Tài liệu So sánh - Đối chiếu thành ngữ có hình ảnh con chuột trong tiếng Việt và tiếng Đức - Lê Thị Bích Thủy: 83KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc học tiếng Đức đối với nhiều người Việt
không hề đơn giản, học thành ngữ tiếng Đức lại
càng phức tạp hơn. Vì vậy, chúng tôi nghĩ cần có
những nghiên cứu so sánh-đối chiếu liên quan
tới cặp ngôn ngữ này, qua đó chỉ ra những điểm
tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ để giúp
cho người học một mặt gặp ít khó khăn hơn, mặt
khác hiểu rõ hơn về văn hóa Đức. Với mục đích
nêu trên, bài viết này tập trung vào nghiên cứu
đối chiếu thành ngữ tiếng Đức và tiếng Việt có sử
dụng hình ảnh con chuột, để qua đó thấy được sự
giống nhau và khác nhau của các nghĩa biểu trưng,
cũng như dấu ấn văn hóa của hai dân tộc trong các
thành ngữ đó.
LÊ THỊ BÍCH THỦY*
*Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, lethibichthuy78@gmail.com
Ngày nhận bài: 26/8/2018; ngày sửa chữa: 10/10/2018; ngày duyệt đăng: 20/12/2018
SO SÁNH-ĐỐI CHIẾU THÀNH NGỮ
CÓ HÌNH ẢNH CON CHUỘT
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ĐỨC
Trong bài...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 1013 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh - Đối chiếu thành ngữ có hình ảnh con chuột trong tiếng Việt và tiếng Đức - Lê Thị Bích Thủy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
83KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc học tiếng Đức đối với nhiều người Việt
không hề đơn giản, học thành ngữ tiếng Đức lại
càng phức tạp hơn. Vì vậy, chúng tôi nghĩ cần có
những nghiên cứu so sánh-đối chiếu liên quan
tới cặp ngôn ngữ này, qua đó chỉ ra những điểm
tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ để giúp
cho người học một mặt gặp ít khó khăn hơn, mặt
khác hiểu rõ hơn về văn hóa Đức. Với mục đích
nêu trên, bài viết này tập trung vào nghiên cứu
đối chiếu thành ngữ tiếng Đức và tiếng Việt có sử
dụng hình ảnh con chuột, để qua đó thấy được sự
giống nhau và khác nhau của các nghĩa biểu trưng,
cũng như dấu ấn văn hóa của hai dân tộc trong các
thành ngữ đó.
LÊ THỊ BÍCH THỦY*
*Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, lethibichthuy78@gmail.com
Ngày nhận bài: 26/8/2018; ngày sửa chữa: 10/10/2018; ngày duyệt đăng: 20/12/2018
SO SÁNH-ĐỐI CHIẾU THÀNH NGỮ
CÓ HÌNH ẢNH CON CHUỘT
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ĐỨC
Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng thao
tác thống kê, phân tích và tổng hợp, cũng như so
sánh đối chiếu các thành ngữ có yếu tố chỉ con
chuột trong tiếng Đức và tiếng Việt. Thành ngữ
tiếng Việt được chúng tôi tham khảo chủ yếu
trong “Từ điển Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao Việt
Nam. Quyển thượng” của Việt Chương (2005) và
“Thành ngữ học Tiếng Việt” của Hoàng Văn Hành
(2004). Thành ngữ tiếng Đức được tập hợp từ Từ
điển Duden Redewendungen: Wörterbuch der
deutschen Idiomatik (2012) và Lexikon der Zitate
und Redensarten.
Để phục vụ cho bài viết này, chúng tôi thống
kê được 23 thành ngữ có thành tố chỉ con chuột
trong tiếng Đức và 23 thành ngữ có thành tố chuột
TÓM TẮT
Bài viết nhằm mục đích chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt về ý nghĩa của các thành ngữ
tiếng Việt và tiếng Đức chứa thành tố chỉ con chuột. Bằng phương pháp miêu tả và so sánh, kết
hợp với các thao tác phân tích, thống kê và tổng hợp, bài viết cho thấy một số nét tương đồng
giữa thành ngữ trong hai ngôn ngữ trên: Hình ảnh con chuột chủ yếu gắn với nghĩa tiêu cực; các
thành ngữ đều mang giá trị giáo huấn, dạy dỗ, có tính phê phán, chê bai hay phàn nàn. Tuy nhiên,
mỗi ngôn ngữ đều có những nét đặc trưng riêng. Thành ngữ tiếng Việt phản ánh những nét đặc
trưng văn hóa của làng quê Việt Nam, trong khi đó thành ngữ tiếng Đức liên quan nhiều tới tín
ngưỡng,...
Từ khóa: chuột, thành ngữ, văn hóa
84 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
trong tiếng Việt1. Trong bài viết này chúng tôi
không muốn so sánh về mặt cấu trúc thành ngữ ở
hai ngôn ngữ, mà chỉ muốn so sánh hình ảnh con
chuột với các nét nghĩa biểu trưng cũng như dấu
ấn của hai nền văn hóa Đức và Việt được thể hiện
qua các thành ngữ có thành tố chỉ chuột trong tiếng
Đức và tiếng Việt.
2. QUAN NIỆM VỀ THÀNH NGỮ
2.1. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, thành ngữ được đa số tác giả
hiểu là cụm từ/ngữ/tổ hợp từ cố định (Hoàng Phê,
2003, tr.915; Nguyễn Thiện Giáp, 2002, tr.77; Mai
Ngọc Chừ, 2015, tr.190; Hoàng Văn Hành, 2004,
tr.27) và có giá trị biểu trưng về mặt nghĩa (Mai
Ngọc Chừ, 2015, tr.190). Ngoài ra, Hoàng Phê
(2003) cũng đề cập tới việc không thể giải thích
nghĩa tổng thể của thành ngữ bằng nghĩa của các
từ tạo nên nó. Trong số các định nghĩa của các tác
giả nêu trên, chúng tôi thấy quan điểm về thành
ngữ của Hoàng Văn Hành (2004, tr.27) diễn đạt
trọn vẹn nhất cách hiểu về thành ngữ: Đó là “một
loại tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái - cấu
trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về nghĩa, được sử dụng
rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong
khẩu ngữ.”
Như vậy, có thể thấy thành ngữ có hai đặc trưng
nổi bật là: 1) Tính ổn định, cố định về thành phần
từ vựng và cấu trúc; 2) Tính hoàn chỉnh và bóng
bẩy về nghĩa (Hoàng Văn Hành, 2004, tr.28-29).
Ví dụ: Thành ngữ Chuột chạy cùng sào có tính
ổn định rất cao. Không thể thay thế chuột bằng
mèo, hay sào bằng que trong thành ngữ trên, vì
khi đó nghĩa gốc của thành ngữ đó sẽ mất. Xét
về nghĩa, thành ngữ trên rất hoàn chỉnh, trọn vẹn;
ngoài ra nó còn có sự bóng bẩy về nghĩa, mang
tính hình tượng cao.
2.2. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Đức
Trong giới Đức ngữ học, thành ngữ được
nhiều tác giả cho là các cụm từ cố định mà nghĩa
tổng thể của nó không thể suy ra từ các thành tố
riêng lẻ (Duden Universal; Burger, 2007, tr. 11-12;
Fleischer và các tác giả khác, 2001, tr.108-109).
Như vậy, thành ngữ được đặt trong quan hệ đối lập
với các cấu trúc tự do (Fleischer, 2001, tr.108) hay
các cụm từ tự do (Burger, 2007, tr.12).
Theo Burger (2007), thành ngữ có những đặc
điểm chung sau đây: 1) Thành ngữ bao gồm ít nhất
là hai từ trở lên; 2) Các cấu phần của một thành
ngữ chỉ có thể được hiểu trong phạm vi của thành
ngữ đó, nếu một yếu tố thay đổi thì nghĩa của thành
ngữ sẽ mất đi, bị hiểu sai hoặc trở nên vô nghĩa; 3)
Sự khác nhau giữa nghĩa từ vựng và nghĩa thành
ngữ: nếu sự khác nhau càng lớn thì tính thành ngữ
càng cao.
Ví dụ: Thành ngữ Öl auf die Lampe gießen
được cho là có tính thành ngữ rất cao; người ta
không thể dựa vào nghĩa của từng từ trong thành
ngữ trên để suy ra nghĩa tổng thể của thành ngữ.
Nếu dịch từng từ trong thành ngữ trên, ta có “đổ
dầu vào đèn”. Tuy nhiên, nghĩa của thành ngữ trên
lại là “uống rượu”. Nếu thay từ “Lampe” (đèn)
bằng một từ khác, ví dụ như “Pfanne” (chảo)
thì nghĩa “uống rượu” của thành ngữ Öl auf die
Lampe gießen không còn nữa.
3. PHÂN BIỆT THÀNH NGỮ VỚI TỤC
NGỮ, CỤM TỪ CỐ ĐỊNH VÀ CỤM TỪ TỰ DO
Trong nghiên cứu của mình, Hoàng Văn Hành
(2004, tr.38) đã đưa ra những đặc trưng dùng làm
tiêu chí để nhận diện thành ngữ và tục ngữ, qua
đó làm nổi bật sự khác biệt giữa hai loại này. Các
đặc trưng đó là đặc trưng về hình thái cấu trúc, có
vần điệu, có đối điệp; chức năng biểu hiện nghĩa
định danh; chức năng biểu hiện hình thái nhận
thức và đặc trưng ngữ nghĩa. Ở ba đặc trưng đầu
tiên, thành ngữ có sự phân biệt rõ ràng với tục ngữ.
Trong khi thành ngữ là tổ hợp từ cố định, mang
quan hệ hình thái thì tục ngữ là câu cố định và
mang quan hệ cú pháp. Thành ngữ định danh sự
vật, hiện tượng, quá trình, biểu thị khái niệm bằng
hình ảnh biểu trưng, còn tục ngữ định danh sự tình,
sự kiện, trạng huống, biểu thị phán đoán bằng hình
tượng biểu trưng. Chỉ ở đặc trưng ngữ nghĩa thì ở
85KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
cả thành ngữ và tục ngữ, hai tầng ngữ nghĩa được
tạo bằng phương thức so sánh và ẩn dụ hóa.
Khác với Hoàng Văn Hành, Nguyễn Thiện
Giáp (2002, tr.79-86) lại phân biệt thành ngữ với
ngữ định danh và cụm từ tự do. Ông phân biệt
thành ngữ với ngữ định danh dựa trên các đặc
điểm về nội dung và về mặt cấu trúc cú pháp, phân
biệt với cụm từ tự do ở mặt hình thức và sự hoàn
chỉnh về nghĩa. Cụ thể thì thành ngữ là tên gọi gợi
cảm của hiện tượng nào đó, có ý nghĩa cụ thể, hình
thành ở phạm vi mà sự phản ánh đòi hỏi cần có
sự bình giá và biểu cảm, hay gặp quan hệ tường
thuật,...; còn ngữ định danh là tên gọi thuần túy
của sự vật, diễn đạt đồng thời quan hệ chủng và
loại, có cả diện chung và diện riêng của ý nghĩa,
hình thành ở phạm vi hoạt động trí tuệ của con
người, ít gặp quan hệ tường thuật. Thành ngữ khác
với cụm từ tự do ở tính hoàn chỉnh về nghĩa và tính
phi cú pháp trong quan hệ.
4. THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG
ĐỨC CÓ CHỨA HÌNH ẢNH CON CHUỘT
4.1. Thành ngữ tiếng Việt
Trong suy nghĩ của người Việt, khi nói tới
chuột, thường chúng ta nghĩ ngay tới con vật bẩn
thỉu, chuyên phá hoại, gây bệnh dịch, ăn vụng, ...,
tức là những ý nghĩ rất xấu về con vật này. Có
thể thấy điều này trong định nghĩa đầu tiên về
con chuột ở Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê, 2003,
tr.185). Vì thế, hình ảnh con chuột trong thành ngữ
tiếng Việt có thành tố “chuột” cũng thường gắn
liền với những ý nghĩa tiêu cực.
Trong số 23 thành ngữ có yếu tố “chuột” của
tiếng Việt, có tới 11 thành ngữ mang hàm ý phê
phán, chê bai. Liên quan tới chê bai về hình thức
có thể kể đến các thành ngữ sau đây: Hôi như
chuột chù dùng để chê bai về tính chất của ai đó
(có mùi rất hôi), còn Lù rù như chuột chù phải
khói được sử dụng để miêu tả dáng vẻ của một
người trông rất lù rù, kém tinh ranh. Ngoài các
thành ngữ trên thì các thành ngữ khác chủ yếu
chê bai về tính cách. Ví dụ thành ngữ Thì thụt như
chuột ngày hoặc biến thể là Nhấm nhắt như chuột
ngày xuất phát từ thực tế về thói quen sinh hoạt
của loài chuột là thường đi tìm thức ăn về đêm,
khi mọi người đã đi ngủ. Lúc đó chuột ăn vụng
dễ dàng hơn, không sợ bị bắt. Nhưng khi kiếm ăn
ban ngày, lúc mọi người đang thức, nó sẽ phải lén
lút hoạt động. Thành ngữ này chê bai những kẻ đi
lại, ra vào lén lút, làm việc ám muội. Chuột vốn là
loài hay phá hoại ngấm ngầm và trốn trong nhà mà
nhiều khi ta không biết. Đến khi cháy nhà, bị khói
hun thì chuột mới lộ ra. Tương tự như thế, trong
cuộc sống có những kẻ làm chuyện xấu một cách
ngấm ngầm và chỉ lộ chân tướng, bị phát hiện khi
có chuyện. Điều này có thể thấy trong thành ngữ
Cháy nhà ra mặt chuột. Thành ngữ Mèo mẹ bắt
chuột con cũng dùng để chê bai những người có
khả năng lớn nhưng lại chỉ làm những việc nhỏ.
Hay khi muốn chê những việc lúc đầu có vẻ to tát,
hoành tráng nhưng khi kết thúc lại gần như chẳng
có gì, rất đối lập với lúc đầu, người Việt dùng Đầu
voi đuôi chuột. Và để chê người ta làm được việc
này nhưng lại làm hỏng việc khác, người Việt có
thành ngữ Đánh chuột làm vỡ bình sứ/Ném chuột
vỡ lu, còn khi muốn chê ai đó không che dấu được
toàn bộ hành vi, sự việc và bị lộ một phần bí mật,
người Việt nói Chuột chạy hở đuôi. Những người
làm việc không tới nơi tới chốn sẽ bị chê là Dở dơi
dở chuột/Nửa dơi nửa chuột, còn những kẻ bày
cách cho kẻ xấu biết lối tránh tội, không bị trừng
phát sẽ bị phê phán là Bày đường cho chuột chạy.
Tiếng Việt có 6 thành ngữ có thành tố “chuột”
chỉ sự châm biếm. Trước hết có thể kể đến Chuột
gặm chân mèo. Mèo và chuột vốn là kẻ thù truyền
kiếp, thế mà chuột lại dám đến gần mèo, thậm chí
gặm chân mèo. Thành ngữ này chỉ hành động liều
lĩnh, nguy hiểm. Cũng đặt trong mối quan hệ với
mèo nhưng thành ngữ Chuột cắn dây cột mèo vừa
có giá trị phê phán, vừa có giá trị châm biếm, cười
những kẻ ngu muội cứu giúp kẻ thù của mình.
Tương tự như vậy, để phê phán và chê cười những
kẻ không ra gì nhưng lại tỏ vẻ, chúng ta có Chuột
chù đeo đạc; để phê phán, châm biếm những kẻ
xấu xa phải núp dưới vỏ hào nhoáng để che bớt
sự xấu xa của mình, người Việt dùng Chuột đội vỏ
trứng. Cũng châm biếm nhưng có tính trào phúng
86 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
là thành ngữ Chuột chù lại có xạ hương và Voi đú,
chó đú, chuột chù cũng nhảy cẫng. Ở thành ngữ
đầu tiên, ta thấy chuột chù vốn rất hôi, vậy mà lại
khoe là mình thơm. Dựa trên ý đó, thành ngữ này
hàm ý chỉ những kẻ không có tài cán gì nhưng lại
khoe mẽ. Trong khi đó thành ngữ thứ hai cười chê
những kẻ đua đòi, thích bắt chước người khác một
cách ngu ngốc, vì thế trở nên lố bịch.
Ngoài những thành ngữ mang tính phê phán,
châm biếm hay trào phúng kể trên, các thành ngữ
trong tiếng Việt có thành tố chuột (5) còn cho thấy
triết lý sống hoặc những bài học giáo huấn/bài học
kinh nghiệm. Khi nói về việc làm những chuyện
vừa sức, phù hợp với khả năng, người Việt dùng
Mèo nhỏ bắt chuột con; nói về sự cần cù, nhẫn nại
khi làm việc gì đó giống như con mèo rình chuột,
người Việt nói Rình như mèo rình chuột. Trong
cuộc sống có những lúc chúng ta rơi vào tình trạng
nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng thì không khác
nào chuột sa cũi mèo, hoặc khi tình thế đến bước
đường cùng, con người cũng giống như chuột chạy
cùng sào, hay bỗng nhiên được sống trong một gia
đình giàu có, sung túc thì chẳng khác nào chuột sa
chĩnh gạo/chuột sa hũ nếp/chuột sa lọ mỡ. Triết lý
là người đã nhiều tuổi sẽ không còn bạo gan như
những thanh niên trẻ tuổi nữa được thể hiện qua
thành ngữ Mèo già lại thua gan chuột nhắt.
Trong số 23 thành ngữ được lựa chọn để nghiên
cứu, chỉ có duy nhất một thành ngữ dùng hình ảnh
con chuột để miêu tả hình dáng bên ngoài của con
người khi họ bị ướt sũng. Đó là thành ngữ Ướt như
chuột lột.
Bên cạnh các nét nghĩa biểu trưng được trình
bày ở trên, các thành ngữ có hình ảnh chuột còn
ghi đậm khá rõ dấu ấn văn hóa Việt. Ví dụ qua
thành ngữ Chuột sa chĩnh gạo/Chuột sa hũ nếp/
Chuột sa lọ mỡ, ta có thể thấy Việt Nam là một
nước nông nghiệp, lương thực chính là gạo, ngoài
ra người Việt cũng hay dùng gạo nếp làm lương
thực, thay vì dùng dầu ăn như hiện nay thì trước
đây họ lại dùng mỡ để nấu ăn. Hay hình ảnh cây
sào cũng rất quen thuộc với nông thôn Việt Nam,
nhất là trong quá khứ. Theo Việt Chương (2005,
tr.319), những người nông dân trước đây thường
gác cây sào trong nhà để vắt quần áo hay treo đồ
đạc, vì vậy mới có hình ảnh Chuột chạy cùng sào,
chuột mà leo lên sào, bị đuổi thì chỉ còn đường
chạy từ đầu nọ sang đầu kia, để rồi cuối cùng cũng
sẽ bị bắt. Ở nông thôn Việt Nam, để mèo không đi
lang thang sang nhà khác, người ta cũng hay dùng
dây để cột con mèo lại, vì thế mới có thành ngữ
Chuột cắn dây cột mèo. Ngoài ra, còn một số hình
ảnh khác đặc trưng cho văn hóa của Việt Nam như
bình sứ hay cái lu; đây vốn là những thứ rất quý
giá đối với người dân Việt thời xưa; vì thế mới có
thành ngữ Đánh chuột làm vỡ bình sứ/Ném chuột
vỡ lu.
4.2. Thành ngữ tiếng Đức
Trong số 23 thành ngữ tiếng Đức có hình ảnh
chuột, có 10 thành ngữ được dùng để phê phán,
chê bai hay phàn nàn. Để phê phán ai đó có cách
hành xử không ổn, để cho người khác phải chờ đợi
quyết định của mình quá lâu nhưng cuối cùng lại
đưa ra một quyết định có tính tiêu cực, làm người
kia thất vọng, người Đức dùng thành ngữ Mit
jemandem Katz und Maus spielen (Chơi trò mèo
và chuột). Để chỉ những người đã một lần ăn cắp
thì sẽ luôn lặp lại chuyện đó trong những lần sau,
người Đức sử dụng Die Katze lässt das Mausen
nicht (Mèo không để chuột yên). Tương tự như
vậy, để miêu tả cách hành xử hỗn láo, xấc xược
của người nào đó, tiếng Đức dùng sich mausig
machen. Khi phàn nàn, kêu ca về một hoàn cảnh,
sự việc nào đó không ổn, người Đức có thành ngữ
Mäuse merken/riechen (Nhận ra/ngửi thấy chuột)
hay Das ist eine Maus im Mehl (Có một con chuột
trong đống bột mì). Từ thực tế là khi con chuột
(màu xám) ở trong đống bột mì màu trắng thì sẽ
bị phát hiện ra ngay, và rõ ràng là đống bột có vấn
đề. Cũng mang nghĩa phàn nàn, nhưng thành ngữ
zum Mäusemelken sein (Vắt sữa chuột) lại miêu
tả tâm trạng bực mình, phát điên lên vì việc gì đó.
Thành ngữ này xuất phát từ thực tế là: Vắt sữa
chuột là một công việc hết sức khó khăn và không
hề dễ chịu chút nào. Khi phàn nàn về việc dù đã
rất cố gắng, đã tư vấn hết sức xong vẫn không
thu được kết quả như ý, người Đức nói Der Berg
87KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
kreißt und gebar eine Maus (Quả núi trở dạ rồi
sinh ra một con chuột). Để chê bai cái gì đó quá
ít ỏi, người Đức dùng thành ngữ Das trägt eine
Maus auf dem Schwanze fort (Cái đó thì một con
chuột cũng mang được trên cái đuôi của mình).
Sự chê bai còn thấy ở thành ngữ graue Maus (Con
chuột xám) vốn dùng để chỉ một người không có
gì nổi bật, ở thành ngữ weiße Mäuse sehen (nhìn
thấy chuột trắng) vốn dùng để miêu tả tình trạng
tâm lý bị ảo giác.
So với các thành ngữ mang tính phê phán, chê
bai, phàn nàn thì các thành ngữ có tính châm biếm
ít hơn hẳn (1): Có thể thấy một chút châm biếm
nhẹ nhàng ở (Vor Scham/Angst) am liebsten in ein
Mauseloch kriechen (chỉ muốn bò ngay vào hang
chuột do xấu hổ/sợ hãi) khi nói tới tâm lý rất xấu
hổ/sợ hãi của ai đó.
Số lượng các thành ngữ chỉ sự bông đùa cũng
rất ít (2): Khi muốn đùa bỡn, người Đức dùng hình
ảnh những con chuột trắng weiße Mäuse để chỉ
cảnh sát giao thông trong trang phục màu trắng;
hay muốn đe dọa bông đùa người Đức nói dass
dich das Mäuslein beißt (Chuột nhắt cắn đấy),
nhưng thực chất thành ngữ này lại có nghĩa là “cậu
điên à?”.
Bên cạnh đó, người Đức cũng đưa ra triết lý,
giáo huấn thông qua các thành ngữ có thành tố
chuột (9): Khi khuyên ai đó muốn đạt được nhiều
thứ thì phải dùng đúng mồi, trong tiếng Đức có
thành ngữ Mit Speck fängt man Mäuse (Dùng thịt
mỡ sẽ bắt được chuột). Hoặc cũng từ việc đúc rút
kinh nghiệm trong cuộc sống, người Đức thấy
những phụ nữ lớn tuổi cũng muốn tìm kiếm các
chàng trai trẻ, giống như những con chuột già
cũng thích ăn thịt mỡ như trong thành ngữ Alte
Mäuse fressen auch gern Speck. Khi miêu tả
hoàn cảnh sống của ai đó rất nghèo túng, người
Đức dùng hình ảnh con chuột trong nhà thờ Arm
wie eine Kirchmaus (Nghèo như con chuột trong
nhà thờ), vì nhà thờ không phải là nơi có đồ ăn
cho chuột có thể tìm kiếm hoặc ăn vụng thức ăn.
Ngược lại với thành ngữ trên là Wie die Maus im
Speck sitzen (Như con chuột ngồi trong miếng thịt
mỡ), dùng để miêu tả cuộc sống sung sướng, no
đủ, giống như con chuột vốn rất thích ăn thịt mỡ
thì nay được ngồi ở đúng nơi nó thích. Chuột vốn
là con vật hay bị đuổi bắt nên nó phải ẩn mình,
phải giữ im lặng, hay chỉ quan sát từ xa và điều
đó cũng đi vào thành ngữ Đức Still wie eine Maus
(im lặng như chuột) hay Mäuschen sein/spielen
wollen (Muốn là/đóng vai một con chuột nhắt)
dùng để chỉ một người muốn quan sát, nghe ngóng
một cách bí mật sự kiện hoặc cuộc thoại nào đó.
Khi muốn nói không có gì thay đổi, mọi chuyện
đã định sẵn rồi, người Đức nói Davon beißt die
Maus keinen Faden ab (Con chuột không cắn đứt
sợi chỉ). Thành ngữ này bắt nguồn từ câu chuyện
liên quan tới ngày 17/3 là ngày mà con chuột của
Thánh Gertrud cắn sợi chỉ ở con quay và điều đó
có nghĩa là công việc đồng áng cho mùa đông đã
chấm dứt và có thể chuyển sang công việc đồng
áng cho mùa hè. Nếu con chuột không cắn đứt chỉ
ở con quay thì mọi thứ vẫn giữ nguyên như cũ,
không có gì thay đổi. Cũng có nguồn gốc từ câu
chuyện trong quá khứ, khi tàu bè thường hay bị
chìm, không trừ bất cứ ai, bất cứ thứ gì, người Đức
nói Mit Mann und Maus untergehen (Cả người và
chuột đều chết chìm). Con chuột tượng trưng cho
những thứ nhỏ bé, không có ý nghĩa cũng theo
người chìm xuống biển.
Hình ảnh con chuột không chỉ xuất hiện trong
các thành ngữ mang tính phê phán, châm biếm,
hay giáo huấn như trên, mà còn xuất hiện trong
các thành ngữ miêu tả tính cách (khen) hay miêu
tả hình thức của con người: Trong mắt người Đức,
chuột là con vật rất nhanh nhẹn, hoạt bát và vì vậy
họ mới so sánh những người nhanh nhẹn, hoạt
bát với con chuột flink wie eine Maus (nhanh như
chuột). Và người nào đó bị ướt từ đầu tới chân,
trông thật đáng thương sẽ được so sánh với một
con chuột vừa tắm xong: wie eine gebadete Maus.
Dấu ấn văn hóa Đức cũng thể hiện khá rõ qua
các thành ngữ. Ví dụ hình ảnh nhà thờ trong thành
ngữ arm wie eine Kirchmaus (Nghèo như chuột
trong nhà thờ). Đa số người Đức theo đạo Thiên
chúa giáo và vì vậy có thể thấy rất nhiều nhà thờ ở
Đức. Đây chính là một biểu tượng cho tín ngưỡng
88 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
của họ. Ngoài ra còn thấy loại lương thực chính
được người Đức sử dụng nhiều là bột mì (Mehl)
hay thịt mỡ (Speck) cũng xuất hiện trong thành
ngữ có thành tố chuột.
Bảng 1 bên dưới là bảng biểu thống kê về mức
độ đa nghĩa của thành ngữ có thành tố chuột tiếng
Việt và tiếng Đức.
5. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ
TIẾNG ĐỨC
5.1. Sự tương đồng
Hình ảnh con chuột gắn với những điều không
tốt đẹp, đều xuất hiện ở cả hai ngôn ngữ. Theo
đó, nghĩa của các thành ngữ gắn với hình ảnh con
chuột cũng thường mang tính tiêu cực. Phần lớn
các thành ngữ trong hai ngôn ngữ Việt và Đức đều
mang tính phê phán, chê bai, phàn nàn hay châm
biếm. Bên cạnh đó cũng có khá nhiều thành ngữ
mang tính triết lý, giáo huấn, dạy dỗ.
Và để miêu tả hình thức của ai đó bị ướt từ
đầu đến chân, người Việt và người Đức đều dùng
hình ảnh con chuột bị ướt để so sánh. Người Việt
nói Ướt như chuột lột, còn người Đức nói Wie eine
gebadete Maus (Ướt như con chuột vừa tắm xong).
Chuột trong các thành ngữ tiếng Việt và tiếng
Đức đều được đặt trong quan hệ với mèo, với mỡ
(nhưng ở tiếng Việt là lọ mỡ, còn tiếng Đức là
miếng thịt mỡ); đều gắn với các động từ như cắn,
bị bắt. Ngoài ra, ở cả hai ngôn ngữ đều xuất hiện
thành ngữ có hình ảnh con chuột và bản thân thành
ngữ đó mang tính tích cực, mặc dù hình ảnh con
chuột trong các thành ngữ đó không làm người ta
liên tưởng tới sự tiêu cực hay tích cực. Đó là Chuột
sa chĩnh gạo/Chuột sa hũ nếp/Chuột sa lọ mỡ
(tiếng Việt) và Wie die Maus im Speck sitzen (như
con chuột ngồi trong miếng thịt mỡ) (tiếng Đức),
dùng chỉ miêu tả hoàn cảnh sống sung sướng, no
đủ của ai đó.
5.2. Sự khác biệt
Tiếng Đức có duy nhất một thành ngữ mà ở đó
cả con chuột (hoạt bát, nhanh nhẹn), cũng như cả
nghĩa của thành ngữ có thành tố chuột đều mang
nghĩa tích cực. Đó là flink wie eine Maus (nhanh
như chuột), dùng để khen một ai đó có tính cách
nhanh nhẹn, khéo léo khi di chuyển hoặc khi làm
việc. Trong khi đó, tiếng Việt không có một thành
ngữ nào gắn với hình ảnh con chuột lại mang tính
tích cực như vậy. Tương tự, các thành ngữ chỉ sự
bông đùa cũng chỉ xuất hiện trong tiếng Đức.
Chuột trong thành ngữ tiếng Đức gắn liền với
yếu tố màu sắc là trắng và xám như trong thành
ngữ weiße Mäuse, weiße Mäuse sehen hay graue
Maus. Yếu tố màu sắc gắn liền với chuột không hề
xuất hiện trong tiếng Việt.
Thành ngữ tiếng Đức có nguồn gốc gắn với
các câu chuyện liên quan tới tín ngưỡng, còn thành
ngữ tiếng Việt không có hiện tượng đó. Tuy nhiên,
nét văn hóa của làng quê Việt Nam hiện lên khá rõ
trong thành ngữ tiếng Việt, đó là hình ảnh cây sào,
chĩnh gạo, hũ nếp, lọ mỡ, bình sứ, Trong khi đó,
những hình ảnh của văn hóa làng quê ở Đức rất
mờ nhạt.
6. KẾT LUẬN
Bài viết này cho thấy một số khác biệt trong
thành ngữ có hình ảnh con chuột trong tiếng Đức
và tiếng Việt. Hình ảnh con chuột trong thành ngữ
Bảng 1: Mức độ đa nghĩa của thành ngữ có thành tố chuột tiếng Việt và tiếng Đức
Ngữ
nghĩa
Thành ngữ
Phê phán,
chê bai,
phàn nàn
Châm biếm,
trào phúng Bông đùa Triết lý, giáo
huấn
Miêu tả hình
thức
Miêu tả tính
cách (khen)
Tiếng Việt 11 6 0 5 1 0
Tiếng Đức 10 1 2 8 1 1
89KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
tiếng Đức gắn với màu sắc, với tín ngưỡng và với
sự nhanh nhẹn, nhưng những điều này không thấy
xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt. Ngược lại,
một số hình ảnh đặc trưng cho văn hóa làng quê
thể hiện khá sắc nét trong tiếng Việt, còn trong
tiếng Đức rất mờ nhạt.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng không phải là
không có những điểm tương đồng giữa hệ thống
thành ngữ của hai ngôn ngữ này, ví dụ hình ảnh
con chuột ướt sũng được dùng để tả một người bị
ướt từ đầu đến chân, hình ảnh con chuột trong cả
hai ngôn ngữ phần lớn đều mang nghĩa tiêu cực,
các thành ngữ đều có giá trị giáo huấn, dạy dỗ, có
tính phê phán, chê bai hay phàn nàn. Trong các
nghiên cứu sau, chúng tôi sẽ tìm hiểu kỹ thêm về
nguồn gốc xuất xứ của các thành ngữ để có thể làm
rõ nét hơn dấu ấn văn hóa Đức và Việt./.
Chú thích:
1. Trong luận văn của mình, Nguyễn Thị Bảo (2003)
đã thống kê được 47 thành ngữ tiếng Việt có thành tố chuột.
Con số đó trong nghiên cứu của Phan Văn Quế là 30 và của
Trịnh Cẩm Lan là 37 (dẫn theo Nguyễn Thị Bảo 2003, tr.16).
Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Thị Bảo (2003), Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật
trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng
Anh), Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, TP. Hồ Chí Minh.
Mai Ngọc Chừ (chủ biên), Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt
Hùng, Bùi Minh Toán (2015), Nhập môn ngôn ngữ học,
NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
Việt Chương (2005), Từ điển Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao
Việt Nam, Quyển thượng, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
Nguyễn Thiện Giáp (2002), Từ vựng học Tiếng Việt, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
Hoàng Văn Hành (2004), Thành ngữ học Tiếng Việt, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
Hoàng Phê (2002) (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
T.G (2018), Hình ảnh chuột trong các sáng tác dân gian,
truy cập ngày 30/9/2018, <https://baokhanhhoa.vn/
baoxuan/200802/hinh-anh-chuot-trong-cac-sang-tac-
dan-gian-1794818/>.
Burger, Harald (2007), Phraseologie. Eine Einführung am
Beispiel des Deutschen. Erich Schmidt Verlag. Berlin.
Duden Redewendungen: Wörterbuch der deutschen
Idiomatik (Duden - Deutsche Sprache in 12 Bänden,
Band 11) (2012).
Duden – Deutsches Universalwörterbuch: Das
umfassende Bedeutungs-wörterbuch der deutschen
Gegenwartssprache (2015): Bibliographisches Institut.
Fleischer, Wolfgang/Helbig, Gerhard/Lerchner, Gotthard
(Hrsg.) (2001): Kleine Enzyklopädie. Deutsche Sprache.
Peter Lang. Frankfurt am Main.
Lexikon der Zitate und Redensarten. Königswinter: Tandem
Verlag. (o.J.)
A CONTRASTIVE ANALYSIS OF VIETNAMESE AND GERMAN IDIOMS
CONTAINING THE IMAGE OF A MOUSE
LE THI BICH THUY
Abstract: This paper aims to point out the similarities and differences in meaning of Vietnamese
and German idioms containing the image of a mouse. Using descriptive and comparative methods
in combination with the critical analysis, statistics and synthesis, this article points out shows
some similarities of the Vietnamese and German idioms: Mice are often negatively associated
negative things; almost idioms have the educational, critical and complaining values. However,
each language has its own special features. Vietnamese idioms have special features of culture of
the village in Vietnam, while German idioms are related to religion, etc.
Keywords: mouse, idioms, culture
Received: 26/8/2018; Revised: 10/10/2018; Accepted: 20/12/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khnnqs_17_01_2019_83_89_le_thi_bich_thuy_6366_2136250.pdf