Sai lệch xã hội trong xã hội học của Emile Durkheim (Phần 1) - Trương Văn Vỹ

Tài liệu Sai lệch xã hội trong xã hội học của Emile Durkheim (Phần 1) - Trương Văn Vỹ: ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRNG Đ I H C KHOA H C XÃ HI VÀ NHÂN VN TRƯƠNG VĂN VỸ SAI LệCH Xã HộI TRONG Xã HộI HọC CủA EMILE DURKHEIM (QUA NGHIấN CỨU 2 TÁC PHẨM “TỰ TỬ” V “PHÂN CễNG LAO ĐỘNG TRONG XÃ HỘI”) NHà XUấT BảN ĐạI HọC QuốC GIA Hà NộI 2 SAI LCH XÃ HI TRONG XÃ HI H C CA EMILE DURKHEIM M c l c 3 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 7 Chương 1 TỔNG QUAN NGHIấN CỨU ĐỀ TI, BỐI CẢNH HèNH THNH QUAN ĐIỂM V CƠ SỞ Lí LUẬN VỀ SAI LỆCH XÃ HỘI 1.1. Tổng quan nghiờn cứu đề tài .......................................................... 17 1.1.1. Khỏi lược cỏc quan điểm và lý thuyết về hành vi sai lệch............................................ 17 1.1.2. Một số nghiờn cứu xó hội học chủ yếu về hành vi sai lệch ..... 22 1.1.3. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài chuyờn luận ..... 29 1.2. Bối cảnh hỡnh thành quan điểm của Emile Durkheim .......

pdf92 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sai lệch xã hội trong xã hội học của Emile Durkheim (Phần 1) - Trương Văn Vỹ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRNG Đ I H C KHOA H C Xà HI VÀ NHÂN VN TRƯƠNG VĂN VỸ SAI LÖCH X· HéI TRONG X· HéI HäC CñA EMILE DURKHEIM (QUA NGHIÊN CỨU 2 TÁC PHẨM “TỰ TỬ” V “PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG Xà HỘI”) NHµ XUÊT B¶N §¹I HäC QuèC GIA Hµ NéI 2 SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM M c l c 3 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 7 Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TI, BỐI CẢNH HÌNH THNH QUAN ĐIỂM V CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SAI LỆCH Xà HỘI 1.1. Tổng quan nghiên cứu đề tài .......................................................... 17 1.1.1. Khái lược các quan điểm và lý thuyết về hành vi sai lệch............................................ 17 1.1.2. Một số nghiên cứu xã hội học chủ yếu về hành vi sai lệch ..... 22 1.1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài chuyên luận ..... 29 1.2. Bối cảnh hình thành quan điểm của Emile Durkheim ..................... 37 1.2.1. Sơ lược tiểu sử Emile Durkheim (1858-1917) ..................... 37 1.2.2. Những điều kiện và tiền đề hình thành quan điểm .............. 40 1.3. Khái niệm sai lệch xã hội................................................................. 45 1.3.1. Vấn đề thuật ngữ “sai lệch xã hội” ....................................... 45 1.3.2. Định nghĩa về sai lệch xã hội ............................................... 46 1.3.3. Đặc điểm của sai lệch xã hội ............................................... 48 1.3.4. Phân loại và các biểu hiện của sai lệch xã hội.................... 49 1.3.5. Cở sở xã hội của sự sai lệch ................................................ 51 1.3.6. Các yếu tố cấu thành sai lệch xã hội ................................... 52 Kết luận Chương 1................................................................................... 54 Chương 2 QUAN ĐIỂM SAI LỆCH Xà HỘI TRONG TÁC PHẨM “PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG Xà HỘI” (1893) V “TỰ TỬ” (1897) 2.1. Tác phẩm “PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG Xà HỘI” (1893) ..... 55 2.1.1. Giới thiệu tác phẩm “Phân công lao động trong xã hội” ...... 55 4 SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 2.1.2. Phân tích quan điểm sai lệch xã hội trong tác phẩm .......... 57 2.1.3. Những điều rút ra sau phân tích tác phẩm .......................... 69 2.2. Tác phẩm “Tự tử” (1897) .................................................................. 70 2.2.1. Giới thiệu tác phẩm “Tự tử” .................................................. 70 2.2.2 Phân tích quan điểm sai lệch xã hội trong tác phẩm .......... 73 2.2.3. Những điều rút ra sau phân tích tác phẩm .......................... 89 Kết luận Chương 2................................................................................... 92 Chương 3 NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG QUAN ĐIỂM V ĐÓNG GÓP CỦA E. DURKHEIM VỀ SAI LỆCH Xà HỘI 3.1. Biến đổi quan điểm trong 2 tác phẩm của E. Durkheim ................. 93 3.1.1. So sánh đặc điểm hình thức của 2 tác phẩm ...................... 93 3.1.2. So sánh đặc điểm nội dung của 2 tác phẩm ....................... 95 3.2. Điểm mới trong quan điểm từ bài báo “Bình thường và bệnh lý” ................................................................. 97 3.2.1. Giới thiệu bài báo “Bình thường và bệnh lý” ........................ 97 3.2.2. Phân tích nội dung và quan điểm sai lệch xã hội trong bài báo ........................................................................ 98 3.2.3. Những điều rút ra sau phân tích bài báo ........................... 101 3.3. Những đóng góp của E. Durkhiem đối với xã hội học ................... 102 3.3.1. Nội dung quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim ...... 102 3.3.2. Chức năng của sai lệch xã hội của E. Durkheim .............. 116 3.4. Một số phê phán quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim ..... 122 3.4.1. Những phê phán về nội dung quan điểm của E. Durkheim ................................................................ 123 3.4.2. Những phê phán về phương pháp luận của E. Durkheim .... 127 Kết luận Chương 3................................................................................. 131 CHƯƠNG 4 MỘT SỐ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA E. DURKHEIM TRONG THỰC TIỄN Xà HỘI VIỆT NAM 4.1. Quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim và sự biến đổi các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam ............ 133 M c l c 5 4.2. Tham nhũng - một sai lệch xã hội to lớn, sự đổ vỡ của quản lý xã hội, hệ quả “phi chuẩn” của phân công lao động trong xã hội ....... 141 4.3. Tự tử - một hành vi sai lệch: từ lý thuyết đến thực tiễn ................. 155 Kết luận Chương 4................................................................................. 166 KẾT LUẬN V KIẾN NGHỊ ................................................................... 167 Danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến chuyên luận .............................................. 173 Tài liệu tham khảo .............................................................................. 175 6 SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM MỞ ĐẦU 1. Xã hội học là môn khoa học ra đời muộn hơn rất nhiều so với các khoa học khác, song nó đã nhanh chóng trở thành một khoa học phát triển, bởi phạm vi ứng dụng rộng rãi của nó không chỉ trong khoa học, mà còn trong cả đời sống xã hội. Xã hội học, với tư cách là một khoa học xã hội, đã không có một lịch sử “bề thế” như triết học hay một số môn khoa học cơ bản khác ra đời trước đó, song xã hội học đã có những đóng góp to lớn trong việc tìm ra, giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội theo cách riêng của nó, hợp lý hơn và khoa học hơn. Đề cập đến xã hội học, chúng ta không thể không nói đến cơ sở lý thuyết của nó. Đó chính là những khái niệm và phạm trù khoa học, những kiến thức cơ bản và nền tảng để hình thành nên bộ môn này. Nhà xã hội nổi tiếng người Mỹ Talcott Parsons khẳng định rằng, “đừng nên nghiên cứu xã hội học bằng đôi tay trần của người thợ thủ công, mà phải xây dựng xã hội học như một ngành khoa học thực thụ với hệ thống lý luận và phương pháp luận của nó”. Với hệ thống lý thuyết được xây dựng và hình thành như hiện nay, xã hội học đã thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu khi thâm nhập vào thực tế đời sống xã hội. Xã hội chúng ta với rất nhiều cấu trúc và hình thái xã hội khác nhau đã và đang sản sinh ra nhiều hành vi sai lệch khác nhau, vì vậy một cách thường xuyên và theo quy luật đang ngày càng tăng lên nhu cầu tri thức xã hội học về đặc trưng, quy luật và bản chất của hiện tượng sai lệch. Những nghiên cứu mọi mặt về sự sai lệch đang được thực hiện và tiến hành chủ yếu trong phạm vi của xã hội học, nói cách khác, các khía cạnh khác nhau của hành vi lệch lạc, của sai lệch xã hội là đối tượng nghiên cứu của chính xã hội học. Kho tàng lý thuyết và kinh nghiệm các công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ các nhà khoa học về hành vi sai lệch đã được tích lũy và làm phong phú cho việc quan tâm và tìm hiểu vấn đề này. Từ nhiều quan điểm khác nhau trong việc giải thích các vấn đề, các sự kiện, các hiện tượng SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 8 xã hội, các nhà xã hội học tiên phong đã đặt một nền tảng vững chắc cho sự tồn tại song hành của xã hội học với các khoa học khác. Trong số những người có công sáng lập xã hội học, Emile Durkheim có thể được xem như là nhà xã hội học đầu tiên đã biết vận dụng lý thuyết vào trong thực tế một cách hữu hiệu và thành công. Những tác phẩm của E. Durkheim như “Phân công lao động trong xã hội” (1893), “Tự tử” (1897), “Các quy tắc của phương pháp xã hội học” (1895) là những công trình nghiên cứu điển hình, chứng minh đúng đắn cho điều khẳng định này. Xung quanh quan điểm của E. Durkheim về quan hệ giữa cá nhân - đoàn thể, về đoàn kết xã hội, về đạo đức xã hội dẫn đến những hành vi lệch chuẩn, bệnh hoạn xã hội, - gọi chung là sai lệch xã hội, tồn tại rất nhiều ý kiến đánh giá, bình luận phân tích khác nhau. Quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim cũng có những ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành một số lý thuyết xã hội học sau này. Quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn, vì những hành vi lệch lạc với những biểu hiện rất phong phú, khác nhau, luôn diễn ra hàng ngày xung quanh chúng ta, đồng hành cùng con người trong cuộc sống xã hội. Có thể khẳng định rằng, một xã hội không có các biểu hiện của hành vi sai lệch, thì đó là một xã hội không bao giờ có trong thực tế, không bao giờ có trong lịch sử. Song, quan điểm về sai lệch xã hội của E. Durkheim đã xuất phát và hình thành trong bối cảnh xã hội nào; nội dung cụ thể ra sao; đã tồn tại ở thời đại của ông như thế nào; mọi người tiếp nhận và phản ứng ra sao; nguyên nhân nào là chính; chức năng của nó là gì; quan điểm đó có ý nghĩa gì đối với xã hội nói chung và xã hội Việt Nam hiện nay; ý nghĩa đó thể hiện như thế nào; có những đặc điểm khác biệt ra sao; v.v. – đó chính là một loạt những câu hỏi, những vấn đề rất đáng quan tâm đến quan điểm sai lệch trong xã hội học của E. Durkheim, khi mà con người luôn phải đối đầu với đủ loại những biểu hiện sai lệch, các loại tội phạm khác nhau, làm cho xã hội luôn ở trong tình trạng “bất ổn”, “bệnh hoạn”, “rối loạn trật tự xã hội”. “Làm thế nào để có một trật tự xã hội?” luôn là một câu hỏi lớn cần phải tìm lời đáp, không chỉ đối với các nhà xã hội học, những người chuyên sâu nghiên cứu xã hội, mà còn đối với tất cả những ai yêu M# đ%u 9 quý cuộc sống trên thế giới tươi đẹp này, không phải chỉ trước đây, mà cho chính ngày hôm nay và cho cả mai sau. Hiện tượng lệch lạc vẫn luôn tồn tại trong đời sống, dù xã hội ở giai đoạn phát triển nào đi chăng nữa. Hành vi lệch lạc không chỉ là việc đánh giá những hành động bên ngoài, mà ẩn sâu bên trong còn là những nguyên nhân thuộc về chính ý thức, quan niệm của con người về hành vi này. Điều này đã được E. Durkheim nhận định rất chí lý và sâu sắc rằng: "Chúng ta không nói rằng một hành động nào đó xúc phạm đến lương tri mà người ta vì nó mang tính chất tội phạm, mà phải nói rằng hành động đó mang tính tội phạm vì nó xúc phạm lương tri mọi người. Không phải vì hành động đó là tội phạm mà chúng ta tránh nó, mà vì chúng ta tránh nó cho nên nó trở thành tội phạm" [86, 81]. Xuất phát từ những lý do nêu trên chúng tôi đặt ra 2 câu hỏi nghiên cứu liên quan đến lý thuyết: 1. Bản chất quan điểm sai lệch xã hội trong xã hội học của E. Durkheim là gì? 2. Quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim có ý nghĩa gì đối với đời sống xã hội thế giới và xã hội Việt Nam? Trả lời tốt được những câu hỏi này sẽ là đóng góp đáng ghi nhận của chuyên luận, có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn. 2. E. Durkheim là một trong những nhà xã hội học tiền bối, và mục tiêu chính của E. Durkheim là “xây dựng xã hội học như một bộ môn khoa học lý thuyết có vị trí xứng đáng trong các trường đại học” [3]. Xã hội học, cũng như bất kỳ một môn khoa học nào khác, cần có một hệ thống lý thuyết để làm nền tảng và định hướng cho công việc và hoạt động của mình. Trong nghiên cứu xã hội học thực nghiệm, người ta định hướng cách thức nghiên cứu, giải thích và phát hiện ra những quy luật chung, cũng như quy luật riêng của sự kiện, hiện tượng xã hội bằng nền tảng lý thuyết có sẵn. Nghiên cứu thực nghiệm, với sự đa dạng muôn màu của nó, cuối cùng cũng phải khái quát số lượng kết quả đồ sộ thành các lý thuyết, thành những quy luật, những khái niệm có tính chất chung. Trong phạm vi chuyên luận này, chúng tôi muốn đóng góp một phần công sức vào việc tìm hiểu quan điểm sai lệch xã hội của một nhà xã hội học vĩ đại và vô cùng quan trọng đối với khoa học xã hội học, thông qua những tác phẩm đã công bố của E. Durkheim. Chuyên luậnbổ sung SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 10 và hoàn thiện hơn quan điểm về sai lệch xã hội của E. Durkheim, từ đó góp phần làm rõ những quy luật chung về các vấn đề xã hội, các hiện tượng xã hội. Đây là đề tài mang tính lý thuyết, không phải là một công trình khảo sát thực tế. Mặc dù, giữa lý thuyết và thực tế luôn có một khoảng cách nhất định, song điều đó không có nghĩa lý thuyết và thực tiễn là những khái niệm độc lập, tách biệt, mà ngược lại, chúng luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Thông qua lý thuyết, hiện trạng và các quy luật xã hội mới có thể được mô tả một cách cụ thể và hợp lý. Ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đang tạo nên rất nhiều những biến đổi to lớn trong xã hội. Sự phát triển cũng đồng nghĩa với việc kéo theo những mặt trái tiêu cực to lớn của nó như tệ nạn xã hội, tội phạm, hoặc nhiều điều tương tự. Người ta bắt đầu nghiên cứu một cách có hệ thống để lý giải và tìm ra những giải pháp trong việc giải quyết vấn đề quan trọng và cấp thiết này. Những nghiên cứu xã hội học trên phương diện lý thuyết về sai lệch xã hội góp phần nhìn nhận một cách toàn diện về những hiện tượng được coi là vượt ra khỏi những quy định chung, những mong đợi chung của xã hội. Lý luận chỉ có giá trị và ý nghĩa to lớn khi xuất phát từ chính thực tiễn xã hội rộng lớn, và như vậy, thực tiễn, đến lượt mình đã thể hiện được ý nghĩa quan trọng và cần thiết của mình. Một ý nghĩa thực tiễn cụ thể của chuyên luận là dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập các trường đại học, viện nghiên cứu. Chuyên luận là tài liệu tham khảo về lịch sử xã hội học, lý thuyết xã hội học, về tìm hiểu nội dung các tác phẩm của những nhà xã hội học kinh điển. 3. Cùng với việc trình bày có hệ thống lịch sử hình hành và phát triển các quan điểm, lý thuyết về sai lệch xã hội và tội phạm, sơ lược quá trình nghiên cứu xã hội học về sai lệch xã hội, nội dung cơ bản của khái niệm sai lệch xã hội, sơ lược tiểu sử và bối cảnh ra đời quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim, thông qua các tác phẩm “Phân công lao động trong xã hội” (1893), “Tự tử” (1897) và bài báo “Bình thường và bệnh lý”, mà sau đó được đưa vào tác phẩm “Các quy tắc M# đ%u 11 của phương pháp xã hội học” (1895), chuyên luận này mong muốn nêu lên và chỉ ra được quan điểm của E. Durkheim về sai lệch xã hội, nội dung cơ bản của quan điểm, về chức năng của sai lệch xã hội và một số phê phán về nội dung và phương pháp trong quan điểm của E. Durkheim. Từ những vấn đề nêu trên chúng ta xem xét, nghiên cứu ứng dụng quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim đối với xã hội Việt Nam. Để đạt được những mục đích nêu trên, chuyên luận phải giải quyết được các nhiệm vụ chính yếu sau: 1 - Nêu lên được cơ sở lý luận và thực tiễn về quan điểm sai lệch xã hội, trong đó trình bày khái lược các quan điểm và lý thuyết về hành vi sai lệch, các nghiên cứu xã hội học về sai lệch xã hội, bối cảnh lịch sử hình thành quan điểm của E. Durkheim và nội dung cơ bản của khái niệm sai lệch xã hội,. 2 - Dựa trên các tác phẩm tiêu biểu của E. Durkheim, cụ thể ở đây là tác phẩm “Phân công lao động trong xã hội” (1893), “Tự tử” (1897), và bài báo “Bình thường và bệnh lý” (1895), chỉ ra và phân tích cơ sở khoa học cho việc hình thành quan điểm và nội dung quan điểm của E. Durkheim về sai lệch xã hội, khẳng định sự tồn tại của quan điểm và chức năng của nó trong xã hội học của E. Durkheim. Chuyên luận cũng xem xét một số ý kiến phê phán, đánh giá đối với quan điểm của E. Durkheim. 3 - Nêu ảnh hưởng quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim trong bối cảnh cụ thể của nền văn hóa Việt Nam, trình bày những nghiên cứu ứng dụng quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim trong thực tế xã hội Việt Nam. 4. Các lý thuyết của E. Durkheim có nội dung hết sức phong phú, đề cập đến rất nhiều vấn đề liên quan đến con người, cuộc sống xã hội. Chuyên luận tập trung và đi sâu xem xét, phân tích quan điểm về sai lệch xã hội của E. Durkheim, có nghĩa là, chủ yếu xem xét nguồn gốc sự hình thành, bản chất, nội dung và chức năng, khẳng định sự tồn tại của quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim. Quan điểm về sai lệch xã hội được thể hiện đầy đủ và rõ nét nhất trong các tác phẩm “Phân công lao động trong xã hội” (1893), “Tự tử” (1897) và bài báo “Bình thường và bệnh lý” (1895). Vì vậy, trong chuyên luận này, chúng tôi tập trung khai thác nội dung các tác phẩm nêu trên để SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 12 làm rõ quan điểm về sai lệch xã hội của E. Durkheim, cách nghiên cứu của E. Durkheim về sai lệch xã hội. Ông nghiên cứu cái bất bình thường để hiểu cái bình thường, nghiên cứu “bệnh lý” để hiểu cái chuẩn mực. E. Durkheim là một nhà xã hội học tiền bối, sống trong một thời kỳ lịch sử rất khác biệt với thời đại chúng ta đang sống hiện nay. Các tác phẩm kinh điển của ông, phản ánh những tư tưởng giá trị to lớn và vĩ đại, đã tồn tại cho đến ngày nay trên cả thế kỷ. Xuất phát từ những hạn chế không tránh khỏi trong khả năng tiếp thu tư tưởng của E Durkheim, trong tìm kiếm tài liệu, trong tiếp cận tài liệu gốc, trong ngôn ngữ dịch thuật rất khó khăn để chuyển tải đầy đủ và chính xác nội dung tư tưởng của ông, trong những công trình nghiên cứu hiếm hoi và ít ỏi, cả trên thế giới cũng như ở Việt Nam về quan điểm sai lệch trong xã hội học của E. Durkheim, thậm chí là cả trong những cách hiểu nhiều khác biệt, có khi tới mức mâu thuẫn ở các chuyên gia nghiên cứu chung vấn đề, cùng nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác khi tiến hành nghiên cứu và thực hiện chuyên luận này, nên chúng tôi cố gắng, trong khả năng có thể, giới thiệu cơ bản chuyên luận này theo đề tài liên quan đến sai lệch xã hội trong xã hội học của E. Durkheim. Như chúng ta đều biết, “sai lệch xã hội”, theo quan niệm của E. Durkheim, đó chính là một “sự kiện xã hội”, bởi “sai lệch xã hội” là một hiện thực khách quan, tồn tại ở bên ngoài cá nhân, nó là sự kiện chung cho cả xã hội, phản ánh ý thức xã hội. E. Durkheim trong xã hội học của mình chỉ mô tả và giải thích hiện tượng sai lệch xã hội trong thế giới khách quan và đưa ra những nhận định của mình về “sai lệch xã hội” với tư cách như là hiện thực xã hội. Như vậy, trong xã hội học của E. Durkheim đó chỉ là quan điểm hay khái niệm về sai lệch xã hội. Vì vậy, một cách rõ ràng hơn, tên đề tài chuyên luận có thể nên thêm các từ “Quan điểm” hay “Khái niệm” vào phần đầu tên gọi đề tài. Thêm vào như vậy là để làm rõ ràng hơn tên gọi, còn tên gọi chính thức của đề tài, theo chúng tôi, cũng là tốt và rõ, phản ánh được đầy đủ nội dung cần nghiên cứu. 5. Nghiên cứu về xã hội là mối quan tâm hàng đầu của nhiều ngành khoa học khác nhau trong mọi thời đại. Trong lịch sử người ta M# đ%u 13 đưa ra nhiều cách lý giải khác nhau về cuộc sống con người. Mỗi lý thuyết có một cách nhìn nhận riêng biệt về cùng một sự kiện, một hiện tượng xã hội. Để nhận định về một vấn đề thực tế xã hội cũng như của một lý thuyết người ta phải đứng trên những quan điểm khác nhau. Tìm hiểu về E. Durkheim và các tư tưởng của ông, trong chuyên luận này, chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là cơ sở để nhìn nhận vấn đề sai lệch xã hội, cũng như sự hình thành ý nghĩa của quan điểm về lệch lạc đối với xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một bộ phận trong toàn bộ hệ tư tưởng của Marx-Engels và trở thành vấn đề rất quan trọng trong hệ thống lý thuyết xã hội học. Chủ nghĩa duy vật lịch sử giải thích sự phát triển xã hội bằng mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố cấu thành xã hội. "Chủ nghĩa duy vật lịch sử là lý luận về vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội, về những quy luật chung và đặc thù và những động lực phát triển của xã hội, về những nguyên lý liên hệ giữa các mặt khác nhau của đời sống xã hội" [4]. Chủ nghĩa duy vật lịch sử có một mức độ bao quát rất lớn trong việc nhìn nhận về xã hội. Khi tìm hiểu riêng về vấn đề sai lệch xã hội, cần phải xem xét những hành vi cá nhân trên quan điểm "lịch sử cụ thể". Đây là một khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc nhìn nhận một khía cạnh, một sự kiện hay một hiện tượng xã hội nào đó. Khi đánh giá hành vi con người phải đặt họ trong những hoàn cảnh cụ thể, trong bối cảnh lịch sử mà cá nhân đó tồn tại, phải xét đến những phạm trù chung - riêng. Trong chuyên luận này, chủ nghĩa duy vật lịch sử được lấy làm cơ sở cho những lý luận về các vấn đề sự hình thành và ý nghĩa của lý thuyết sai lệch xã hội của E. Durkheim đối với thực tế xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử không tách rời với chủ nghĩa duy vật biện chứng, vì vậy cơ sở lý luận của chuyên luận cũng xây dựng trên chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét các mối liên hệ qua lại lẫn nhau trong quan điểm về sai lệch xã hội của E. Durkheim và ý nghĩa của quan điểm này trong thực tế đời sống xã hội. Vì đây là một đề tài chủ yếu mang tính lý thuyết, với mục đích và nhiệm vụ chuyện luận đã đặt ra, nên phương pháp nghiên cứu cơ bản trong chuyên luận này là phương pháp phân tích tài liệu, trên cơ SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 14 sở tiến hành thu thập tài liệu và sử dụng tư liệu sẵn có. Đó là những tác phẩm liên quan đến các lý thuyết xã hội học do chính E. Durkheim viết ra, là những bài viết, những cuốn sách, những công trình của nhiều tác giả khác nhau có liên quan đến E. Durkheim, là những tư liệu thuộc về lịch sử cũng như hiện tại viết về E. Durkheim. Phân tích tài liệu là nhằm xem xét và cải biến thông tin có sẵn trong các tài liệu nói trên thành những thông tin cần thiết để đáp ứng những mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài chuyên luận đặt ra. Phân tích nội dung tài liệu, theo Bernard Berelson (1954), là một kỹ thuật “để mô tả định lượng có tính khách quan, có nội dung của thông tin” [334, 56], là thống kê những khuôn mẫu trong một thông báo, và theo V. A. Jadow, là “thực hiện việc chuyển thông tin của bài viết vào các chỉ báo định lượng” [334, 56). Như vậy, nhiệm vụ của phân tích nội dung tài liệu là phải mô tả được các đặc điểm đặc trưng của tác giả bài viết hay nội dung bài viết khi tiến hành phân tích. Phương pháp lịch sử cũng là phương pháp chính yếu sử dụng trong chuyên luận này. Phương pháp lịch sử là hệ thống các nguyên tắc được đặt ra để đem lại hiệu quả trong việc tập hợp nguồn tài liệu lịch sử, đánh giá chúng một cách có phê phán và đưa ra một tổng hợp của những kết quả có được và giải thích kết quả làm sao để đạt được chân dung của quá khứ. Theo Wikepedia (the free encyclopedia), phương pháp lịch sử bao gồm những kỹ thuật và những chỉ nam dựa vào đó nhà nghiên cứu sử dụng tài liệu gốc và những tài liệu khác để nghiên cứu và viết thành lịch sử. Dựa trên các tài liệu viết, phương pháp lịch sử sử dụng để xác định một vấn đề lịch sử, tập hợp thông tin có liên hệ cho vấn đề lịch sử được xác định, nghiên cứu thông tin và đánh giá có phê phán trong những nguồn tài liệu đó, giải thích và phân tích các mối quan hệ giữa các yếu tố trong các tài liệu thu thập, để từ đó rút ra những kết luận và trình bày chúng theo những quan điểm đã được xác định khi nghiên cứu đề tài. Những phương pháp toàn diện, lịch sử - cụ thể, phát triển, gắn lý luận với thực tiễn, các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa, chứng minh, so sánh - đối chiếu, loại suy, logic là những phương pháp liên quan hoặc ít nhiều được sử dụng tới. Các phương pháp trên không chỉ sử dụng M# đ%u 15 một cách độc lập, mà còn là sự kết hợp đồng thời giữa chúng với nhau trong quá trình thực hiện chuyên luận. Tổng hợp một hệ thống các phương pháp nói trên sẽ giúp giải quyết tốt nhất các mục tiêu và nhiệm vụ của chuyên luận đặt ra. Khung phân tích đề tài chuyên luận. Để đề tài chuyên luận có thể đi đúng đường hướng của mình chúng tôi tiến hành xây dựng khung phân tích của đề tài chuyên luận. Sau khi trình bày các cơ sở thực tiễn và lý luận liên quan đến khái niệm sai lệch xã hội, trên cơ sở các tác phẩm “Phân công lao động trong xã hội” (1893), “Tự tử” (1897), và bài báo “Bình thường và bệnh lý” (1895) chúng tôi tiến hành, phân tích nội dung từng tác phẩm để chỉ ra được các hình thức sai lệch xã hội, nguyên nhân dẫn đến sai lệch xã hội, và điều mà E. Durkheim rất quan tâm, là chức năng của sai lệch xã hội, nhằm minh họa, làm rõ và khẳng định sự tồn tại trong xã hội học của E. Durkheim, quan điểm về sai lệch xã hội với tư cách là một sự kiện xã hội có nguyên nhân từ một hoặc nhiều sự kiện xã hội khác nhau. Từ các luận điểm lý thuyết trong nội dung quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim chúng tôi ứng dụng vào giải thích thực tiễn xã hội Việt Nam, nhằm có thể đưa ra được những gợi ý nhất định cho các nghiên cứu lý luận, cho quản lý xã hội và nhiều hoạt động thực tế khác. Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI, BỐI CẢNH HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SAI LỆCH Xà HỘI 1.1. Tổng quan nghiên cứu đề tài 1.1.1. Khái lược các quan điểm và lý thuyết về hành vi sai lệch Trong lịch sử khoa học tồn tại rất nhiều quan điểm, lý thuyết, cách tiếp cận với hành vi sai lệch. Việc nghiên cứu lịch sử hệ thống các quan điểm và lý thuyết sẽ giúp hiểu rõ sự hình thành, nội dung khái niệm, nguyên nhân của sai lệch và tích cực tìm kiếm những cơ chế thích hợp để ngăn ngừa và phòng chống chúng. Hành vi sai lệch cũng như tội phạm hình thành cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người, song ở Thời kỳ nguyên thủy chưa thể xuất hiện những tư tưởng quan tâm đến những sai lệch và tội phạm, bởi một lẽ đơn giản con người đang ở thời kỳ sơ khai, mông muội, trí tuệ chưa phát triển, nhận thức còn yếu kém, nên chưa đủ sức nhận ra và phân biệt những hành vi lệch lạc, mặc dù, như đã nói ở trên, chúng vẫn tồn tại xung quanh con người. Nhiệm vụ chính của con người trong thời kỳ này là đấu tranh với thiên nhiên, với tự nhiên để sống, để tồn tại. Có thể nói, sai lệch trong xã hội được xem xét và nghiên cứu cùng với sự xuất hiện của xã hội học. Tuy nhiên vấn đề này đã được các tác giả cổ điển quan tâm sớm hơn. Một số nhà nghiên cứu cho rằng xã hội học sinh ra từ trong lòng của triết học cổ điển, và trong điều khẳng định này xác định một sự thật. Các tác giả cổ điển đã bắt đầu phân tích một cách khoa học bản chất, nguồn gốc, các hình thái SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 18 biểu hiện của hiện tượng xã hội phức tạp này. Thời cổ đại Hy Lạp hay còn gọi Giai đoạn xã hội chiếm hữu nô lệ, lần đầu tiên trong lịch sử đã xuất hiện tư tưởng đấu tranh với hành vi sai lệch và tội phạm của các nhà triết học cổ điển, mà đại diện tiêu biểu là Platon và Aristote, phản ánh qua lăng kính các quan thuyết triết học của họ. Cả hai nhà triết học đều coi tội phạm như là bệnh tật trong tâm linh của những người thực hiện hành vi đó, tội phạm như là bệnh tật của Nhà nước. Và theo họ, chính Nhà nước chứ không phải ai khác phải có trách nhiệm chữa trị bệnh tật này, bằng cách ban hành các đạo luật. Với những tư tưởng liên quan đến tội phạm, hai ông được coi là những người đặt nền tảng đầu tiên cho việc nghiên cứu những vấn đề đấu tranh với tội phạm và sai lệch trong xã hội. Platon (427-347 trước CN) – nhà triết học duy tâm khách quan, nổi tiếng với “Học thuyết về ý niệm”. Ông cho rằng, các đạo luật ban hành phải có tác động kiềm chế, khắc phục các nguyên nhân thúc đẩy các hành vi phạm tội. Platon cũng nói đến tư tưởng về sự tác động tâm lý đối với những người có thiên hướng phạm tội. Đặc biệt, Platon cho rằng trong đấu tranh với tội phạm cần phải nghĩ về tương lai, chứ không phải về quá khứ. Đây là tư tưởng lớn về dự báo tội phạm mà trải qua hàng trăm năm sau mới được mọi người chú ý. Aristote (384 – 322 trước CN) - nhà triết học Hy Lạp nổi tiếng, bộ óc bách khoa trong số các nhà tư tưởng cổ đại Hy Lạp. Aristote cho rằng, cưỡng chế về tâm lý có thể phòng ngừa được tội phạm, vì rằng đạo luật cần phải giúp cho tinh thần thống trị được thể xác và lý trí thống trị được bản tính. Aristote nhìn thấy một trong những nguyên nhân cơ bản của các hành vi sai lệch và tội phạm là thói quen và sở thích hư hỏng của con người mâu thuẫn với lý trí hoặc những ham mê, dục vọng khủng khiếp trội hơn lý trí. Aristote từng phát biểu rằng, những điều bất hạnh là những kiểu hành vi được thực hiện không có chủ tâm độc ác và ý định xấu xa, những điều lầm lạc là những hành vi được thực hiện có ý thức, nhưng không phải là hậu quả của ý đồ độc ác, còn những hành vi sai trái đó là những hành vi diễn ra một cách chủ tâm và là hậu quả của sự lệch lạc. Quan điểm thần học - tôn giáo đối với hành vi lệch lạc là một phần không thể tách rời của thế giới quan tôn giáo thống trị vào Thời Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 19 Trung kỷ. Chúa Trời và ác quỷ là thể hiện của điều thiện và điều ác. Họ chống đối lẫn nhau và tuyệt đối không thể dung hòa với nhau. Loại sai lệch chính yếu không thể tránh khỏi – là tà giáo, tà đạo, còn kẻ tội phạm nguy hiểm nhất – chính là kẻ tà đạo. Những người thuộc số này là những người không có niềm tin tôn giáo, không chia sẻ những quan điểm giáo điều cơ bản của Thiên chúa giáo. Tội lỗi của họ là phủ nhận thần thánh, xóa bỏ thần thánh ra khỏi tầng bậc đẳng cấp nhà thờ. Theo quan điểm này, người thiện đó là người có đạo, theo đạo, sùng đạo, tin đạo, còn người ác là kẻ vô đạo, ngoại đạo, không theo đạo. Thời kỳ Phục Hưng Thế kỷ XV gắn liền với tên tuổi của những nhà triết học chủ nghĩa xã hội không tưởng, mà đại diện tiêu biểu là Thomas Moore, Robert Owen và Saint Simon. Những nhà xã hội không tưởng, dù rất gần nhau trong quan điểm triết học, song đã có những quan điểm rất khác nhau, khi quan tâm đến các vấn đề tội phạm. Họ gắn tội phạm với những vấn đề liên quan đến đấu tranh giai cấp, kinh tế, giáo dục và môi trường. Thomas Moore là người đầu tiên trong thời đại Phục Hưng công khai công phẫn với tình trạng nghèo khổ của quần chúng nhân dân lao động, và ông đi đến kết luận rằng để loại bỏ các nguyên nhân của tội phạm trước hết cần phải cải tạo chế độ kinh tế của xã hội. Saint Simon coi việc giáo dục đạo đức là một trong những biện pháp thủ tiêu tội phạm và các sai lệch trong xã hội. Còn Robert Owen kết luận rằng, không nên tìm kiếm các nguyên nhân của tội phạm ở chính cá nhân người phạm tội, mà nên tìm nguyên nhân ở chính môi trường, trong đó con người phạm tội được hình thành, sống và tồn tại. Sự thay đổi xã hội phong kiến thành xã hội công nghiệp, sự thay đổi thế giới quan tôn giáo bằng triết học, mỹ học, đạo đức của chủ nghĩa nhân văn và tri thức đã làm xuất hiện quan điểm duy lý về hành vi sai lệch. Các đại diện tiêu biểu Thời kỳ Kỷ nguyên Ánh sáng hay còn gọi Thời kỳ Triết học Ánh sáng của Chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVII - XVIII đã hình thành nên khái niệm tội phạm như là hành vi của ý chí tự do con người, mà không phải là trò chơi trong tay của “những thế lực cao cấp”, nhưng là cá nhân hành động có ý SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 20 thức và tự do trong hành vi của mình. Với quan điểm này, tội phạm chỉ là kết quả tổng hợp ý chí độc ác của những kẻ tội phạm. Có hai nhà triết học – nhà khai sáng mà tên tuổi rất được chú ý khi dành sự quan tâm của mình đối với hành vi sai lệch và tội phạm – đó là Z. Montesquieu và C. Beccaria. Trong các tác phẩm của mình Montesquieu đề cập đến tình hình tội phạm với tư cách là một hiện tượng cá biệt, còn Beccaria thì dành sự chú ý đặc biệt đến những vấn đề của tình hình tội phạm và hình phạt đối với tội phạm. Z. Montesquieu là tác giả của tập luận văn triết học – pháp luật nổi tiếng “Về tinh thần của các đạo luật” được xuất bản vào giữa thế kỷ XVIII. Một luận điểm nổi tiếng trong tác phẩm của ông được đưa ra, là “nhà làm luật thông minh không hẳn chỉ quan tâm đến các hình phạt đối với các tội phạm, mà chủ yếu là quan tâm về việc phòng ngừa tội phạm” [77]. Một luận điểm có ý nghĩa to lớn của Montesquieu là tội phạm và hình phạt là những hiện tượng tương đối, phản ánh các quan hệ xã hội và nội dung của chúng thường xuyên được thay đổi tùy thuộc vào các thời đại và các xã hội khác nhau. Các quan điểm của C. Beccaria thông thường đồng nhất với quan điểm của Montesquieu, khi ông đi đến kết luận rằng, “phòng ngừa tình hình tội phạm sẽ tốt hơn là trừng trị nó” [77]. Ông cho rằng biện pháp cơ bản của phòng ngừa tội phạm là hoàn thiện việc giáo dục, “giáo dục là biện pháp đúng đắn nhất, nhưng cũng là khó khăn nhất” [77]. Với sự phát triển mạnh mẽ của các khoa học tự nhiên, quan điểm Sinh học và Nhân chủng học đã có những đóng góp của mình vào cách định nghĩa mới về sai lệch và tội phạm. Bác sĩ tâm thần và nhà tội phạm học người Italia Cesare Lombroso đã đưa ra quan điểm về việc tồn tại một kiểu người đặc biệt, có khuynh hướng đến việc thực hiện tội phạm do có những dấu hiệu sinh học được xác định. Từ quan điểm của lý thuyết nhân chủng học, tội phạm được xác định như là tổng hợp của các tội lỗi được thực hiện bởi những người – những kẻ tội phạm bẩm sinh có khuynh hướng mang tính sinh học đối với việc thực hiện tội phạm. C. Lombroso tuyên bố rằng, người ta không trở thành kẻ tội phạm, người ta sinh ra thành kẻ tội phạm. Kẻ tội phạm Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 21 bẩm sinh dễ dàng phân biệt với những người khác theo dáng vẻ bên ngoài. C. Lombroso đã chỉ ra một loạt những dấu hiệu hình thể bên ngoài của kẻ tội phạm, những dấu hiệu, theo Lombroso, chỉ có ở “những kẻ tội phạm, những tên mọi rợ và loài khỉ đột”. William H. Sheldon, nhà nhân chủng học người Mỹ, đã cố gắng tìm ra mối liên hệ giữa các hành vi cá nhân, trong đó có hành vi sai lệch và tội phạm, với các kiểu loại cơ thể (type of body) con người. Ông đã chỉ ra một kiểu cơ thể cơ bản của con người - ông gọi là “mesomorph”, mà rất dễ có hành vi phạm tội. Vào đầu Thế kỷ XX xuất hiện lý thuyết giải thích hành vi lệch lạc theo quan điểm Tâm lý học của Sigmund Freud (1856-1939), theo đó con người sẽ phát triển bình thường nếu bản ngã (Ego) – lý trí nỗ lực quân bình được những khuynh hướng bẩm sinh luôn đòi phải được thỏa mãn ngay (bản năng – Id) và những đòi hỏi thực tiễn của xã hội, còn nếu để bản năng vượt trội, trỗi dậy một cách quá mức, vượt qua sự kiểm soát của bản ngã, thì khi đó cá nhân con người sẽ rơi vào hành vi lệch lạc. S. Freud đã giải thích những lệch lạc, những bất thường trong nhân cách của cá nhân do sự không quân bình trong bộ máy tâm thức, khi yếu tố xung động bản năng chi phối quá mạnh. Vấn đề tội phạm và các hành vi sai lệch cùng các biện pháp đấu tranh với chúng cũng lôi cuốn sự chú ý của các nhà cách mạng Dân chủ Nga như A. I. Gercen, V. G. Belinsky, N. A. Dobroljubov, N. G. Chernyshevsky, D. I. Prinsev. Những người này cho rằng việc phòng ngừa tình hình tội phạm sẽ có hiệu quả nếu nó gắn liền với việc biến đổi cách mạng các quan hệ tư bản. Zall-Pol Marat đã có công lao không nhỏ đối với sự phát triển của lý luận tội phạm. Trong tác phẩm “Kế hoạch hóa của pháp luật hình sự” công bố vào nửa sau Thế kỷ XVIII, ông đã chỉ rõ bản chất giai cấp của tội phạm, xác định mối liên hệ của nó với chế độ xã hội tư bản, làm sáng tỏ tính quyết định về mặt kinh tế - xã hội của tình hình tội phạm. Marat coi tội phạm như là sự vi phạm trật tự xã hội đã được xác lập. A. N. Radishchev – nhà cách mạng dân chủ Nga nổi tiếng, nhà tư tưởng duy vật kiệt xuất Nga, nhà văn, nhà triết học nửa sau Thế kỷ XVIII. Ông cũng là nhà luật học, nhà thống kê học nổi tiếng. Ông cũng dành sự quan tâm to SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 22 lớn đến việc nghiên cứu tội phạm. Radishchev đã bỏ rất nhiều công sức để xây dựng thống kê hình sự ở nước Nga. Trong tác phẩm “Về luận điểm pháp luật” của mình, ông đã soạn thảo các chỉ số đặc trưng cho tất cả các loại tội phạm lẫn những người thực hiện chúng, cũng như động cơ và nguyên nhân của việc thực hiện tội phạm. Chương trình do ông soạn thảo về quan sát và phân tích thống kê các “bệnh hoạn xã hội” như ăn xin, gái điếm và các hiện tượng khác có mối liên hệ với tội phạm và hành vi sai lệch có ý nghĩa rất to lớn trong nghiên cứu tội phạm và các hành vi sai lệch. 1.1.2. Một số nghiên cứu xã hội học chủ yếu về hành vi sai lệch Trong xã hội học hiện đại về hành vi sai lệch đã hình thành nhiều truyền thống, cách tiếp cận và lý thuyết khoa học khác nhau. Khuynh hướng của các nhà nghiên cứu về sự sai lệch của trường phái khoa học này hay trường phái khoa học khác phụ thuộc vào, về bản chất, việc sử dụng những phương pháp, nguyên tắc và hệ hình nghiên cứu nào, các nhân tố xã hội này hay nhân tố xã hội khác có ý nghĩa thế nào. Trong các lý thuyết thuần xã hội học về hành vi sai lệch thường quan sát thấy định hướng chủ yếu đến tính xã hội trong hành vi, mà không chú ý đầy đủ đến tính tự nhiên của con người. Các lý thuyết này đã gắn cho nhóm và xã hội một ý nghĩa rất to lớn trong hệ thống các mối quan hệ “cá nhân” – “nhóm” – “xã hội”, chú ý to lớn đến các cấu trúc xã hội và hệ thống các mối quan hệ qua lại. Trong mối quan hệ này, xã hội học về hành vi sai lệch dựa trên những khái niệm như chuẩn mực xã hội, sự sai lệch, kiểm soát xã hội, văn hóa phụ lệch lạc, phi chuẩn (anomie), sự dán nhãn, rối loạn tổ chức, xã hội hóa sai lệch, thể chế lệch lạc, sự nghiệp sai lệch, sự đối kháng văn hóa. Sự giải thích mang tính xã hội học về các hiện tượng của hành vi sai lệch được thực hiện trên cơ sở cân nhắc rộng rãi tổ hợp của những thay đổi văn hóa - xã hội và kinh tế - xã hội. Dưới đây là một số lý thuyết xã hội học về hành vi sai lệch được nhiều người quan tâm. Lý thuyết thống kê về sự sai lệch của Lambert Adolphe Jacques Quetelet (1796-1874) – nhà toán học người Bỉ, được cho là nhà xã hội học cấp tiến, nhà nghiên cứu các vấn đề tội phạm. Ông là nhà phân Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 23 tích một trong các lý thuyết xã hội học về sự sai lệch trên cơ sở các số liệu thống kê. Lamber Adolphe Jucques Quetelet, khi tiến hành các quan sát thống kê các quá trình và các hiện tượng xã hội khác nhau, đã đặt nền tảng cho xã hội học, tạo nên “vật lý xã hội” của mình. Cách tiếp cận này được gọi là lý thuyết thống kê hay lý thuyết bản đồ học, bởi nó sử dụng sự so sánh các số liệu thống kê, trong đó có thống kê về tội phạm, theo bản đồ hay các sơ đồ. Những quan sát mang tính địa lý các tội phạm hoàn tất đã cho phép A. Ketle đưa ra giả thuyết về việc, sự tập trung hóa tội phạm có thể xảy ra trong mối liên hệ qua lại với “khí hậu đạo đức” của từng vùng riêng biệt, và trên cơ sở lý thuyết thống kê về sự sai lệch của vùng đó. Trên cơ sở những số liệu nhận được từ phương pháp thống kê A. Ketle đưa ra khái niệm “người trung bình” và trở thành một trong những người đầu tiên xem xét hiện tượng hành vi tội phạm theo cách của xã hội học: không phải từ vị trí của cá nhân, từ bệnh lý học cá nhân, mà trong phạm vi định hướng xã hội (là) trung tâm (sociocenter). A. Ketle đã phát hiện ra rằng, số lượng tội phạm hoàn tất và các hành vi sai lệch từ năm này sang năm khác trong một xã hội nhất định hầu như không thay đổi. Nói chung cấu trúc tội phạm là ổn định. Những kết luận xã hội học của Ketle được chứng minh và lý giải theo cách thức thống kê đã đưa ông đến điều khẳng định rằng, tội phạm không phải là tổng số cơ học của những hành vi “tự do” tùy tiện, mà là một tổng thể phụ thuộc những quy luật khách quan, xác định được. A. Ketle đi đến kết luận rằng, xã hội vốn bao hàm ở mình mầm mống của việc thực hiện bất kỳ tội phạm nào. Theo ông, xã hội tự mình bằng cách này hay cách khác chuẩn bị các tội phạm, còn người phạm tội chỉ là công cụ thực hiện các tội phạm đó. Mỗi hình thái kinh tế xã hội quyết định về mặt xã hội một số lượng nhất định và các loại tội phạm nhất định. Các loại tội phạm là hậu quả tất yếu của một cơ cấu xã hội nhất định. Như vậy, tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội đặc trưng cho mọi xã hội, vì từ năm này sang năm khác được lặp đi lặp lại với “sự tất yếu”. Quan niệm mác-xít về hành vi sai lệch. Karl Marx (1818-1883) – nhà tư tưởng xã hội và xã hội học nổi tiếng người Đức, người sáng lập lý thuyết xã hội - chính trị chủ nghĩa mác-xít. Ông cũng là người SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 24 nghiên cứu vấn đề hành vi sai lệch. K. Marx là một trong những người đầu tiên dành sự chú ý, nói riêng, đến hiện tượng tội phạm không phải từ quan điểm nhân chủng học và thống kê học, mà từ quan điểm xã hội - chính trị, hay nói chính xác hơn, từ quan điểm giai cấp. Như đã biết, các quan điểm khoa học của K. Marx được hình thành chủ yếu dưới ấn tượng “sự tàn bạo của tích lũy tư bản đầu tiên” ở châu Âu: sự bần cùng hóa giai cấp nông dân ở diện rộng, sự gia tăng đói nghèo ở các thành phố, sự giàu có của tầng lớp hẹp các nhà tư sản đã diễn ra đồng thời với sự phát triển như vũ bão của tội phạm và nhiều hành vi sai lệch xã hội khác. Phát biểu ủng hộ con đường cách mạng thay đổi chế độ xã hội, thủ tiêu sở hữu cá nhân các phương tiện sản xuất, từ bỏ quan hệ kinh tế tư sản, K. Marx đã đặt khởi đầu cho sự phát triển hình thái xung đột - cấp tiến trong xã hội học, mà trong phạm vi đó ông đặt nền tảng cho quan niệm mác-xít về hành vi sai lệch. K. Marx luôn xem xét các vấn đề của xã hội tư bản trong phạm vi định hướng xã hội (là) trung tâm (sociocenter), định hướng xã hội học. K. Marx cho những hiện tượng khách quan của bóc lột tư bản, sự bần cùng hóa và tội phạm một ý nghĩa không phải tương đối, mà là tuyệt đối. Tội phạm trong xã hội tư sản, theo K. Marx - là hiện tượng không thể loại trừ. Ông viết rằng, “giống như pháp luật, tội phạm có nguồn gốc trong những điều kiện, mà trong đó sự thống trị đang tồn tại”. Trong một loạt những nghiên cứu nổi bật mang tính mác-xít về tội phạm có một công trình của Fridrich Engels (1844 – 1845) là “Tình trạng giai cấp công nhân ở Anh”. Trong chuyên khảo này F. Engels đã gọi tội phạm là “một hình thức công phẫn (nổi giận) thô bạo nhất và vô ích nhất”. Thêm nữa, tội phạm, theo F. Engels, - đó là biểu hiện chiến tranh xã hội, khi mà “mỗi người đứng về phía mình và vì mình đấu tranh chống lại tất cả còn lại Và cuộc chiến tranh này, như các bảng thống kê tội phạm chỉ ra, từ năm này sang năm khác trở nên thịnh nộ hơn, khốc liệt hơn và không thể dung hòa hơn”. Trên thực tế F. Engels đã công bố những nghiên cứu xã hội học tự mình đầu tiên về vấn đề tội phạm trong phạm vi của chủ nghĩa Mác, mà ở đó lý giải rõ ràng bản chất xã hội– giai cấp của hành vi tội phạm. Miêu tả tội phạm như là sự chống đối Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 25 của giai cấp công nhân chống lại các nhà tư bản dưới hình thức của đấu tranh giai cấp không hiệu quả, F. Engels đã tìm thấy những nguyên nhân của sai lệch xã hội, trước hết là trong những điều kiện kinh tế của xã hội tư bản đương thời. Lý thuyết kiểu tội phạm chuyên nghiệp và bắt chước tội phạm của G. Tard. Gabriel de Tard (1843 – 1904) – luật sư và nhà xã hội học Pháp nổi tiếng. Ông là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của khuynh hướng nghiên cứu xã hội học về sai lệch xã hội. G. Tard đã đi theo khuynh hướng quan tâm đến tâm lý học cá nhân và quần chúng (đám đông). Mặc dù được giáo dục về luật và đầy kinh nghiệm trong hoạt động điều tra, G. Tard vẫn tiếp cận vấn đề hành vi sai lệch như một nhà xã hội học và nhà tư tưởng xã hội. Năm 1886 ông đã công bố cuốn sách đầu tiên của mình – “Tội phạm so sánh”, mà trong đó áp dụng phương pháp thống kê, ông đã tập hợp và phân tích số liệu nhiều năm về tội phạm ở Pháp. G. Tard lần đầu tiên trong công trình của mình đưa ra ý nghĩa quyết định đối với các nhân tố xã hội và tâm lý học. G. Tard đã phát triển lý thuyết “kiểu tội phạm chuyên nghiệp”, mà các luận điểm chính của nó thể hiện trong cuốn sách “Triết học trừng phạt” (1890). Ông đã hoàn chỉnh ý tưởng về “kiểu tội phạm chuyên nghiệp” và, về bản chất, là sự chuyên nghiệp của kẻ tội phạm. “ Bất kỳ một nghề nghiệp xã hội hay chống lại xã hội to lớn nào cũng đều lôi kéo về mình tất cả những ai có tố chất thích hợp với nó, nếu như sự lựa chọn công việc được tự do; nếu tồn tại sự phân chia đẳng cấp, thì sẽ quan sát thấy sự tích lũy những tính chất thích hợp bằng con đường chuyển giao di truyền; và như vậy người cao thượng sẽ sinh ra thành những người dũng cảm, người Do thái sẽ thành những chủ ngân hàng, v.v”. Trong cách hiểu của G. Tard, tội phạm đó là nghề nghiệp, là hành động nghề nghiệp. Tội phạm chuyên nghiệp phải nắm vững các thủ thuật của hành vi phạm tội do quá trình học tập lâu dài các kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn, những chuẩn mực liên quan của “chỉ số trộm cắp”. Cân nhắc ở mức độ nhất định ảnh hưởng của các nhân tố nhân chủng học đối với hành vi phạm tội G. Tard đã cho các điều kiện xã hội – môi trường học tập một ý nghĩa rất cao. Trong nghiên cứu của mình, G. Tard cũng đi đến kết luận rằng, tội phạm chuyên nghiệp cũng có thể xuất phát từ sự SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 26 bắt chước. Trong cuốn sách “Các quy luật của sự bắt chước” (1890), trên cơ sở những vấn đề của ý thức và tâm lý, G. Tard đã phân tích sự ảnh hưởng của môi trường xã hội đến hành vi của cá nhân và nhóm. Ông đã tuyệt đối hóa hiện tượng ảnh hưởng xã hội, của chính xã hội. Ông cho rằng, bộ máy xã hội về bản chất là sự mô phỏng và mô phỏng đóng vai trò quan trọng trong xã hội, tương tự như tính di truyền trong bộ máy sinh lý học. Quan niệm phi chuẩn của Robert Merton. Robert Merton (1910) – là nhà xã hội học nổi tiếng của Mỹ theo trường phái chức năng. Trong các công trình của ông cách tiếp cận xã hội (là) trung tâm đối với quan niệm phi chuẩn đã có sự phát triển quan trọng và rõ ràng nhất. Dưới ảnh hưởng quan điểm của E. Durkheim, R. Merton đi đến khẳng định rằng, một vài cấu trúc xã hội tạo điều kiện cho hành vi sai lệch của một số thành viên riêng biệt trong xã hội. Giống như E. Durkheim, ông nhìn thấy trong tội phạm, trong sự vi phạm “chỉ số xã hội” “phản ứng chuẩn mực của những người chuẩn mực đến những điều kiện không chuẩn mực”. R. Merton phân tích phi chuẩn và sự sai lệch trong bối cảnh xã hội - văn hóa rộng lớn, vì vậy lý thuyết của ông được coi là có tính khái quát hơn. Nếu ở E. Durkheim phi chuẩn chỉ gắn với sự sụp đổ hay sự yếu đi của các quy định chuẩn mực hành vi trong điều kiện xã hội thay đổi nhanh chóng, thì ở R. Merton phi chuẩn xuất hiện là do “bất đồng cấu trúc đặc biệt của văn hóa” và là nhân tố thường xuyên của mối căng thẳng xã hội - tâm lý trong hệ thống xã hội. Vì vậy tự tử, theo R. Merton, là một trong những phản ứng hành vi có thể xảy ra đối với sự phi chuẩn, mà trong số hành vi đó có thể là tội phạm, say rượu, sử dụng ma túy và nhiều hình thức sai lệch khác. R. Merton áp dụng và phát triển sáng tạo di sản lý thuyết của Durkheim đối với điều kiện xã hội phát triển ổn định. Ông miêu tả và giải thích các kiểu cơ bản của hành vi sai lệch trong bối cảnh thích ứng vai trò, xuất phát từ sự phân tích các mối quan hệ phi chức năng khác nhau giữa cấu trúc xã hội và cấu trúc văn hóa của xã hội hiện đại ở cấp độ xã hội vĩ mô. Theo R. Merton, phi chuẩn - đó là sự không đồng nhất, sự phá vỡ giữa mục đích văn hóa - xã hội của cá nhân (hay nhóm) được xã hội khuyến khích và các khả năng đạt được chúng bằng các phương tiện phù hợp pháp luật Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 27 hay được xã hội chấp nhận. Ví dụ như, khi một người chấp nhận mục đích thành công về mặt tài chính, nhưng nhận thấy không thể đạt được bằng những phương tiện mà xã hội chấp nhận, người đó có thể quay lại những cách thức bất hợp pháp khác nhau để đạt được mục đích như kiếm tiền bằng những mánh khóe bất chính, làm ăn gian lận, buôn lậu hay buôn bán ma túy, cướp giật, cướp nhà băng, v.v. Những hành vi này không được pháp luật và xã hội chấp nhận, và đó chính là những hành vi sai lệch, hành vi tội phạm. Lý thuyết kiểm soát xã hội của Travis Hirschi. Dựa trên khái niệm “những mối liên kết xã hội” (social bonds) được T. Hirschi đưa ra vào năm 1969, ông đã khẳng định rằng, càng nhiều người tin tưởng vào những giá trị truyền thống, sự đúng đắn của pháp luật, họ càng ràng buộc với những mục đích thành công trong công việc, họ càng đòi hỏi vào những hoạt động được xã hội chấp nhận, họ càng gắn bó với cha mẹ, trường học, bạn bè, đồng nghiệp, thì người ta càng ít rơi vào những hành vi lệch lạc, càng ít rơi vào sự sai lệch. Lý thuyết giải thích hành vi lệch lạc trên cơ sở văn hóa (hay Lý thuyết văn hóa phụ lệch lạc). Những lý thuyết xây dựng trên sự rối loạn tổ chức xã hội liên quan đến các sức mạnh xã hội mà “đẩy” con người vào hành vi sai lệch. Các lý thuyết văn hóa về lệch lạc, cũng giống như các lý thuyết rối loạn trật tự xã hội, nhưng chúng tập trung vào các giá trị văn hóa cũng như những cơ hội dẫn đến sai lệch, nói cách khác, những sức mạnh xã hội không phải là “đẩy” như nói ở trên, mà là “kéo” người ta tới hành vi sai lệch. Selin (1938) nhấn mạnh rằng, sai lệch phát sinh là do những đối kháng giữa các chuẩn mực văn hóa. Selin chú ý đến những nhóm văn hóa mà chuẩn mực của chúng khác với chuẩn mực của phần xã hội còn lại. Những chuẩn mực đối kháng nảy sinh, bởi vì nó không cùng quan tâm, tuân thủ những chuẩn mực của số đông. Walter Miller (1958) mở rộng ý tưởng của Sellin về mối liên quan giữa văn hóa và hành vi sai lệch. W. Miller cho rằng văn hóa phụ tội phạm thường phát triển ở những tầng lớp dưới. Những giá trị và chuẩn mực của các băng nhóm tội phạm là sự phản ứng với lối sống của các tầng lớp trên. Bằng cách sống với những giá trị này, các thành viên của các tầng lớp dưới bị những SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 28 người khác, đặc biệt là tầng lớp trên, coi như là những kẻ tội phạm. Edwin Sutherland (1939), trên cơ sở vấn đề là tại sao một số người hấp thụ được những giá trị của văn hóa phụ lệch lạc, trong khi những người khác lại không, đã cố gắng giải thích điều này trong khái niệm do ông đưa ra – đó là “sự liên kết khác biệt” (differential association). Ông cho rằng hành động sai lệch và phạm tội là do “được học” (criminality is learned) mà hình thành. Người ta hấp thụ những giá trị liên quan đến sai lệch bằng cách liên kết, giao tiếp với những người đang nắm giữ các giá trị này. Nếu một người có nhiều bạn bè và người thân liên quan đến tội phạm và hành vi sai lệch, thì người đó cũng có thể trở thành kẻ tội phạm do học được những hành vi sai lệch từ họ. Cloward và Ohlin (1959; 1960) đi xa hơn cả Sutherland khi cho rằng, không cần phải học, bởi học thì đương nhiên là phải biết, mà chỉ cần có cơ hội, dù là nhỏ nhất, để tiếp xúc hay tham gia vào hành vi sai lệch, là người ta đã có thể trở thành kẻ lệch lạc. Đặc biệt, hai ông nhấn mạnh đến cơ hội tiếp xúc với những “kẻ lệch lạc thành công” (successful deviants), những kẻ tội phạm sau những phi vụ thành công, hoàn hảo, người ta, đặc biệt là thanh niên, thấy họ như những “thần tượng”. Và những cơ hội như vậy dễ dàng và nhanh chóng lôi kéo những người khác đến dần hành vi sai lệch. Điều này nói đến nguy cơ rơi vào sai lệch rất cao và dễ dàng. Người ta vẫn thường nói, cả đời chưa chắc học hết một điều tốt, nhưng điều xấu chỉ cần trong giây lát đã có thể làm được ngay. Lý thuyết gán nhãn (Lebeling theory) của Howard Becker. Howard Becker trong tác phẩm “Kẻ ngoài cuộc” (“Outsiders” - 1963) đã đưa ra cách tiếp cận mới về hành vi sai lệch trên cơ sở nhấn mạnh ai là người xét đoán một người khác là lệch lạc, cũng như cách thức con người bị đối xử như thế nào sau khi người đó bị gán cái nhãn là “kẻ ngoài cuộc – kẻ lệch lạc”. H. Becker tin tưởng rằng, lệch lạc thực sự sinh ra bởi thẩm quyền của những nhóm quyền lực, bằng cách áp đặt những tiêu chuẩn hành vi lên những người khác. Những nhóm xã hội quyền lực tạo ra lệch lạc, theo Becker, bằng cách đưa ra những quy tắc mà ai vi phạm sẽ trở thành kẻ lệch lạc. Bằng cách áp dụng những quy tắc đó vào những con người cụ thể và dán nhãn cho họ Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 29 như những kẻ ngoài cuộc. Theo lý thuyết này, lệch lạc không phải nội dung của một người thực hiện, mà là kết quả của việc áp đặt bởi những người khác các quy tắc và hình phạt đến người phạm tội. Tóm lại, H. Becker cho rằng một hành động bị gán là lệch lạc hay không phụ thuộc một phần vào thực chất của hành động đó, và một phần vào việc người gắn nhãn lệch lạc cho hành động của người khác. Becker cũng khẳng định rằng những người mà có thể bắt những người khác chấp nhận quy tắc này phụ thuộc vào những ai có sức mạnh chính trị và kinh tế. 1.1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài chuyên luận E. Durkheim với tư cách là cha đẻ, người sáng lập xã hội học phương Tây hiện đại, đại diện tiêu biểu của trường phái cấu trúc chức năng, người đưa ra rất nhiều những tư tưởng, quan điểm chính yếu, những lý luận liên quan đến xã hội học, nên viết về ông, về các tác phẩm, công trình khoa học của ông có rất nhiều và sẽ còn nhiều hơn nữa. Có thể nói, trên thế giới tồn tại cả một hệ thống đồ sộ các bài viết liên quan đến E. Durkheim và nội dung các tác phẩm của ông. Con số những bài viết, những công trình nghiên cứu về ông cho đến nay vẫn không dừng lại và tiếp tục tăng lên đáng kể. Điều này chứng tỏ quan niệm xã hội học của E. Durkheim đã tạo nên sự quan tâm và chú ý to lớn đối với các nhà nghiên cứu, đặc biệt trong việc áp dụng những quan niệm của ông vào phân tích các hiện tượng xã hội cụ thể. E. Durkheim đã để lại rất nhiều công trình, tác phẩm mà trong đó trình bày các quan điểm, cách tiếp cận, lý thuyết, lý luận, nghiên cứu của mình về rất nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến con người và đời sống xã hội. Liên quan đến quan điểm sai lệch, hành vi sai lệch, sai lệch xã hội và tội phạm được E. Durkheim phản ánh chủ yếu qua các công trình rất nổi tiếng mà bất kỳ ai nghiên cứu xã hội học, nghiên cứu và tìm hiểu E. Durkheim không thể không đề cập tới. Đó là tác phẩm “Phân công lao động trong xã hội” (1893), “Tự tử” (1897) và bài báo “Bình thường và bệnh lý” mà sau này được E. Durkhiem đưa vào trong tác phẩm “Những quy tắc của phương pháp xã hội học” (1895) nổi tiếng của mình. Phần lớn, phần đáng kể các công SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 30 trình, các bài viết của các nhà nghiên cứu từ thời kỳ xuất hiện các công trình nghiên cứu của E. Durkheim cho đến nay là tập trung vào việc nhìn nhận, xem xét, phân tích, đánh giá, phê phán các quan niệm xã hội học khác nhau, các nguyên tắc phương pháp nghiên cứu xã hội học của E. Durkheim. Điều đó cũng có nghĩa, những vấn đề liên quan đến quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim cũng được các nhà nghiên cứu qua các thời đại khác nhau quan tâm ở các mức độ khác nhau. Quan điểm sai lệch trong xã hội học của E. Durkheim chủ yếu được các nhà nghiên cứu trình bày dưới hình thức liên quan, lồng ghép, đồng thời với các quan niệm và khái niệm xã hội học khác nhau của E. Durkheim, mà hầu như rất ít hoặc là không có những nghiên cứu riêng biệt, độc lập về vấn đề sai lệch xã hội. Ở đây, do chỉ đề cập đến quan điểm sai lệch xã hội trong xã hội học của E. Durkheim, nên chúng tôi chỉ điểm qua những tài liệu mà chúng tôi sưu tầm, tìm kiếm được, có liên quan đến quan điểm nói trên của E. Durkheim, để từ đó có thể hình dung được tình hình nghiên cứu nói chung về vấn đề này cho đến hiện nay là như thế nào. Trước hết, điển hình như ở Pháp – quê hương của E. Durkheim, quan niệm triết học - xã hội của E. Durkheim đã tạo nên sự quan tâm to lớn trong việc áp dụng nó để phân tích các hiện tượng xã hội cụ thể, trong đó có những hiện tượng xã hội như sự phân công lao động, tự tử, tôn giáo và một số hiện tượng khác. Các nhà xã hội học Pháp như G. Tard, R. Vorms, G. Rishar, A. Futle, R. Lacomb đã phản đối mong muốn của E. Durkheim tách biệt xã hội học khỏi tâm lý học và giải thích nguyên nhân hành vi sai lệch thuần túy từ quan điểm xã hội học. Các nhà xã hội học nổi tiếng của Pháp thời hậu chiến là P. Aron và J. Guorvich đã hầu như phủ nhận quan niệm lý luận - phương pháp của E. Durkheim, trong đó E. Durkheim có viện dẫn vấn đề liên quan đến tội phạm để khẳng định các phương pháp nghiên cứu xã hội học của mình. Các công trình của S. Bugle (“Chủ nghĩa duy linh của Emile Durkheim” – Lời dẫn cho cuốn sách của Durkheim “Xã hội học và triết học”, “Khuynh hướng triết học xã hội học của Durkheim”, “Kết quả của xã hội học Pháp hiện đại”), các tác phẩm của J. Davi (“Xã hội học của Durkheim”), của P. Foconne và M. Moss (“Xã hội Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 31 học”), của M. Halbvaks (“Sự xuất hiện tình cảm tôn giáo theo kiểu Durkheim”) chủ yếu dành cho các vấn đề triết học trong sáng tạo của E. Durkheim, trong đó đề cập đến các tác phẩm nổi tiếng nêu trên của ông, liên quan đến các vấn đề đạo đức, tôn giáo, đoàn kết xã hội, phân công lao động và tự tử. Ở Anh, một số quan niệm của E. Durkheim như quan niệm xã hội như một hiện thực đặc biệt, phân tích hiện tượng xã hội từ quan điểm chức năng, trong đó đề cập đến các chức năng của sai lệch xã hội, đã được các nhà xã hội học Anh là A. Radcliffe-Brown (1881-1955), B. Malinowsky (1884-1942) đón nhận và phản ánh trong các công trình nghiên cứu của mình. A. Radcliffe -Brown đã tiến hành một loạt bài giảng ở Trường Đại học Chicago (Mỹ) về các hiện tượng rối loạn trật tự xã hội trong xã hội học của E. Durkheim và tạo nên một tiếng vang rất lớn trong xã hội Mỹ. E. Durkheim đã nhận được “hơi thở mới” trong việc phân tích các quan niệm xã hội học từ các nhà xã hội học ở Mỹ, như trong tác phẩm “Cống hiến của Emile Durkheim trong lý thuyết xã hội học” của nhà nghiên cứu Mỹ S. Gelke, trong cuốn sách “Lý thuyết xã hội học hiện đại” của P. Sorokin. Đặc biệt, tạo nên bước ngoặt lớn về tính thích hợp tư tưởng của E. Durkheim trong việc nghiên cứu các hiện tượng rối loạn trật tự xã hội trong trường phái tâm lý xã hội Chicago. Vào những năm 30 (của Thế kỷ trước) ở Mỹ xuất hiện nhiều hơn những công trình nghiên cứu dành phân tích những sáng tạo của E. Durkheim, cũng như công bố các trích đoạn các tác phẩm của ông. Theo ý kiến của nhà nghiên cứu xã hội học người Mỹ R. Nisbet, các di sản của E. Durkheim, chính xác hơn là các quan điểm của nhà xã hội học người Pháp đối với các vấn đề xã hội như tội phạm, tự tử, tính không bền vững của gia đình, rối loạn trật tự xã hội và những vấn đề khác là những vấn đề lý luận rất có triển vọng. R. Nisbet viết: “Sự đối lập mà Durkheim dẫn dắt giữa đoàn kết máy móc và đoàn kết tổ chức, khái niệm phi chuẩn của ông, tự tử ích kỷ và tự tử vị tha, sự phân loại của ông về sự hội nhập và phi hội nhập xã hội – tất cả cái đó là cả bầu trời lôi cuốn đối với xã hội học Mỹ” [115]. R. Nisbet viết tiếp: “Durkheim là nhà xã hội học phi chuẩn (anomie) nổi bật, và không nhiều xã hội có SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 32 thể giới thiệu nhiều hơn những ví dụ phong phú và đa dạng tình trạng rối loạn trật tự xã hội này so với nước Mỹ trong Thế kỷ XX” [115]. A. Giddens trong nghiên cứu của mình đã chứng minh rằng, tư tưởng trung tâm đối với E. Durkheim là tư tưởng biến đổi xã hội, “của sự đối kháng giữa xã hội truyền thống bị phá vỡ và kiểu xã hội hiện đại đang xuất hiện.”[88] Theo thời gian, sự quan tâm đối với xã hội học của E. Durkheim ngày càng tăng lên ở phương Tây, cũng như trên thế giới, nói lên sức sống mãnh liệt các tư tưởng vĩ đại của E. Durkheim. Người ta thường xuyên in lại, bình luận và phân tích các tác phẩm của E. Durkheim, nối tiếp những nhịp cầu giữa những khẳng định lý thuyết của ông với tình hình nghiên cứu các vấn đề trong xã hội hiện đại. Đó trước hết là những vấn đề liên quan đến rối loạn trật tự xã hội và bệnh hoạn xã hội, kiểm soát xã hội và hòa nhập xã hội, xã hội học đạo đức và tôn giáo. Những tác phẩm của E. Durkheim, như đã nêu ở trên, “Về sự Phân công lao động trong xã hội”, “Tự tử” và “Những quy tắc của phương pháp xã hội học” không ngừng được mổ xẻ, lật tới lật lui, xem xét và nhìn nhận, phê phán và đánh giá, tùy theo những vấn đề và mức độ quan tâm của các nhà nghiên cứu xã hội khắp nơi trên toàn thế giới. Số lượng các chuyên khảo dành cho nghiên cứu về E. Durkheim ngày càng tăng lên. Một số những công trình đáng kể nhất có thể kể đến là “Xã hội học và khuynh hướng cực đoan” của E. Tiriakian, “Durkheim” của J. Duvinjo, “Chủ nghĩa tư bản và lý thuyết xã hội hiện đại. Phân tích các tác phẩm của Marx, Durkheim và Max Weber” và “Emile Durkheim” của A. Giddens, “Durkheim. Đạo đức và môi trường” của E. Volvork, “Emile Durkheim. Nhà xã hội học và nhà triết học” của D. La Capra, “Kiểu mẫu xã hội. Nghiên cứu lý thuyết xã hội học của Tocvin, Marx và Durkheim” của D. Podji, “Emile Durkheim. Cuộc đời và công trình” của S. Lukes, “Xã hội học của Emile Durkheim” của R. Nisbet, “Durkheim cấp tiến” của B. Lacrua, “Khủng hoảng các giá trị và cải cách xã hội: Emile Durkheim, các tác phẩm về chính trị” của H. Muller, “Quan niệm các nhóm nghề nghiệp của Emile Durkheim” của K. Maier và nhiều người khác. Các nghiên cứu kể trên, tùy theo mức độ, đều viện dẫn các tác phẩm, trong đó không thể thiếu 3 tác phẩm đã nêu của E. Durkheim, và đề cập đến các vấn đề liên Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 33 quan đến quan điểm sai lệch xã hội của ông. Trong số các công trình nghiên cứu về E. Durkheim, cũng cần chỉ ra những bài báo dẫn luận và bình luận đối với các tuyển tập các công trình chọn lọc của E. Durkheim của các tác giả như K. Volf, R. Nisbet, R. Berstad, A. Giddens, U. Pikering, Ch. Bella và một số người khác. Nhiều vấn đề xã hội, trong đó không thể không kể đến như hiện tượng tự tử, vấn đề “anomie”, bệnh hoạn xã hội, hiện tượng tội phạm, được E. Durkheim quan tâm và dành nhiều thời gian nghiên cứu đã luôn được nhắc tới trong những bài viết này. Ở Liên Xô (trước đây) và nước Nga hiện nay, sự quan tâm đối với E. Durkheim và xã hội học của ông cũng rất to lớn và đáng kể. Các tác phẩm nổi tiếng của E. Durkheim, trong đó có các tác phẩm “Phân công lao động trong xã hội”, “Tự tử”, “Những quy tắc của phương pháp xã hội học” đã được dịch và dịch nhiều lần sang tiếng Nga. Nhiều công trình nghiên cứu về E. Durkheim và xã hội học của ông, của các nhà nghiên cứu xã hội học Nga đã lần lượt được công bố. Có thể kể ra đây một số tên tuổi các nhà xã hội học Nga nghiên cứu về E. Durkheim như F. Telenhicov (“Durkheim về đối tượng và phương pháp xã hội học”), I. S. Kon (“Chủ nghĩa thực nghiệm trong xã hội học”) đề cập đến các tư tưởng lý thuyết và phương pháp cơ bản của E. Durkheim, D. M. Urginovich (“Những vấn đề triết học phê phán tôn giáo”) phân tích những vấn đề riêng biệt trong sáng tạo của E. Durkheim, E. M. Korjevaja và A. B. Gofman phân tích các hiện tượng xã hội trong xã hội học Durkheim, v.v. Đặc biệt, không thể không nói đến công trình nghiên cứu về E. Durkheim “Xã hội học của Emile Durkheim” của nhà nghiên cứu xã hội học nổi tiếng người Nga E. V. Osipova. Công trình này đã tái bản lần thứ hai mới đây, có sửa chữa và bổ sung. Trong công trình nghiên cứu về E. Durkheim nói trên, E. V. Osipova đã phân tích quan niệm xã hội học nói chung của E. Durkheim, cũng như áp dụng nó để phân tích các hiện tượng xã hội như phân công lao động, những hình thái phi chuẩn trong phân công lao động, tôn giáo, đạo đức và vai trò của chúng trong hành vi sai lệch, tự tử, cách phân loại tự tử của Durkheim, phân tích sâu sắc hình thái tự tử phi chuẩn và nhiều vấn đề khác. Công trình nghiên cứu của E. V. Osipova SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 34 được sử dụng rộng rãi trong số các nhà nghiên cứu xã hội học ở Nga, và ở nước ngoài. Liên quan đến sai lệch và hành vi sai lệch nói chung, và cụ thể quan điểm sai lệch của Durkheim nói riêng, ở Liên Xô (trước đây) và nước Nga hiện nay, thậm chí còn hình thành các trung tâm nghiên cứu ở Saint-Peterburg với các nhà nghiên cứu nổi tiếng như V. Afanacjev, Ia. Gilinsky, ở Matxcơva với G. Zaigraev, B. Levin, ở Estonia với A. Leps, E. Raska, Iu. Saar và ở Grudia là A. Gabiane và những người khác [109]. Hiện nay, với sự phát triển của nhận thức, người ta ngày càng phân tích sâu sắc hơn, thay đổi cách đánh giá về tư duy sáng tạo của E. Durkheim, có những cách nhìn nhận mới mẻ về E. Durkheim. Nhiều công trình nghiên cứu gần đây đã giới thiệu và trình bày những phân tích, đánh giá mới về E. Durkheim và các quan niệm xã hội học của ông, đóng góp thêm những tri thức về nhà xã hội học vĩ đại này. Như đã nói ở trên, nghiên cứu về Durkheim có rất nhiều, song quan niệm sai lệch xã hội của ông được nghiên cứu và trình bày một cách riêng biệt và độc lập hầu như rất ít và không có. Vấn đề này chủ yếu được đề cập liên quan và lồng ghép trong những nghiên cứu các quan niệm xã hội học khác của E. Durkheim. Chỉ đến khi, vào Thế kỷ XIX-XX, sự quan tâm đối với hành vi sai lệch trong số các nhà nghiên cứu xã hội tăng lên mạnh mẽ, sai lệch xã hội trong xã hội học của E. Durkheim mới được chú ý và quan tâm nghiên cứu. Trong giai đoạn này ở Tây Âu và Mỹ đã tồn tại không ít các lý thuyết giải thích hành vi lệch lạc theo quan điểm nhân chủng học - sinh học, tâm lý học và xã hội học với các đại diện tiêu biểu như C. Lombroso, A. Ketle, U. Sheldon, S. Freud, E. Erikson, E. Fromm, E. Durkheim, R. Merton, A. Coen, E. Sutherland, H. Becker và nhiều người khác. Như vậy, theo danh sách liệt kê ở trên, E. Durkheim được nhắc đến như nhà nghiên cứu hành vi sai lệch theo quan điểm xã hội học. Trong các công trình nghiên cứu về sai lệch xã hội và tội phạm sau này, tên của E. Durkheim luôn được nhắc tới và được coi như một trong những nhà lý luận đầu tiên về sai lệch xã hội, với khái niệm “anomie” – phi chuẩn mà được đề cập trong tác phẩm “Về sự phân công lao động xã hội” và chủ yếu là tác phẩm “Tự tử”, và trong một số các công trình khác nữa của ông. Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 35 Ở Việt Nam hiện nay cũng đang có rất nhiều công trình nghiên cứu và tìm hiểu về E. Durkheim, cũng như các tác phẩm của ông. Các công trình này đều nhìn nhận E. Durkheim như một nhà xã hội học có công lớn trong việc hình thành xã hội học Pháp và xã hội học nói chung. Tuy nhiên mỗi cuốn sách nói trên chỉ trình bày một khía cạnh, một vấn đề, hoặc là về tiểu sử của E. Durkheim, hoặc đề cập nội dung của từng tác phẩm của E. Durkheim và những nhận định xung quanh những vấn đề nêu ra trong mỗi tác phẩm đó. Những công trình, tác phẩm nghiên cứu riêng biệt về quan điểm sai lệch xã hội của E. Durkheim cũng rất hiếm hoi, chủ yếu cũng chỉ là những đề cập ít nhiều liên quan đến sai lệch xã hội. Dưới đây là một số tác phẩm đang rất phổ biến trong giới nghiên cứu xã hội học có liên quan đến E. Durkheim và quan điểm xã hội học của ông về các vấn đề xã hội như ý thức cá nhân - tập thể, đoàn kết xã hội, phân công lao động, tự tử, rối loạn trật tự xã hội, đạo đức xã hội, tôn giáo, giáo dục, v.v. Nhập môn lịch sử xã hội học – Hermann Korte (Dịch từ nguyên bản tiếng Đức – Người dịch: Nguyễn Liên Hương). Trong Bài IV của cuốn sách trình bày sự phát triển xã hội học ở Anh và Pháp vào cuối thế kỷ 19. Liên quan đến E. Durkheim, cuốn sách đề cập những yếu tố đạo đức của nhà xã hội học tiền bối ở E. Durkheim trong đó, ngoài việc chỉ ra nguồn gốc và đào tạo của E. Durkheim, tác giả trình bày và phân tích các quan điểm cơ bản của E. Durkheim như đoàn kết máy móc và đoàn kết có tổ chức, từ lý thuyết xã hội học đến đạo đức xã hội, bệnh hoạn xã hội và tự vẫn. Xã hội học nhập môn – Tony Bitton Phạm Thuỷ Ba dịch. Trình bày nội dung tác phẩm “Tự tử” của E. Durkheim và một số nhận định về tác phẩm này của các nhà xã hội học hiện đại (giữa thế kỷ XX). Các lý thuyết xã hội học hiện đại – TS. Vũ Quang Hà – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001. Tìm hiểu về cuộc đời của E. Durkheim và khuynh hướng chính trị - xã hội thể hiện trong các tác phẩm của ông. Le Sociologique de Emile Durkheim – Philip Steiner. Đây là tác phẩm tìm hiểu rất kỹ về E. Durkheim và những vấn đề xung quanh cuộc đời của ông. Tác phẩm này không trình bày lý thuyết và cuộc đời E. Durkheim một cách đơn thuần, mà là những nghiên cứu, những nhận định về vị trí của E. Durkheim trong xã hội và xã hội học Pháp, giải thích cho việc tại sao E. Durkheim lại được đánh giá như là một SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 36 nhà xã hội học quan trọng của thế kỷ. Các lý thuyết xã hội học – Bửu Lịch. Trình bày một số nội dung cơ bản qua các tác phẩm quan trọng của E. Durkheim như “Sự phân công lao động xã hội”, “Tự tử”, “Các hình thức cơ bản của đời sống tôn giáo”. Qua những nội dung này tác giả đưa ra nhận định của mình với từng quan điểm của E. Durkheim. Lịch sử xã hội học – Bùi Quang Dũng & Lê Ngọc Hùng. Cuốn sách trình bày về lịch sử xã hội học, trong đó ở Chương 4 của cuốn sách đề cập đến E. Durkheim và sự phát triển của xã hội học Pháp. Các tác giả nói về bối cảnh chính trị xã hội và sự nghiệp của E. Durkheim, phân tích quan điểm đoàn kết xã hội và ý thức tập thể, học thuyết chính trị và phương pháp xã hội học của E. Durkheim. Lịch sử và lý thuyết xã hội học – Lê ngọc Hùng. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong Chương VI của cuốn sách “Xã hội học Emile Durkheim” (1858 – 1917), ngoài phần “Sơ lược tiểu sử”, tác giả cuốn sách trình bày khái niệm xã hội học – khoa học về sự kiện xã hội, các quy tắc của phương pháp luận và một số khái niệm và lý thuyết xã hội học của E. Durkheim. Xã hội học – John J.Macionis. Trung tâm Dịch thuật thực hiện. Nhà xuất bản Thống kê. Trong Chương 8 nói về “Sự lầm lạc” đã phân tích các lý thuyết về “sự lầm lạc”, trong đó phân tích cấu trúc – chức năng của “sự lầm lạc” đối với xã hội của E. Durkheim. Ông được coi như là người tiên phong khi tìm hiểu chức năng của “sự lầm lạc”, khi khẳng định rằng không có gì bất thường về sự lầm lạc, vì đây là một bộ phận gắn liền trong mọi xã hội. Lý thuyết nhân loại học (Giới thiệu lịch sử) – R. Jon McGee – Richard L. Warms (Southeast Texas State University). Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Sách giới thiệu “các nền tảng tư tưởng xã hội học”, trong đó đề cập đến các công trình nổi tiếng của E. Durkheim như “Sự phân công lao động trong xã hội”, “Hình thức cơ bản của đời sống tôn giáo”, tạp chí Niên giám xã hội học. Sách cũng trích dịch một đoạn liên quan đến “Sự kiện xã hội là gì” từ tác phẩm “Các quy tắc của phương pháp xã hội học”, có liên quan đến tỷ lệ sinh đẻ, hôn nhân và tự tử. Gần đây có cuốn sách chuyên khảo “Một số quan điểm xã hội học của Durkheim” của tác giả Nguyễn Quý Thanh (Chủ biên). Cuốn sách bao gồm 7 chương, trong đó ngoài Chương 1 và Chương 2 đề cập đến thân thế và sự nghiệp của E. Durkheim và khẳng định của Durkheim về xã hội học là một khoa học độc lập, các chương còn lại (Chương 3 Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 37 đến Chương 6) đề cập đến quan điểm của E. Durkheim về sự phân công lao động xã hội, về giáo dục, về hiện tượng tự tử, về tôn giáo. Chương 7 cuối cùng đề cập đến một số phê phán đối với xã hội học E. Durkheim. Trong chương 5 “Phân tích xã hội học về hiện tượng tự tử”, tác giả đã phân tích những nội dung cơ bản về hiện tượng tự tử trong tác phẩm “Tự tử” nổi tiếng của E. Durkheim. Những nghiên cứu trên đều xem xét và nhìn nhận một cách riêng lẻ từng quan điểm của E. Durkheim trong từng tác phẩm, còn quan điểm sai lệch xã hội của ông hầu như rất ít được quan tâm và nghiên cứu. Theo chừng mực mà chúng tôi biết được gần như chưa có công trình chính thức nào ở Việt Nam công bố về quan điểm sai lệch xã hội trong xã hội học của E. Durkheim như một công trình nghiên cứu độc lập, ngoài một số đoạn ngắn viết trong các sách, một số bài viết ít ỏi có đề cập đến những hành vi lệch chuẩn như sai lệch xã hội, phi chuẩn, tội phạm, bệnh hoạn xã hội, v.v trong xã hội học của E. Durkheim. 1.2. Bối cảnh hình thành quan điểm của Emile Durkheim 1.2.1. Sơ lược tiểu sử Emile Durkheim (1858-1917) E. Durkheim sinh ngày 15/4/1858 tại Epinal (thuộc Lothrigen), Pháp. Ông mất ngày 15/11/1917 tại Paris. E. Durkheim sinh ra trong một gia đình người Do Thái. Cha ông cũng như ông và cụ của E. Durkheim đều là giáo sĩ Do Thái, đầu tiên cũng có hướng cho con trai Emile như vậy, nhưng ông đã sớm từ bỏ đạo Do Thái. Song thái độ làm việc trong suốt cuộc đời của E. Durkheim vẫn in dấu một sự giáo dục nghiêm khắc. E. Durkheim luôn được coi là một con người cần cù và đam mê công việc. Sau khi tốt nghiệp Trung học, ông đậu vào và học triết học trường Cao đẳng sư phạm ở Paris năm 1879. Năm 1882, ông tốt nghiệp và trở thành giáo viên trung học và đi dạy ở các trường trung học hàng tỉnh. Đồng thời, trong thời gian này, E. Durkheim nghiên cứu sách báo xã hội học và cộng tác với các tạp chí triết học với tư cách là người điểm sách. Năm 1885 - 1886 ông nhận được học bổng sang Đức học để làm quen với tình hình triết học, các khoa học xã hội và đạo đức học. Ông làm quen với học thuyết của các nhà xã hội chủ nghĩa nơi bục giảng, những thuyết cho SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 38 rằng sẽ là hoàn toàn chưa đủ, nếu nền kinh tế quốc dân chỉ tập trung vào các số liệu, dữ liệu và các thành tựu kinh tế, mà cần phải đặc biệt lưu ý đến các vấn đề xã hội. Ngoài ra ông còn làm quen với Ferdinand Tonnies, người xuất bản tác phẩm kinh điển “Cộng đồng và xã hội” vào năm 1887, trong đó mô tả toàn bộ các hiện tượng xã hội và sự tồn tại của chúng như sự tập hợp từ mỗi cá thể riêng lẻ. Người ông làm quen nữa là nhà tâm lý bộ tộc Wilheim Wudt (1832 - 1920), người cũng nghiên cứu về thực tế xã hội. W. Wudt cho rằng không chỉ các quyết định và cân nhắc lợi lộc cá nhân mới quyết định sự phát triển xã hội, mà chúng phải bổ sung bằng các hiện tượng tập thể. Như các đồng nghiệp người Đức, E. Durkheim cũng nhìn thấy khả năng phát triển một luận thuyết đạo đức có thể can thiệp sâu hơn vào sự phát triển của xã hội. Năm 1887 ông được mời dạy giáo trình các khoa học xã hội ở trường Đại học Tổng hợp danh tiếng Bordeaux. Tới năm 1896 ông đứng đầu Bộ môn giáo dục học và khoa học xã hội đầu tiên của trường đại học này. Như vậy là lần đầu tiên trong lịch sử Pháp, khoa học xã hội được coi là một môn học trong trường Đại học Tổng hợp. Tuy sư phạm vẫn ở vị trí thứ nhất, nhưng trong mối quan hệ giữa sư phạm và khoa học xã hội, E. Durkheim có thể theo đuổi được sở thích và mục đích khoa học của mình. Cho đến năm 1902, ông được gọi về Đại học Sorbonne và làm giáo sư về sư phạm và xã hội học và cũng bắt đầu lãnh đạo tổ bộ môn này. Năm 1913, đổi tên thành tổ bộ môn khoa học giáo dục và xã hội học, ông trở thành một trong những trí thức có ảnh hưởng mạnh nhất ở Pháp và trở thành trung điểm của các cuộc tranh luận chính trị và khoa học gay gắt. Thời kỳ giảng dạy và nghiên cứu ở trường đại học Bordeaux, E. Durkheim đã cho ra đời ba tác phẩm quan trọng. Tác phẩm lớn đầu tiên của ông là Luận án tiến sĩ - cuốn sách “Phân công lao động trong xã hội" (1893), trong đó ông trình bày cương lĩnh chính trị - xã hội của mình, mà về sau được trường phái xã hội học Pháp cụ thể hóa thêm. Tác phẩm “Các quy tắc của phương pháp xã hội học” (1895) dành riêng chứng minh cho các quan niệm lý luận - phương pháp luận của “thuyết duy xã hội học”, và là nền móng để xây dựng xã hội học với tư cách một bộ môn độc lập. Trong công trình nghiên cứu xã hội học Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 39 “Tự tử” (1897), điều tra về hiện tượng tự tử, E. Durkheim đã cố gắng kết hợp cách tiếp cận lý luận với sự phân tích các số liệu thực nghiệm xã hội. Như vậy, tất cả các cuốn sách nổi tiếng kể trên được xuất bản trong vòng bốn năm từ 1893-1897 – một kỷ lục về thời gian để viết những công trình khoa học giá trị. Cũng ở Bordeaux, trong thời kỳ này, E. Durkheim đã tập hợp quanh mình một nhóm học trò, và bắt đầu từ năm 1896 tiến hành xuất bản tạp chí chuyên ngành xã hội học có tên gọi Niên giám xã hội học – một tạp chí có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển khoa học xã hội học Pháp. Sau này, ở Paris, trong thời gian chuyên giảng dạy và nghiên cứu những vấn đề xã hội học đạo đức và giáo dục, E. Durkheim còn viết thêm cuốn sách – một tác phẩm lớn về xã hội học tôn giáo là “Những hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo” (1912), trong đó trình bày những kết quả nghiên cứu lâu năm của ông xung quanh hiện tượng tôn giáo totem. Xã hội học của E. Durkheim đã dành được vị trí vững vàng trong khoa học xã hội Pháp. Nhưng sự nghiệp của nhà xã hội học E. Durkheim đã bị gián đoạn bởi cuộc Chiến tranh thế giới thứ I. E. Durkheim đã tham gia vào các biến cố chiến tranh bằng những hoạt động xã hội nhằm cổ vũ nhân dân về đạo đức. E. Durkheim đóng một vai trò vô cùng to lớn và quan trọng trong sự hình thành và ra đời của xã hội học Pháp, và điều đó còn đồng nghĩa với sự ra đời của xã hội học nói chung. Không chỉ có công lao trong sự hình thành và ra đời của xã hội học, trên thực tế, E. Durkheim còn có những đóng góp to lớn trong sự hình thành những khái niệm, quan điểm, lý thuyết cơ bản cho lý luận nền tảng của xã hội học thời kỳ đầu và sau này. Phải đến E. Durkheim, xã hội học mới được xây dựng như một bộ môn khoa học thực thụ. E. Durkheim được coi như người đã “chính thống hóa xã hội học ở Pháp, và các tác phẩm và công trình với hệ thống các quan niệm và lý thuyết của ông cuối cùng đã trở nên lực lượng chủ yếu trong sự phát triển xã hội học nói chung và lý thuyết xã hội học nói riêng” [27]. Với quan điểm của E. Durkheim thì lý thuyết xã hội học mới thực sự tách ra và mang một màu sắc riêng biệt, và xã hội học Pháp đã ra đời và phát triển gắn liền với cuộc đời hoạt động khoa học của ông. SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 40 Như vậy, xã hội nước Pháp thế kỷ XIX trải qua những biến đổi sâu sắc về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học và kỹ thuật. Công nghiệp hoá ở Pháp diễn ra mạnh mẽ kéo theo sự tích tụ dân cư vào các thành phố lớn, đồng thời gây xáo trộn, đổ vỡ các quan hệ xã hội và sự phân rã cộng đồng xã hội, tạo ra tình trạng hỗn loạn, khủng hoảng mà E. Durkheim gọi là tình trạng “vô tổ chức”, “hỗn độn đạo đức”. Lối sống cạnh tranh, vị lợi làm căng thẳng thêm mối quan hệ giữa các tầng lớp, các nhóm xã hội, và đặc biệt mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở nên quyết liệt. Xã hội học của E. Durkheim ra đời trong bối cảnh xã hội có nhiều xáo trộn và biến đổi to lớn như vậy, điều đó phần nào giải thích tại sao, E. Durkheim luôn cho rằng xã hội học có nhiệm vụ hàng đầu là tìm ra các quy luật xã hội để từ đó tạo ra trật tự xã hội trong xã hội hiện đại. E. Durkheim coi xã hội học là một khoa học có mục tiêu chủ yếu là giải thích hiện thực xã hội, mà hiện thực đó tồn tại khách quan và tác động tới suy nghĩ và hành vi của con người. Về mặt lý luận khoa học, xã hội học của E. Durkheim chịu ảnh hưởng của các nhà tư tưởng xã hội, các nhà khoa học châu Âu. Kế thừa và phát triển các mô hình lý luận và phương pháp luận của những nhà khoa học nổi tiếng đã nêu ở trên, E. Durkheim chủ trương xã hội học phải trở thành khoa học về các quy luật tổ chức xã hội và trật tự xã hội. 1.2.2. Những điều kiện và tiền đề hình thành quan điểm Những điều kiện kinh tế - Cuộc cách mạng công nghiệp và sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng công nghiệp đã quét qua xã hội của nhiều nước châu Âu, làm chuyển biến thế giới phương Tây từ hệ thống xã hội nông nghiệp truyền thống sang một hệ thống xã hội công nghiệp hiện đại. Cuộc cách mạng công nghiệp đã phá bỏ cơ bản hệ thống kinh tế đã từng tồn tại lâu dài ở châu Âu, làm sụp đổ hoàn toàn hình thái kinh tế - xã hội của chế độ phong kiến, vốn ra đời muộn màng và kéo dài không lâu ở châu Âu. Sự phát triển của công nghệ là đỉnh cao của quá trình công nghiệp hoá ở các nước phương Tây. Công nghệ với hệ thống máy móc, dây chuyền hiện đại là biểu hiện cho quá trình chuyên môn hoá triệt để trong sản xuất. Bản thân công nghệ là sự tiến bộ mang tính thời đại, nhưng sự Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 41 phát triển khoa học công nghệ lại gắn liền với quá trình lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản, mà sự phát triển thái quá của hình thức kinh tế này đã gây ra những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội. Công nghệ phát triển "tạo nên lịch sử thế giới" nhưng "nó bắt khoa học tự nhiên phải phục tùng tư bản, làm cho phân công lao động mất hết dấu tích cuối cùng của một hiện tượng tự nhiên” [40]. Mỗi sự thay đổi đều kéo theo những hệ quả của nó. Công nghiệp hoá ở xã hội phương Tây diễn ra với tốc độ mạnh mẽ kéo theo sự tan rã của nhiều hình thức sản xuất cũ cùng với những cơ cấu xã hội gắn liền với nó. Quá trình đô thị hoá là một biểu hiện của sự tan rã này. Từ sự thay đổi và phát triển đó, những vấn đề xã hội mang tính thời đại cũng nảy sinh theo và điều này trở thành mục tiêu đấu tranh của chủ nghĩa xã hội và các trào lưu tư tưởng xã hội khác. Giai đoạn này đã hình thành nên những xu hướng tư tưởng khác nhau trong việc vươn tới sự phát triển của con người. Đa số các tư tưởng này thuộc về hai khuynh hướng lớn: Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa. Những điều kiện chính trị - Các cuộc cách mạng chính trị. Cách mạng Tư sản diễn ra liên tiếp ở khắp các nước châu Âu vào thế kỷ XVIII, bắt đầu ở Hà Lan, sau đó đến Anh, và đạt đến cao trào ở Pháp vào năm 1789. Châu Âu đã trải qua quá trình tích luỹ tư bản khá dài vào thời Trung cổ. Các cuộc cách mạng Tư sản và cách mạng chính trị là đỉnh cao của quá trình tích lũy này. Đó là bước nhảy quan trọng từ xã hội phong kiến lên xã hội tư bản, thể hiện sự trưởng thành của giai cấp tư sản. Sau cách mạng Tư sản, chủ nghĩa tư bản phương Tây bước vào giai đoạn phát triển. Pháp là nước có cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất, tuy nhiên sau đó trên nước Pháp đã liên tục diễn ra các cuộc đấu tranh chính trị. Mâu thuẫn tất yếu xảy ra giữa hai giai cấp cơ bản là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Có thể hình dung ra nước Pháp bấy giờ như là sự hỗn loạn của các khuynh hướng chính trị khác nhau. Chính tình trạng này đã tạo ra những khuynh hướng tư tưởng khác nhau trong tầng lớp trí thức Pháp bấy giờ. Thay đổi trật tự xã hội không chỉ tác động vào chính thế giới quan của các nhà tư tưởng mà còn lôi kéo chính họ vào các cuộc đấu tranh chính trị ấy. Đương thời E. Durkheim ủng hộ rất tích cực cho phe Cộng hòa. Và tư tưởng của ông mang màu sắc chính trị rất rõ rệt thể hiện qua quan SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 42 điểm về đạo đức xã hội và vấn đề duy trì trật tự xã hội của ông. Những tư tưởng của ông ngoài những giá trị về khoa học, còn được đánh giá là có ảnh hưởng chính trị đến giới cầm quyền Pháp lúc bấy giờ. Như vậy là, một chuỗi dài những cuộc cách mạng về chính trị đã trở thành nhân tố gần nhất đối với việc phát sinh quá trình hệ thống hóa lý thuyết xã hội học. Tác động của những cuộc cách mạng này đối với xã hội của nhiều quốc gia đã tạo ra những kết quả tích cực trong phát triển xã hội. Tuy nhiên, cái gây sự thu hút của nhiều lý thuyết gia tiền phong không phải là những mặt tích cực, mà là những hệ quả tiêu cực của những biến đổi xã hội. Những nhà nghiên cứu này đặc biệt lo lắng bởi những hậu quả hỗn độn và vô trật tự trong xã hội, nhất là ở Pháp. Họ đã nối kết lại với nhau bởi ước vọng vãn hồi lại trật tự cho xã hội. Một số tư tưởng gia cực đoan thời kỳ này, thậm chí, còn muốn quay trở lại với những ngày an bình và tương đối có trật tự của thời kỳ Trung cổ, còn những người cấp tiến thì nhận ngay ra rằng, các biến chuyển xã hội đã làm cho sự quay ngược về quá khứ như thế là điều không thể xảy ra. Do đó, họ tìm kiếm các nền tảng trật tự xã hội mới trong các xã hội đã bị xáo trộn bởi các cuộc cách mạng chính trị. Mối quan tâm đến vấn đề trật tự xã hội đã trở thành những quan tâm hàng đầu của các nhà lý thuyết xã hội học cổ điển, đặc biệt là A. Comte và E. Durkheim. Những điều kiện xã hội – Đô thị hóa và những hệ quả của nó và các biến đổi tôn giáo. Trước hết, nói về đô thị hóa và những hệ quả của nó. Những thay đổi về kinh tế dẫn đến những biến đổi to lớn và sâu sắc trong xã hội. Tư bản không còn tập trung ở tầng lớp phong kiến mà rơi vào tay giai cấp tư sản, dẫn đến sự phân chia giai cấp, sự phân tầng xã hội, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra mạnh mẽ. Cuộc cách mạng công nghiệp đã đẩy nhanh quá trình đô thị hóa với sự tập trung dân cư quy mô lớn và phát triển nhanh cơ sở hạ tầng đô thị. Đồng thời, là sự phân hóa trong lối sống và quan hệ xã hội giữa đô thị và nông thôn. Đô thị hóa là hệ quả của sự phát triển công nghiệp. Quá trình di dân từ nông thôn ra đô thị dẫn đến những xáo trộn trong đời sống của toàn thể xã hội, cũng như mỗi con người. Những cơ cấu xã hội đã tồn tại trước đây trong lòng xã hội đô thị cũng như nông thôn đều phải thay đổi và quá trình thích ứng với những lối Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 43 sống mới không phải là dễ dàng. Đô thị hoá đưa đến những sự thay đổi trong lối sống con người. Tình trạng lớn dần của các đô thị dẫn đến những hậu quả to lớn, mang đến vô số khó khăn cho những người đang tự điều chỉnh cho phù hợp với đời sống đô thị. Đó thường là những vấn đề lớn mà nhân loại quan tâm như quá tải dân số, quan hệ cộng đồng trong lòng đô thị, thất nghiệp, nghèo đói, tệ nạn xã hội, tội phạm, ô nhiễm môi trường, tiếng ồn, ách tắc giao thông, rối loạn nhịp đập đời sống xã hội, sự phát triển mất cân đối,... Đó là những hạn chế, những tiêu cực, những khiếm khuyết, những căn bệnh nan y, vô phương cứu chữa của cuộc sống đô thị. Những thay đổi trong lối sống diễn ra hàng ngày đã trở thành mối quan tâm của các nhà xã hội học. Tiếp theo, đề cập đến các biến đổi tôn giáo. Cuộc cách mạng tư sản châu Âu chống lại chế độ phong kiến diễn ra trước hết thông qua các cuộc cải cách tôn giáo. Hai phái của đạo Tin lành là phái của Martin Luther (1483 – 1546) và phái của John Calvin (1509 – 1564) đã tiến hành các cuộc cải cách hết sức to lớn trong tôn giáo này. Mặc dù có nhiều điểm khác biệt và bất đồng, song cả hai phái đều có điểm chung, điểm giống nhau to lớn là hoàn toàn cắt đứt và đoạn tuyệt với chính giáo Giáo phận La Mã và xóa bỏ tăng lữ chính quy. Phong trào cải cách tôn giáo chính là cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản đang lớn dần lên để chống lại chế độ phong kiến và được các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp bình dân ủng hộ. Cuộc cải cách đạo Tin lành đáp ứng được nhu cầu của bộ phận dũng cảm nhất trong giai cấp tư sản đương thời. Những giáo lý của đạo Tin lành đã góp phần vào việc phát triển chủ nghĩa tư bản và sự phát triển của tư duy khoa học. Những nguyên lý của đạo Tin lành, đặc biệt là giáo lý phái Calvin, đã chứng tỏ rằng, thành công hay thất bại không phải do khéo léo của những cá nhân, mà do những hoàn cảnh khách quan quy định; tiến trình của các sự kiện không phải do ý chí của cá nhân, mà do sức mạnh của những lực lượng kinh tế chi phối. Như vậy, các biến đổi xã hội mà do các cuộc cách mạng chính trị, cách mạng công nghiệp và sự đô thị hóa mang lại đã có một ảnh hưởng trực tiếp tới mặt tín ngưỡng tôn giáo. Nhiều nhà xã hội học thời kỳ đầu có nguồn gốc xuất thân từ một hình thức tôn giáo, đã có quan hệ tích cực với tôn giáo, và trong nhiều trường hợp còn thể hiện SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 44 tính chuyên nghiệp về tôn giáo. Họ mang tới cho xã hội học những đối tượng giống như trong đời sống tôn giáo của họ, mong ước cải thiện đời sống của mọi người. Tiền đề tư tưởng lý luận – Sự phát triển của khoa học. Thế kỷ XIX là thế kỷ của những phát minh khoa học vĩ đại. Chưa bao giờ người ta có thể nhìn nhận thế giới mình đang sống một cách toàn diện như vậy. Tri thức khoa học thời kỳ này là những gì đã vượt ra khỏi khả năng nhận biết thông thường của con người. Với những phát minh quan trọng của khoa học tự nhiên như vật lý, thiên văn, hóa học, sinh học đã mở ra một cách nhìn nhận mới về thế giới mà con người đang sống, cuộc sống con người không còn nằm trong vòng bí mật, khó hiểu, không giải thích nổi. Sự tiến bộ của khoa học tự nhiên khẳng định được khả năng nhận thức của con người. Từ vai trò giải thích thế giới như vậy, khoa học tự nhiên trở nên quan trọng và chiếm vị trí độc tôn, chi phối đến các ngành khoa học khác. Khoa học tự nhiên được ứng dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt sự vận dụng của khoa học tự nhiên vào việc chế tạo máy móc công nghệ, làm tăng nhanh tốc độ của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước phương Tây. Không chỉ như vậy, sự phát triển của khoa học còn đánh dấu cho sự sụp đổ của hệ tư tưởng duy tâm siêu hình, và thay vào đó là sự lên ngôi của quan điểm biện chứng về thế giới. Các bộ môn khoa học xã hội thời kỳ này cũng có xu hướng nhìn nhận cuộc sống dưới quan điểm của khoa học tự nhiên. Xã hội học thời kỳ đầu cũng đã diễn ra như vậy. Rất nhiều nhà xã hội học vận dụng các tri thức thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên vào việc giải thích sự vận hành xã hội. Và E. Durkheim cũng không nằm ngoài xu hướng đó, như ông đã đưa ra phân tử nước để chứng minh cho ý thức tập thể tồn tại độc lập. Trong quá trình phát triển của lý thuyết xã hội học ngày càng có dấu ấn mạnh mẽ của khoa học, không phải chỉ ở các Viện hàn lâm, mà trong cả toàn xã hội. Về mặt tư tưởng, cuộc Cách mạng tư sản Pháp với khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” đã làm một cuộc cách mạng vô cùng to lớn trong nhận thức của con người và xã hội về quyền con người, quyền tự do, quyền bình đẳng. Một chân trời mới trong nhận thức và tư tưởng đã mở ra rộng lớn đối với con người trên tất cả mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội đương Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 45 thời. Như vậy, các trào lưu tiến bộ của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, dưới nhiều hình thức và bằng nhiều cách khác nhau, đã trở thành tiền đề, nguồn gốc và những yếu tố cơ bản cấu thành nên hệ thống lý luận và phương pháp luận của khoa học xã hội học thế kỷ XIX. Lần đầu tiên trong lịch sử khoa học nhân loại, thế giới hiện thực, nhất là đời sống xã hội của con người được xem như là một thể thống nhất vận động và biến đổi theo quy luật. Các quy luật của xã hội có thể nhận thức được và giải thích được thông qua việc sử dụng và phát triển các khái niệm, phạm trù và phương pháp khoa học. trên cơ sở nhận thức khoa học có thể biến đổi, cải tạo được xã hội. Như vậy, trong bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội đương thời, đã gây nên những xáo trộn và biến đổi sâu rộng trong đời sống xã hội. Các mối quan hệ, sự tương tác và cấu trúc xã hội trở nên phức tạp, mất ổn định, có thể gây những hậu quả khó lường, từ đó nảy sinh nhu cầu nhận thức và nhu cầu thực tiễn, trên cơ sở nhận thức khoa học có thể biến đổi và cải tạo được xã hội, là phải thiết lập lại trật tự và sự ổn định xã hội, phải phản ánh và giải thích đầy đủ những biến động kinh tế, chính trị và xã hội, phải nghiên cứu những vấn đề lớn nảy sinh từ những khủng hoảng, mất ổn định, mất trật tự lúc bấy giờ, chỉ ra con đường và biện pháp để lập lại trật tự và duy trì sự tiến bộ xã hội. Từ đây, E. Durkheim đã xây dựng các quan điểm, lý thuyết về các vấn đề của hiện thực xã hội, trong đó có những vấn đề liên quan đến sai lệch xã hội. E. Durkheim đã phản ánh trong những tác phẩm đồ sộ, đầy giá trị của mình những biểu hiện “phi chuẩn” diễn ra trong đời sống xã hội đương thời với tư cách của những “sự kiện xã hội”. 1.3. Khái niệm sai lệch xã hội 1.3.1. Vấn đề thuật ngữ “sai lệch xã hội” Nói về thuật ngữ thì sai lệch xã hội là một khái niệm của xã hội học. Hiện nay đang tồn tại nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về sai lệch xã hội như: (sự) sai lệch, (sự) lệch lạc, (sự) lầm lạc, (sự) lệch chuẩn, (sự) lệch hướng, hành vi sai lệch, hành vi lệch lạc, hành vi lệch chuẩn, sai lệch xã hội, lệch lạc xã hội, lệch hướng xã hội, sai lệch chuẩn mực, sai lệch SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 46 chuẩn mực xã hội, phi chuẩn, phi chuẩn mực, vô chuẩn, mất chuẩn, không có chuẩn mực, v.v. Trong tiếng Anh có một số thuật ngữ biểu thị ý nghĩa tương đương là: deviance, deviant behavior hoặc social deviance. Xuất phát từ các gốc từ tiếng Anh nêu trên, sau khi tìm hiểu từ nguyên học – khoa học về nguồn gốc của từ, chúng tôi thấy các thuật ngữ tiếng Anh trên đây đáp ứng tốt nhất nội dung khái niệm xã hội học quan trọng này, và chúng tôi đề nghị lấy chúng làm các thuật ngữ chính thức. Khi chuyển ngữ sang tiếng Việt, chúng tôi đề xuất những cụm từ tương đương và đồng nghĩa với nhau, đó là “sự sai lệch hay sự lệch lạc”, “hành vi sai lệch hay hành vi lệch lạc”, “sai lệch xã hội hay lệch lạc xã hội”. Trong chuyên luận này chúng tôi chính thức sử dụng rộng rãi các thuật ngữ nói trên. 1.3.2. Định nghĩa về sai lệch xã hội Khái niệm sai lệch thay đổi theo lịch sử. Nó được sản sinh từ quan niệm thống trị về trật tự thế giới, về cấu trúc xã hội, về vị trí của con người trong thế giới và trong xã hội, về bản chất của con người. Từ những quan niệm này sinh ra định nghĩa cái gì đúng, chuẩn mực, phù hợp với trật tự khách quan của sự vật, với bản chất con người, cái gì vi phạm trật tự chuẩn mực, không phù hợp với chuẩn mực, và vì vậy được cho là sai lệch. Sai lệch xã hội là một hiện tượng không có khuôn mẫu chung, mà nó phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử của từng xã hội. Cho nên người ta không đưa ra một định nghĩa duy nhất về hiện tượng lệch lạc. Theo cách chung nhất, để kết luận một hành vi là lệch lạc người ta thường dựa trên kết quả hành động của cá nhân hoặc nhóm xã hội mà tỏ ra không phù hợp với mong đợi chung của toàn xã hội. Lệch lạc là hành vi của con người đi chệch khỏi các điều qui định của luật pháp, đi chệch khỏi các giá trị, các chuẩn mực, các qui tắc, qui ước xã hội. Sai lệch là sự vi phạm cái được xác định như là sự cần thiết, như là phù hợp chuẩn mực. Trong cơ sở định nghĩa sai lệch xã hội có nội dung của chuẩn mực xã hội, mà sự tuân thủ nó được công nhận là cần thiết trong phạm vi của hệ thống xã hội xã hội - chính trị và xã hội - văn hóa này hay khác. Định nghĩa về sai lệch xã hội có rất nhiều, và chúng cũng có thể rất khác Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 47 nhau tùy theo cách hiểu của mỗi người về hiện tượng rất đặc biệt này. Là một khái niệm của xã hội học, sai lệch xã hội được hiểu và được định nghĩa là sự vi phạm có nhận thức các tiêu chuẩn hoặc kỳ vọng của một nhóm hay của xã hội. I. C. Kon trong các nghiên cứu của mình đã đi đến kết luận rằng, hành vi sai lệch được chia ra làm hai phạm trù lớn. Thứ nhất - đó là hành vi mà gắn với sự vi phạm chuẩn mực sức khỏe tâm lý, khi tồn tại rõ ràng bệnh lý học tâm thần. Thứ hai – là hành vi mà vi phạm tiêu cực các chuẩn mực xã hội và văn hóa, đặc biệt là (chuẩn mực) pháp luật [105, 237]. Nhà xã hội học Mỹ N. Smelzer trong các công trình của mình đã nhật xét rất đúng rằng, khái niệm “sai lệch” xác định rất là phức tạp, khi gắn điều này với sự đa dạng các khuôn mẫu xã hội của các nền văn hóa nhất định mà không rõ ràng về hình thức và nhiều tranh cãi về nội dung. Ông định nghĩa thuật ngữ này như là hành vi, “mà được cho là sai lệch khỏi chuẩn mực của nhóm và kéo theo mình sự cô lập, chữa trị, sửa chữa hoặc là nhiều sự trừng phạt khác” [105, 239]. Trong xã hội học Xô-viết và Nga hiện nay được công nhận và phổ biến rộng rãi một định nghĩa về hành vi sai lệch của Ia. Gilinsky. Ông định nghĩa như sau: “Hành vi sai lệch – đó là 1) hệ thống các hành vi hay là hành động riêng biệt của con người mà không phù hợp với các chuẩn mực, các quy tắc hành vi, các khuôn mẫu, các mong đợi, các thiết lập, các giá trị được xác lập chính thức hoặc hình thành trên thực tế của một xã hội (một nhóm xã hội); 2) là hiện tượng xã hội mà được biểu hiện trong các hình thức hoạt động của con người tương đối rộng rãi và bền vững, song không phù hợp với các chuẩn mực và mong đợi được xác lập chính thức hoặc là tồn tại trên thực tế của một xã hội.” [109, 33]. Ngoài các định nghĩa nêu trên, chúng ta còn gặp một loạt định nghĩa khác về lệch lạc xã hội. Một số định nghĩa như: 1. Hành vi lệch lạc là khái niệm phản ánh bất kỳ hành vi hay hành động của cá nhân hay nhóm xã hội tỏ ra không phù hợp với sự mong đợi chung của toàn xã hội. 2. Lệch lạc là hành vi, hành động đi chệch khỏi các điều quy định của pháp luật, đi chệch khỏi các giá trị, chuẩn mực và quy tắc, quy ước xã hội. [29]. 3. Lệch lạc như là hành vi được coi là đi chệch khỏi chuẩn mực của nhóm. 4. Lệch lạc là sự vi phạm các chuẩn SAI LCH Xà HI TRONG Xà HI H C CA EMILE DURKHEIM 48 mực văn hóa đã được thừa nhận. 5. Sai lệch chuẩn mực xã hội là hành vi của một cá nhân hay một nhóm xã hội vi phạm các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội. 6. Sai lệch chuẩn mực xã hội được hiểu là những tình huống, sự kiện cụ thể của cuộc sống đóng vai trò là những nhân tố phá vỡ sự tác động của các chuẩn mực xã hội. 7. Sự lầm lạc định nghĩa như sự vi phạm có nhận thức các quy phạm văn hóa. [42]. So sánh các định nghĩa trên có chung một nhận xét là tuy khái niệm lệch lạc có ý nghĩa rất rộng lớn, bởi chuẩn mực hướng đến một diện rộng các hoạt động của con người, song chúng có cùng một nội dung rất gần nhau, hoặc giống nhau – đó hoặc là vi phạm, hoặc là đi chệch khỏi các chuẩn mực văn hóa. Đặc biệt, trong nghiên cứu xã hội học tội phạm, các nhà nghiên cứu chủ yếu quan tâm và nghiên cứu về sự sai lệch chuẩn mực xã hội theo ý nghĩa của hành vi sai lệch. 1.3.3. Đặc điểm của sai lệch xã hội Từ các định nghĩa nêu trên, người ta nhận thấy lệch lạc xã hội có các đặc điểm sau: - Lệch lạc xã hội diễn ra ở phạm vi rất rộng, có ở mọi nơi trên thế giới, mọi ngóc ngách trong xã hội, từ một người, nhóm nhỏ 2-3 người, đến cả một cộng đồng, một dân tộc, một đất nước; - Lệch lạc diễn ra ở mọi cấp độ, từ nhỏ đến lớn, từ bé đến to, từ ở mức độ thấp đến mức độ cao, từ cái đơn giản đến cái phức tạp, từ thô sơ cho đến tinh vi. Lệch lạc ở mức độ cao có thể nhanh chóng chỉ ra được chúng, song những sai lệch nhỏ bé có khi lại không dễ nhận ra; - Lệch lạc có nhiều hình thức, nhiều kiểu, phong phú, đa dạng, khác nhau, tùy thuộc từng nền văn hóa vốn cũng đa dạng và phong phú ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên thế giới. Điều đó có nghĩa, có những hành vi ở nền văn hóa này là lệch lạc, song ngược lại, là chuẩn mực của nền văn hóa khác; - Một đặc điểm nữa của lệch lạc xã hội là rất mơ hồ (ambiguity), không rõ ràng, nước đôi, hiểu thế nào cũng được. Do hành vi lệch lạc liên quan đến những tiêu chuẩn, mà những tiêu chuẩn này trong nhiều trường hợp rất mơ hồ và thường xuyên có sự bất đồng, nên rất khó định rõ loại hành vi nào là lệch lạc trong xã hội; - Lệch lạc xã hội luôn thay đổi theo thời gian. Có thể thấy trong trường Ch(ơng 1. T.ng quan nghiên c3u đ4 tài, b9i c:nh hình thành 49 hợp hút thuốc lá ở Mỹ diễn ra trong thế kỷ qua và cả rất lâu trước đó: lúc thì đư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsai_lech_xa_hoi_trong_xa_hoi_hoc_cua_emile_durkheim_phan_1_2649_2127953.pdf