tương đương với kết quả của các nghiên cứu thực hiện tại Việt Nam như nghiên cứu của tác giả Lê Văn Thà (2002)(11) và tác giả Trần Lê Thuỳ Vân (2010)(13). Khi so sánh với một số thử nghiệm lâm sàng quan trọng hiện nay, độ tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi nói riêng và độ tuổi của bệnh nhân tắc tĩnh mạch võng mạc trong các nghiên cứu tại Việt Nam nói chung có thấp hơn. Sự khác biệt này có thể do sự khác nhau tiêu chuẩn chọn mẫu, cũng như về sắc tộc và các điều kiện chăm sóc y tế tại từng nền kinh tế khác nhau. Bệnh tắc mạch võng mạc tại Việt Nam nhìn chung xuất hiện sớm hơn so với các nước phát triển, tuy nhiên, về mặt tổng thể vẫn tập trung chủ yếu ở nhóm bệnh nhân trên 50 tuổi. Về giới tính, khoảng phân nửa số bệnh nhân vẫn còn đi làm, còn lại thuộc nhóm hưu trí hoặc nội trợ. Phân bố nghề nghiệp ở hai nhóm nghiên cứu không có sự khác biệt có ý nghĩa (p = 0,30). Tỷ lệ phân bố giới tính trong nghiên cứu của chúng tôi tương đối tương đồng với các nghiên cứu trong và ngoài nước, với chủ yếu nam giới mắc bệnh nhiều hơn nữ trong bệnh lý tắc tĩnh mạch võng mạc. Chỉ có nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Thu Hà năm 2012 cho rằng nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn trong bệnh lý này(9). Sự khác biệt có thể nằm ở phương pháp chọn mẫu khác nhau, hoặc vùng dịch tễ không tương đồng. So sánh hai nhóm Ranibizumab và Bevacizumab Nhóm Ranibizumab: Mức độ cải thiện thị lực trong nhóm nghiên cứu chúng tôi cao hơn Nghiên cứu BRAVO 2010: 18,3 chữ/ETDRS. Nghiên cứu CRUISE (2010): 14,9 chữ/ETDRS. Sự khác biệt này có thể nằm ở sự khác nhau ở nhóm mẫu khác nhau. Các nghiên cứu BRAVO và CRUISE nghiên cứu trên tất cả bệnh nhân có thời gian khởi bệnh trong vòng 1 năm trước khi tiến hành điều trị, với thời gian trung bình là 3,3 tháng trong cả hai nghiên cứu. Thời gian trung bình từ khi khởi phát đến khi tiếp nhận điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi là 32 ± 24,6 ngày, với trung bình xấp xỉ 1 tháng, sớm hơn rất nhiều so với hai nghiên cứu trên(4,5). Nhóm Bevacizumab Nghiên cứu của chúng tôi cũng đưa ra kết luận tương tự với mức cải thiện 31,10 ± 15,73 theo thang thị lực EDTRS. Các nghiên cứu của những tác giả nước ngoài đa số quan sát thấy mức độ cải thiện dao động quanh mức từ 0,20 đến 0,33 theo thang thị lực logMAR hoặc 14,1 theo thang EDTRS, thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Sự thay đổi độ dày võng mạc trung tâm theo thời gian ở hai nhóm Ranibizumab và Bevacizumab Tương tự thị lực, tại tất cả các thời điểm sau tiêm, độ dày hoàng điểm trên OCT của hai nhóm Ranibizumab và Bevacizumab cũng không có sự khác biệt. Khi phân tích phân tầng theo từng nhóm có cải thiện tốt, cải thiện vừa, cải thiện ít và không cải thiện, sự khác biệt giữa hai nhóm cũng không có ý nghĩa thống kê (p>0,1). Trong nghiên cứu của chúng tôi, hai hoạt chất này không những cho thấy hiệu quả cải thiện về mặt chức năng – thị lực – là tương đương nhau tại mọi thời điểm mà còn tương đương cả về mặt cấu trúc – mức độ giảm phù hoàng điểm. Kết luận này tương đồng với những quan sát của các tác giả tại các vùng dịch tễ khác nhau(1,2,10). Tương quan giữa thay đổi độ dày võng mạc trung tâm, thay đổi thị lực Trong nghiên cứu của chúng tôi, mối tương quan giữa sự thay đổi thị lực và sự thay đổi độ dày võng mạc trung tâm được ghi nhận là không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn giới Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 12 hạn và có những trường hợp ngoại lệ như độ dày võng mạc trung tâm tăng quá mức. Do đó, cần có thêm những nghiên cứu quy mô hơn nhằm đánh giá xem thật sự có mối tương quan này hay không. Tác dụng phụ Tác dụng phụ tại chỗ Chủ yếu liên quan nhiều đến kỹ thuật tiêm hơn là bản chất của thuốc, trong khi tác dụng phụ toàn thân có thể liên quan đến hoạt tính và thành phần cấu tạo của thuốc sử dụng. Tuy nhiên, do cỡ mẫu còn nhỏ và tỷ lệ biến chứng ghi nhận được còn chưa thống nhất với những nghiên cứu khác trên thế giới, chúng tôi cho rằng cần có thêm những nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn và phân tích chặt chẽ hơn để đánh giá thêm về tính an toàn của hai loại thuốc này. Tác giả Campochiaro trong nghiên cứu BRAVO, sử dụng Ranibizumab trong điều trị tắc nhánh tĩnh mạch võng mạch, ghi nhận tỷ lệ tác dụng phụ tại chỗ nghiêm trọng chỉ có 1 trường hợp viêm mũ nội nhãn trên tổng số 131 mắt(7). Biến chứng toàn thân Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi không ghi nhận có trường hợp nào xuất hiện các biến chứng toàn thân như khuyến cáo của các thử nghiệm lâm sàng sau khi tiêm nội nhãn Ranibizumab. Trong nghiên cứu này cũng không ghi nhận biến cố bất lợi toàn thân, không huyết khối tắc mạch, không tai biến mạch máu não hoặc nhồi máu cơ tim. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu theo dõi, phân tích các số liệu thu thập từ 60 mắt của bệnh nhân phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc với số mũi tiêm trung bình là 3,17 ± 0,38 ở nhóm Ranibizumab (n = 30) và 3,2 ± 0,48 ở nhóm Bevacizumab (n = 30) tại thời điểm 24 tuần cho phép rút ra một số kết luận sau: Dịch tễ & lâm sàng Tuổi trung bình: 56,65 ± 10,98. Giới: nam 56,67 %. Yếu tố nguy cơ cao: CHA 45%, ĐTĐ 26,67%. Hiệu quả Ranibizumab và Bevacizumab trong phù hoàng điểm do tắc mạch võng mạc Điều trị phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc với Ranibizumab cho kết quả: Thị lực cải thiện trung bình 33,20 ± 12,12 ký tự EDTRS. 96,67% mắt có cải thiện trên 10 ký tự EDTRS. Độ dày võng mạc trung tâm cải thiện, giảm trung bình 355,33 ± 176,70. 100% mắt có độ dày võng mạc trung tâm sau điều trị < 250µm. Không có biến chứng nào xảy ra sau điều trị Điều trị phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc với Bevacizumab cho kết quả: Thị lực cải thiện trung bình 31,10 ± 15,73 ký tự EDTRS. 83,33% mắt có cải thiện trên 10 ký tự EDTRS. Độ dày võng mạc trung tâm cải thiện, giảm trung bình 402,73 ± 199,66. 100% mắt có độ dày võng mạc trung tâm sau điều trị < 250µm. Không có biến chứng nào xảy ra sau điều trị. Ranibizumab và Bevacizumab có hiệu quả tương đương trong điều trị phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch võng mạc về mặt cải thiện cấu trúc và chức năng. Bệnh nhân nhóm Ranibizumab có xu hướng cải thiện sớm hơn nhóm Bevacizumab. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Algvere PV, Epstein D, von Wendt G, et al (2011). Intravitreal bevacizumab in central retinal vein occlusion: 18-month results of a prospective clinical trial. Eur J Ophthalmol, 21 (6), pp. 789-95. 2. Aref AA, Scott IU (2011). Management of macular edema secondary to central retinal vein occlusion: an evidence-based. Adv Ther, 28 (1), pp. 40-50. 3. Arnarsson A, Stefansson E (2000). Laser treatment and the mechanism of edema reduction in branch retinal vein occlusion. Invest Ophthalmol Vis Sci, 41 (3), pp. 877-9. 4. Bandellot F, Battaglia PM (2010). Antivascular Endothelial Growth Factor as an Approach for Macular Edema. Anti VEGF. Developments in Ophthalmology, Vol.46, pp.111-22. 5. Beutel J, Ziemssen F, Luke M, et al (2010). Intravitreal bevacizumab treatment of macular edema in central retinal vein occlusion: one-year results. Int Ophthalmol, 30 (1), pp. 15- 22. 6. Braithwaite T, Nanji AA, Lindsley K, et al (2014). Anti- vascular endothelial growth factor for macular oedema secondary to central retinal vein occlusion. Cochrane Database Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 13 Syst Rev, (5), pp. CD007325. 7. Campochiaro PA, Clark WL, Boyer DS, Heier JS, Brown DM, Vitti R, Kazmi H, Berliner A J, Erickson K, Chu KW, Soo Y, Cheng Y, Haller JA (2015). Intravitreal aflibercept for macular edema following branch retinal vein occlusion: the 24-week results of the VIBRANT study. Ophthalmology, 122 (3), 538-44. 8. Cugati S, Wang JJ, Rochtchina E, et al (2006). Ten-year incidence of retinal vein occlusion in an older population: the Blue Mountains Eye Study. Arch Ophthalmol, 124 (5), pp. 726- 32. 9. Hoàng Thị Thu Hà, Hoàng Thị Phúc (2012). Kết quả điều trị tắc nhánh tĩnh mạch võng mạc hình thái thiếu máu bằng laser 532nm. Tạp chí Nhãn khoa Việt Nam, tr. 48-53. 10. Klein R, Moss SE, Meuer SM, Klein BE (2008). The 15-year cumulative incidence of retinal vein occlusion: the Beaver Dam Eye Study. Archives of ophthalmology, 126(4), pp. 513-518. 11. Lê Văn Thà (2012). Đối chiếu giữa soi đáy mắt và chụp mạch huỳnh quang trong chẩn đoán bệnh tắc tĩnh mạch võng mạc và sử dụng laser Diode đề phòng biến chứng. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Hà Nội. 12. Nguyễn Thị Kim Phụng, Trần Thị Phương Thu, Võ Quang Minh (2012). Đánh giá hiệu quả dùng Bevacizumab (Avastin) trong điều trị phù hoàng điểm do tắc tĩnh mạch trung tâm võng mạc. Tạp chí Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 16 (1), tr. 18 - 22. 13. Trần Lê Thùy Vân, Đỗ Như Hơn (2010). "Đánh giá kết quả điều trị bệnh tắc tĩnh mạch trung tâm võng mạc tại bệnh viện mắt trung ương trong 5 năm". Luận vănThạc sĩ. Đại học Y Hà Nội. Ngày nhận bài báo: 15/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 28/02/2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso_sanh_hieu_qua_ranibizumab_va_bevacizumab_trong_dieu_tri_p.pdf
Tài liệu liên quan