Tài liệu So sánh hiệu quả điều trị giữa lấy sỏi qua da nằm ngửa và nằm sấp: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 85
SO SÁNH HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ GIỮA LẤY SỎI QUA DA
NẰM NGỬA VÀ NẰM SẤP
Nguyễn Lê Quý Đông*, Lê Văn Hiếu Nhân*, Trần Thanh Nhân*, Phạm Phú Phát*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị giữa hai phương pháp điều trị lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa và
nằm sấp.
Bệnh nhân và phương pháp: Đây là nghiên cứu tiến cứu bệnh nhân được chia làm hai nhóm, được
thực hiện lấy sỏi qua da, nhóm I gồm những bệnh nhân được lấy sỏi qua da theo phương pháp nằm ngửa, để
hỗng vùng hông lưng và nhóm II gồm bệnh nhân được tiến hành lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp. Hai nhóm
này được tiến hành bởi cùng một phẫu thuật viên trong khoảng thời gian thứ 1 từ tháng 10 năm 2017 đến
tháng 8 năm 2018 và khoảng thời gian thứ 2 từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019, tại Bệnh viện
Bình Dân. Các yếu tố được so sánh bao gồm đặc điểm bệnh nhân, đặc điểm sỏi và các yếu tố liên quan đến
cuộc mổ và sau...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 396 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh hiệu quả điều trị giữa lấy sỏi qua da nằm ngửa và nằm sấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 85
SO SÁNH HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ GIỮA LẤY SỎI QUA DA
NẰM NGỬA VÀ NẰM SẤP
Nguyễn Lê Quý Đông*, Lê Văn Hiếu Nhân*, Trần Thanh Nhân*, Phạm Phú Phát*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị giữa hai phương pháp điều trị lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa và
nằm sấp.
Bệnh nhân và phương pháp: Đây là nghiên cứu tiến cứu bệnh nhân được chia làm hai nhóm, được
thực hiện lấy sỏi qua da, nhóm I gồm những bệnh nhân được lấy sỏi qua da theo phương pháp nằm ngửa, để
hỗng vùng hông lưng và nhóm II gồm bệnh nhân được tiến hành lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp. Hai nhóm
này được tiến hành bởi cùng một phẫu thuật viên trong khoảng thời gian thứ 1 từ tháng 10 năm 2017 đến
tháng 8 năm 2018 và khoảng thời gian thứ 2 từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019, tại Bệnh viện
Bình Dân. Các yếu tố được so sánh bao gồm đặc điểm bệnh nhân, đặc điểm sỏi và các yếu tố liên quan đến
cuộc mổ và sau mổ được ghi nhận.
Kết quả: Có 91 bệnh nhân (50 nam: 41 nữ) được tiến hành nghiên cứu và được chia làm hai nhóm,
nhóm I gồm 61 bệnh nhân được lấy sỏi qua da tư thế ngửa và nhóm II gồm 30 bênh nhân được lấy sỏi qua
da tư thế nằm sấp. Trong khoảng thời gian thứ 1 có 30 trường hợp lấy sỏi qua da tư thế ngửa và 30 trường
hợp lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp, trong khoảng thời gian thứ 2 chỉ có 31 trường hợp tán sỏi qua tư thế
ngửa. Những đặc điểm bệnh nhân giữa 2 nhóm như tuổi và chỉ số khối cơ thể là như nhau. Về kích thước sỏi
giữa hai nhóm (nhóm I: 27,2 ± 11,6 mm, nhóm II: 22,8 ± 12,8 mm) sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê,
p> 0,05. Trong giai đoạn 1 của nghiên cứu, thời gian mổ với tư thế nằm ngửa tương đương so với (sv) tư
thế nằm sấp (115,3 ± 15,75 phút sv 123,09 ± 29,5 phút). Tuy nhiên, ở giai đoạn 2 thì thời gian mổ của nhóm
tư thế nằm ngửa ngắn hơn đáng kể (84,98 ± 35,7 phút). Tỉ lệ sạch sỏi của tư thế nằm ngửa thì thấp hơn so
với tư thế nằm sấp (70,5% sv 80%), tuy nhiên khi phân độ tỉ lệ sạch sỏi theo phân độ sỏi Guy thì giữa 2
nhóm tư thế sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p>0,05. Tỉ lệ biến chứng ở nhóm nằm ngửa cao hơn so
với nằm sấp (11,4% sv 0%) và đa số gặp ở những trường hợp đầu tiên.
Kết luận: Khi so sánh với lấy sỏi qua da tư thế nằm sấp, tư thế nằm ngửa có thời gian phẫu thuật ngắn hơn
với tỉ lệ sạch sỏi theo phân độ Guy là tương đương. Biến chứng của tư thế nằm ngửa ban đầu nhiều hơn nằm
sấp, nhưng về sau mức độ biến chứng giữa hai nhóm là như nhau.
Từ khóa: lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa và nằm sấp
ABSTRACT
SUPINE VERSUS PRONE POSITION IN PERCUTANEOUS NEPHROLITHOTOMY: A
COMPARATIVE STUDY
Nguyen Le Quy Dong, Le Van Hieu Nhan, Tran Thanh Nhan, Pham Phu Phat
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 85 – 90
Objectives: To evaluate the outcomes between the supine and prone position in percutaneous
nephrolithotomy (PCNL).
Methods: A prospective study with 2 groups, group I was for supine, flank – free, position and group II were
for prone position. Two groups were undergone PCNL by one surgeon in the first period from October 2017 to
*Khoa Niệu A – Bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Lê Quý Đông ĐT: 0938671066 Email: dongurology@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 86
August 2018 and the second period from September 2018 to March 2019 in Binh Dan Hospital. The patient
characteristics, the stone diameter, intra-operation and post-operation factors were compared.
Result: There were 91 patients (50 male: 41 female) undergone PCNL and divided into 2 groups, group I
was 61 patients for supine PCNL and group 2 was 30 patients for prone PCNL. In the first period, there were 30
cases with supine PCNL and 30 cases with prone; in the second period there were only 31 cases with supine.
Patient characteristics such as age and BMI were the same in 2 groups. The difference in stone size (group I: 27.2
± 11.6 mm, group II: 22.8 ± 12.8 mm) was not statistics significant. In the first period, the mean operation time in
supine PCNL was approximate with prone PCNL (115.3 ± 15.75 mins vs 123.09 ± 29.5 mins). However, in the
second period, the mean operation time of supine position was reduced radically (84.98 ± 35.7 mins). The overall
stone free rate of supine PCNL were lower than prone PCNL (70.5% vs 80%), however classification the stone
free rate according to the Guy stone score, there was no difference in statistics with p>0.05. The complications in
supine position were higher than prone (11.4% vs 0%) but most of cases were in the first period.
Result: In comparison with prone PCNL, supine PCNL was shorter in operation time with the similar stone
free rate classified by Guy stone score. The complications were the higher in supine but most of complicated cases
were in the first period time, after this time two surgical positions were the same rate of complications.
Keywords: the outcomes between the supine and prone position in percutaneous nephrolithotomy
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lấy sỏi qua da là lựa chọn hàng đầu cho
bệnh nhân có sỏi thận với kích thước lớn, hơn 2
cm(10). Thông thường, phẫu thuật lấy sỏi qua da
được thực hiện qua tư thế nằm sấp cho bề mặt
đâm kim rộng hơn và với giả thiết rằng về mặt
giải phẫu tiếp cận thận từ mặt sau thì trực tiếp
và dễ dàng hơn(5).
Tuy nhiên, tư thế nằm sấp có nhiều bất lợi về
mặt gây mê, tốn thời gian trong việc chuyển tư
thế, nguy cơ phơi nhiễm tia X cho phẫu thuật
viên nhiều hơn và gây thay đổi hô hấp, tuần
hoàn của bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật
nhiều hơn(2). Để khắc phục những nhược điểm
trên và những giữ nguyên hiệu quả điều trị của
phẫu thuật lấy sỏi qua da, cũng như với sự hiểu
biết rõ ràng hơn về giải phẫu thận, tư thế nằm
ngửa được ra đời(9,10). Tư thế nằm ngửa được giới
thiệu đầu tiên vào năm 1987 bởi tác gỉa Valdivia
với nhiều ưu điểm được ghi nhận như không
tốn thời gian thay đổi tư thế, mang lại nhiều sự
thuận tiện cho bác sĩ và bệnh nhân(3), ngoài ra có
thể kết hợp được với nội soi ngược dòng từ dưới
lên mang lại tỉ lệ sạch sỏi cao hơn(8).
Ở Việt Nam, kĩ thuật lấy sỏi qua da, tư thế
nằm sấp, được thực hiện lần đầu tiên vào năm
1997 bởi tác giả Ty và cộng sự(12). Năm 2017,
tác giả Đông và cộng sự đã báo cáo kết quả
những trường hợp lấy sỏi qua da với tư thế
nằm ngửa đầu tiên tại Việt Nam(6,7) với kết quả
khả quan. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào
so sánh trực hiệu quả điều trị giữa hai phương
pháp, chính vì thế chúng tôi tiến hành thực
hiện nghiên cứu này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Đây là nghiên cứu tiến cứu được thực hiện
trên những bệnh nhân có sỏi thận, loại trừ nhiễm
khuẩn niệu chưa điều trị hoặc những trường
hợp bất thường về rối loạn đông máu. Những
bệnh nhân được lựa chọn được chia làm hai
nhóm, nhóm I được thực hiện lấy sỏi qua da với
tư thế nằm ngửa, nhóm II được thực hiện lấy sỏi
qua da với tư thế nằm sấp. Cả hai nhóm bệnh
nhân được thực hiện bởi cùng một bác sĩ phẫu
thuật. Thời gian thực hiện từ tháng 10 năm 2017
đến tháng 3 năm 2019, được chia làm 2 giai
đoạn; giai đoạn 1 từ tháng 10 năm 2017 đến
tháng 8 năm 2018 và giai đoạn 2 từ tháng 9 năm
2018 đến tháng 3 năm 2019, bởi vì bác sĩ phẫu
thuật đã thành thục kĩ thuật nằm sấp từ trước,
còn đối với kĩ thuật nằm ngửa thì cần thời gian
để thành thục và sau khi đã thành thục với tư
thế nằm ngửa tác giả không còn làm tư thế nằm
sấp nữa.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 87
Đánh giá trước mổ
Bệnh nhân được đánh giá trước mổ bao gồm
bệnh sử, thăm khám lâm sàng, những xét
nghiệm tiền phẫu cơ bản, được chụp CT- scan hệ
niệu có cản quang để đánh giá vị trí sỏi, mức độ
ứ nước của thận và cấu trúc giải phẫu của hệ
thống đài bể thận. Tất cả bệnh nhân đều được
cấy nước tiểu trước mổ để xác định có hay
không tình trạng nhiễm trùng tiểu.
Kích thước sỏi được xác định theo chiều dài
nhất của sỏi trên CT- scan, trong trường hợp có
nhiều sỏi, kích thước sỏi được tính theo tổng
chiều dài nhất của từng viên sỏi. Số lượng và vị
trí sỏi được phân loại theo bảng phân loại Guy
về sỏi thận.
Tất cả bệnh nhân đều được nhập viện một
ngày trước mổ và được sử dụng kháng sinh dự
phòng một liều trước mổ với cephalosporin thế
hệ thứ 2.
Kĩ thuật tiến hành
Tư thế nằm ngửa để hở vùng hông lưng
Bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm ngửa,
dùng hai gối độn ở vùng lưng và ở vùng mông
thiết lập tư thế bệnh nhân nghiêng 20 đến 30
độ so với mặt phẳng ngang, nghiêng qua đối
bên với bên có sỏi và để hở vùng hông lưng.
Tay bệnh nhân cùng bên có sỏi được bắt chéo
qua ngực, chân bệnh nhân cùng bên với sỏi
được duỗi thẳng còn chân đối bên sỏi được
dạng ra ngoài (Hình 1), cố định tư thế bệnh
nhân bằng dây ràng. Xác định các mốc giải
phẫu, đường nách sau, xương sườn số 12 và
mào chậu. Vùng chọc dò là vùng dưới đường
nách sau và từ khoảng bờ dưới xương sườn số
12 đến trên mào chậu.
Tư thế bệnh nhân nằm sấp
Bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm sấp, sử
dụng một gối đệm đặt dưới bụng và hai chân
gập để kéo vị trí thận đi xuống và làm tăng bề
mặt phẫu thuật (Hình 2).
Kĩ thuật đâm kim
Tiến hành đâm kim dưới hướng dẫn của
C-arm và xác định đường vào đỉnh đài thận
bằng kĩ thuật hai mặt phẳng, một mặt phẳng
đứng và một mặt phẳng nghiêng.
Theo dõi hậu phẫu
Chúng tôi theo dõi bệnh nhân hậu phẫu. Các
diễn tiến bất thường và biến chứng trong quá
trình hậu phẫu được ghi nhận và phân loại theo
tiêu chuẩn Clavien - Dildo.
Tỉ lệ sạch sỏi được đánh giá trong quá trình
hậu phẫu bằng KUB và siêu âm bụng tổng quát.
Bệnh nhân được đánh giá là sạch sỏi khi trên
KUB và siêu âm sỏi vụn dưới 5 mm.
Hình 1: Tư thế bệnh nhân trong lấy sỏi qua da nằm ngửa để hở vùng hông. a) Hướng nhìn ngang: số 1 và 2 là vị
trí lần lượt gối độn dưới lưng và dưới mông, và được cố định bằng dây ràng. b) Hướng nhìn chếch: tư thế bệnh
nhân nghiêng khoảng 20 -30 độ so mới mặt phẳng ngang
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 88
Hình 2: Hình bệnh nhân ở tư thế nằm sấp, sử dụng
một gối độn ở vùng bụng và hai chân gập, để di
chuyển thận xuống phía dưới
KẾT QUẢ
Trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm
2017 đến tháng 3 năm 2019 có 91 trường hợp
được tiến hành lấy sỏi qua da, trong đó 61
trường hợp được lấy sỏi qua da theo tư thế nằm
ngửa và 30 trường hợp tiến hành lấy sỏi qua da
theo tư thế nằm sấp. Đặc điểm bệnh nhân giữa
hai nhóm nằm ngửa và nằm sấp là gần như
nhau (Bảng 1).
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân giữa hai nhóm tư thế
nằm ngửa và nằm sấp
Những đặc điểm Tư thế nằm ngửa Tư thế nằm sấp
Số lượng bệnh nhân 61 30
Tỉ lê Nam: nữ 33:29 17:11
Độ tuổi (năm) 49,51 ± 11,84 50,4 ± 15,1
Chỉ số khối cơ thể
(kg/m
2
)
23,67 ± 3,67 24,0 ± 2,7
Kích thước sỏi tính theo chiều dài nhất ở
những bệnh nhân nằm ngửa lớn hơn so với nằm
sấp, (27,2 ± 11,6 ± 12,8 mm sv 22,8 mm; p<0,05).
Nếu phân loại mức độ khó của những trường
hợp sỏi thận theo phân độ Guy, với qui ước là
sỏi khó là những sỏi ở mức độ phân loại Guy 3
hoặc Guy 4, thì những trường hợp phẫu thuật
nằm ngửa có độ khó cao hơn những trường hợp
nằm sấp, tỉ lệ sỏi phân độ Guy 3 và Guy 4 của
nằm lấy sỏi qua nằm ngửa so với nằm sấp,
(26,2% sv 0%) (Bảng 2).
Bảng 2: Đặc điểm kích thước và phân độ Guy sỏi
thận giữa hai tư thế phẫu thuật nằm ngửa và nằm
sấp
Những đặc điểm Tư thế nằm ngửa Tư thế nằm sấp
Kích thước sỏi
(mm)
27,2 ± 11,6 22,8 ± 12,8
Phân độ sỏi thận Guy
Guy 1 18 (29,5%) 10 (33,3%)
Guy 2 27 (44,3%) 20 (66,6%)
Guy 3 10 (16,4%) Không ghi nhận
Guy 4 6 (9,8%) Không ghi nhận
Về thời gian phẫu thuật trung bình, trong
giai đoạn đầu tiên thì thời gian giữa phẫu thuật
lấy sỏi qua nằm ngửa tương đương với lấy sỏi
qua da nằm sấp (115,3 ± 15,75 phút sv
123,09±29,5 phút, p>0,05). Qua giai đoạn 2, thời
gian phẫu thuật trung bình nằm ngửa ngắn hơn
đáng kể (84,98 ± 35,7 phút). Về tỉ lệ sạch sỏi của
tư thế nằm ngửa thấp hơn với nằm sấp (70,5% sv
80%), tuy nhiên nếu phân tỉ lệ sạch sỏi theo phân
độ sỏi thận Guy thì tỉ lệ sạch sỏi của hai nhóm
không có ý nghĩa thống kê, p >0,05 (Bảng 3).
Đối với những sỏi đơn gỉản (Guy 1 hay Guy
2) thì tỉ lệ sạch sỏi trong nghiên cứu cao còn đối
với những sỏi phức tạp (Guy 3 hay Guy 4) thì tỉ
lệ sạch sỏi còn thấp dưới 50%.
Bảng 3: Những kết quả ghi nhận trong quá trình phẫu thuật giữa hai tư thế lấy sỏi qua da. Với giai đoạn 1 từ
tháng 10 năm 2017 đến tháng 8 năm 2018 và giai đoạn 2 từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019
Những đặc điểm Tư thế nằm ngửa trong giai
đoạn 1 (n=30)
Tư thế nằm ngửa trong giai
đoạn 2 (n=31)
Tư thế nằm sấp
(n= 30)
Thời gian phẫu thuật trung bình (phút) 115,3 ± 15,75 84,98 ± 35,7 123,09 ± 29,5
Tỉ lệ sạch sỏi 70% 70,.9% 80%
Guy 1 87,5% 90% 90%
Guy 2 76,9% 78,5% 75%
Guy 3 50% 50% Không ghi nhận
Guy 4 33% 0% Không ghi nhận
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 89
Tỉ lệ biến chứng của lấy sỏi qua da tư thế
nằm ngửa so với nằm sấp (11,1% vs 0%), đa số
các biến chứng, 6 trường hợp xảy ra ở giai đoạn
1 và ở giai đoạn 2 thì chỉ có 1 trường hợp biến
chứng ở tư thế nằm ngửa, đó là trường hợp
nhiễm khuẩn huyết sau tán sỏi. Trong nghiên
cứu không ghi nhận bất kì trường hợp nào tổn
thương các cơ quan lân cận (Bảng 4).
Bảng 4: Biến chứng của lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa, phân loại theo Clavien – Dildo và cách xử trí
Số thự tự của
trường hợp
Biến chứng Số lượng
Phân loại theo
Clavien – Dildo
Xử trí Lý do
1 Rò nước tiểu 1 I Quan sát Rách chủ mô thận
2 Chảy máu sau mổ 1 IIIb
Chuyển mổ cấp cứu, khâu
chủ mô cầm máu
Sai kĩ thuật khi đâm đài trên
12
Tụ máu khoang sau
phúc mạc
1 IIIb
Chuyển mổ hở dẫn lưu ổ tụ
dịch
Tuột thông thận ra da
16
Tiểu máu (túi giả
phình)
1 IIIb Thuyên tắc mạch
Đâm và nong thận làm rách
cổ đài thận
28
Hạ hemoglobin sau
mổ
1 II Truyền hồng cầu lắng
Mô xung quanh thận viêm
dính nhiều
25,48 Nhiễm khuẩn huyết 2 II Dùng kháng sinh phối hợp
Bệnh nhân có sỏi san hô và
bạch cầu niệu
Các biến chứng có thể chia thành 2 nhóm
nguyên nhân do sai kĩ thuật và nhiễm trùng.
Biến chứng do sai kĩ thuật thường đa số xảy ra
trong giai đoạn 1. Qua giai đoạn 2 thì biến chứng
do sai kĩ thuật không còn xảy ra, chỉ có biến
chứng do nhiễm trùng.
BÀN LUẬN
Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam, so
sánh hiệu quả điều trị giữa tư thế lấy sỏi qua da
tư thế nằm ngửa và lấy sỏi qua da nằm sấp. Một
trong những ưu điểm chúng tôi thấy ở tư thế lấy
sỏi qua da nằm ngửa là rút ngắn đáng kể thời
gian phẫu thuật khoảng từ 30 phút do không cần
tốn thời gian thay đổi tư thế sau khi đặt thông
niệu quản. Ghi nhận này của chúng tôi phù hợp
với kết quả của nghiên cứu phân tích tổng hợp
từ Liu và cộng sự(4) so sánh kết quả điều trị giữa
tư thế nằm ngửa và tư thế nằm sấp, theo đó tư
thế nằm ngửa sẽ tiết kiệm được thời gian so với
tư thế nằm sấp khoảng 25 phút.
Trong nghiên cứu, tỉ lệ sạch sỏi toàn bộ của
tư thế nằm ngửa là thấp hơn so với tư thế nằm
sấp. Các yếu tố gây sót sỏi trong nghiên cứu là
kinh nghiệm của phẫu thuật viên, mức độ khó
của sỏi thận và nghiên cứu chỉ tiến hành lấy sỏi
qua da với một đường vào. Khi phẫu thuật viên
đã có kinh nghiệm thì tỉ lệ sạch sỏi của tư thế
nằm ngửa, khi chia theo phân độ Guy về mức độ
khó, thì tương đương với tư thế nằm sấp, theo
ghi nhận trong nghiên cứu này tư thế nằm ngửa
giúp cho những mảnh sỏi vụn có thể trôi ra
ngoài vỏ Amplatz theo trọng lực. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu đa trung tâm vể lấy sỏi qua da
trên 5000 bệnh nhân(10), thì tỉ lệ sạch sỏi của lấy
sỏi qua da nằm ngửa lại thấp hơn so với lấy sỏi
qua da nằm sấp (70% sv 77%), nguyên nhân chủ
yếu là do phẫu thuật viên chưa quen với
phương pháp lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa,
thiếu thốn trang thiết bị phù hợp, hoặc mức độ
khó giữa hai nhóm bệnh nhân khác nhau. Một
trong những lợi điểm khác của tư thế nằm ngửa
có thể làm tăng tỉ lệ sạch sỏi, tư thế nằm ngửa có
thể dễ dàng kết hợp với nội soi mềm ngược
dòng, việc này ngoài việc giúp làm tăng tỉ lệ sạch
sỏi còn làm giảm khả năng tiếp cận thận nhiều
đường vào(8).
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì tỉ lệ biến
chứng của lấy sỏi qua nằm ngửa cao hơn so với
nằm sấp. Các biến chứng có thể chia làm 2 nhóm
nguyên nhân, sai kĩ thuật và nhiễm trùng, đa số
các biến chứng là do sai kĩ thuật 5/7 (71,5%)
trường hợp chúng tôi ghi nhận được xảy ra vào
trong khoảng thời gian thứ 1 khi bắt đầu làm,
trong khoảng thời gian thứ 2 thì tỉ lệ biến chứng
do sai kĩ thuật của tư thế nằm ngửa không còn
nữa (Bảng 4). Biến chứng nhiễm trùng gặp trong
2 trường hợp, đó là trường hợp bệnh nhân có sỏi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 90
thận san hô và có bạch cầu niệu, cả hai trường
hợp này đều hồi phục hoàn toàn sau khi dùng
kháng sinh kết hợp. So sánh tỉ lệ biến chứng của
tư thế nằm ngửa trong nghiên cứu của chúng tôi
với các nghiên cứu khác với tỉ lệ biến chứng từ
Scoffone(8) là 38,6%, từ DeSio(1) là 17%, thì tỉ lệ
biến chứng trong nghiên cứu của chúng tôi
(11,4%) thấp hơn đáng kể.
Ngoài những ưu điểm của tư thế nằm ngửa
so với nằm sấp đã nghi nhận trong những
nghiên cứu trước của tác giả Đông(6,7), chúng tôi
thấy tư thế nằm ngửa có một số những điểm khó
khăn thi thực hiện, bề mặt đâm kim giới hạn,
khoảng cách từ điểm vào ở da đến tiếp cận sỏi
dài hơn, thận di động nhiều gây khó khăn trong
quá trình nong thận. Những khó khăn này khiến
tác giả phải mất thời gian để thành thục.
Điểm hạn chế của nghiên cứu là sự lựa chọn
bệnh nhân để thực hiện lấy sỏi qua da tư thế
nằm ngửa so với tư thế nằm sấp không có sự
ngẫu nhiên nên giữa 2 nhóm bệnh nhân dẫn đến
sự sai lệch kết quả do chọn mẫu. Một điểm hạn
chế nữa trong nghiên cứu này là đường cong
học tập của tư thế nằm ngửa, tác giả lúc bắt đầu
thực hiện đã quá thành thục với tư thế nằm sấp
còn tư thế nằm ngửa tác giả phải thực hiện
khoảng 20 trường hợp để đạt được sự thành
thục điểu này ảnh hưởng đến việc so sánh
những yếu tố liên quan đến quá trình phẫu thuật
và tỉ lệ biến chứng sau phẫu thuật.
KẾT LUẬN
Lấy sỏi qua da tư thế nằm ngửa, khi bác sĩ đã
đạt được số lượng trường hợp để hoàn thành
đường cong học tập, có thời gian phẫu thuật
ngắn hơn, tỉ lệ sạch sỏi theo phân độ Guy và tỉ lệ
biến chứng là tương đương khi so sánh với tư
thế nằm sấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. De Sio M, Autorino R, Quarto G, Calabrò F, Damiano R,
Giugliano F, et al (2008). “Modified supine versus prone
position in percutaneous nephrolithotomy for renal stones
treatable with a single percutaneous access: a prospective
randomized trial”. Eur Urol; 54:196-202.
2. Grasso M, Nord R, Bagley DH (1993). “Prone split leg and flank
roll positioning: simultaneous antegrade and retrograde access
to the upper urinary tract”. J Endourol; 7:307-10.
3. Ibarluzea G, Scoffone CM, Cracco CM, Poggio M, Porpiglia F,
Terrone C, et al (2007). “Supine Valdivia and modified
lithotomy posi- tion for simultaneous anterograde and
retrograde endourologi- cal access”. BJU Int; 100:233-6.
4. Liu L, Zheng S, Xu Y, Wei Q (2010). “Systematic review and
meta- analysis of percutaneous nephrolithotomy for patients in
the supine versus prone position”. J Endourol; 24:1941-6.
5. Miano R, Scoffone C, De Nunzio C, Germani S, Cracco C, Usai
P, et al (2010). “Position: prone or supine is the issue of
percutaneous nephrolithotomy”. J Endourol; 24:931-8.
6. Nguyễn Lê Quý Đông (2018). “Đánh giá phẫu thuật lấy sỏi qua
da tư thế nằm ngửa”. Tạp chí Y học Việt Nam.
7. Nguyễn Lê Quý Đông (2018). “Đánh giá an toàn và hiệu quả
của phẫu thuật lấy sỏi qua da nằm ngửa: Những kinh nghiệm
đầu tiên”. Y học Tp. Hồ Chí Minh.
8. Scoffone CM, Cracco CM, Cossu M, Grande S, Poggio M, Scarpa
RM (2008). “Endoscopic combined intrarenal surgery in
Galdakao-modified supine Valdivia position: a new standard
for percutaneous nephrolithotomy?”. Eur Urol; 54:1393-403.
9. Steele D, Marshall V (2007). “Percutaneous nephrolithotomy in
the supine position: a neglected approach?”. J Endourol; 21:1433-
7
10. Turk C, Knoll T, Petrik A (2015). “Guidelines on urolithiasis”.
EAU.
11. Valdivia JG, Scarpa RM, Duvdevani M, Gross AJ, Nadler RB,
Nutahara K, et al (2011). “Supine versus prone position during
percutaneous nephrolithotomy: a report from the clinical
research office of the endourological society percutaneous
nephrolitomy global study”. J Endourology; 25:1619 – 25.
12. Vũ Văn Ty (2000). “Lấy sạn thận nội soi qua da tại bệnh viện
Bình Dân”. Y học TP. Hồ Chí Minh, 7(1):50-51.
Ngày nhận bài báo: 01/04/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2019
Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_hieu_qua_dieu_tri_giua_lay_soi_qua_da_nam_ngua_va_na.pdf