Rối loạn trầm cảm ở người sống chung với HIV/AIDS đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú Thuận An, Bình Dương

Tài liệu Rối loạn trầm cảm ở người sống chung với HIV/AIDS đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú Thuận An, Bình Dương: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 322 RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở NGƯỜI SỐNG CHUNG VỚI HIV/AIDS ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ THUẬN AN, BÌNH DƯƠNG Đặng Thị Minh Trang*, Thái Thanh Trúc* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Rối loạn trầm cảm ảnh hưởng đến nhiều mặt đối với người sống chung với HIV/AIDS (SCVH) và cả quá trình điều trị. Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan đến rối loạn trầm cảm ở người sống chung với HIV/AIDS đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú Thuận An tỉnh Bình Dương. Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành vào tháng 5-7/2017 trên toàn bộ người sống chung với HIV/AIDS đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú Thuận An. Người sống chung với HIV/AIDS được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn bao gồm đặc tính dân số, sử dụng các chất gây nghiện, cảm nhận sự hỗ trợ. Rối loạn trầm cảm được đánh ...

pdf9 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 351 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rối loạn trầm cảm ở người sống chung với HIV/AIDS đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú Thuận An, Bình Dương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 322 RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở NGƯỜI SỐNG CHUNG VỚI HIV/AIDS ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ THUẬN AN, BÌNH DƯƠNG Đặng Thị Minh Trang*, Thái Thanh Trúc* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Rối loạn trầm cảm ảnh hưởng đến nhiều mặt đối với người sống chung với HIV/AIDS (SCVH) và cả quá trình điều trị. Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan đến rối loạn trầm cảm ở người sống chung với HIV/AIDS đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú Thuận An tỉnh Bình Dương. Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành vào tháng 5-7/2017 trên toàn bộ người sống chung với HIV/AIDS đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú Thuận An. Người sống chung với HIV/AIDS được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn bao gồm đặc tính dân số, sử dụng các chất gây nghiện, cảm nhận sự hỗ trợ. Rối loạn trầm cảm được đánh giá bằng thang đo CES-D đã được chuẩn hóa tại Việt Nam. Đặc điểm quá trình điều trị ARV được trích xuất từ bệnh án. Kết quả: Trong số 304 người sống chung với HIV/AIDS tham gia nghiên cứu, đa số là nam (62,2%) với độ tuổi trung bình là 34,6 ± 6,2. Tỉ lệ rối loạn trầm cảm là 24,7% (KTC 95% 19,9 – 29,9%), trong đó bao gồm mức độ nặng 6,3%, vừa 5,9% và nhẹ 12,5%. Rối loạn trầm cảm có liên quan có ý nghĩa thống kê với đặc điểm công việc không ổn định, thu nhập thấp, ít được hỗ trợ từ người thân và gia đình, số lượng CD4 hiện tại thấp và không tuân thủ điều trị tốt. Kết luận: Rối loạn trầm cảm là phổ biến ở người sống chung với HIV/AIDS đang điều trị ARV tại tại phòng khám ngoại trú Thuận An. Các yếu tố liên quan phát hiện được trong nghiên cứu này là tương đồng với các nghiên cứu trước đây và là cơ sở để những chương trình can thiệp có thể dự phòng hoặc hỗ trợ cho người sống chung với HIV/AIDS có nguy cơ bị rối loạn trầm cảm. Từ khóa: Trầm cảm, HIV/AIDS, CES-D, Bình Dương. ABSTRACT DEPRESSION AMONG PEOPLE LIVING WITH HIV/AIDS UNDERGOING ARV TREATMENT AT THUAN AN OUTPATIENT CLINIC, BINH DUONG Dang Thi Minh Trang, Thai Thanh Truc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 321 - 329 Background: Depression has multiple negative affects on daily life and treatment process among people living (PLHIV) with HIV. Objectives: This study was to determine the prevalence of depression and related factors in PLHIV undergoing ARV treatment at Thuan An Outpatient Clinic, Binh Duong. Methods: A cross-sectional study was conducted from May to July 2017 among all PLHIV undergoing ART at Thuan An Outpatient Clinic. PLHIV were interviewed using a structural questionnaire assessing demographic characteristics, history of drug use, supports perceived. Depression was measured by * Khoa YTCC, ĐH Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: CN. Đặng Thị Minh Trang ĐT: 01629489073 Email: dangtrang1602@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 323 the CES-D that has already been validated in Vietnam. Information related to ARV treatment was extracted from medical records. Results: Among 304 PLHIV participated in this study, the majortity were male (62.2%), the average age was 34.6 ± 6.2 years old. The prevalence of depression was 24.7% (95% CI 19.9 – 29.9%) including severe depression (6.3%), moderate (5.9%) and mild (12.5%). Depression was found to be significantly associated with unstable job status, low income, lower level of support received from relatives and family, low CD4 count and low level of treatment adherence. Conclusion: Depression was common among PLHIV undergoing ARV treatment at Thuan An Outpatient Clinic. Factors associated with depression found in this study were consistent with previous studies and thus supported intervention programs targeting those who had higher risk of having depression. Keywords: Depression, HIV/AIDS, CES-D, Binh Duong. ĐẶT VẤN ĐỀ Mặc dù tỉ lệ mới mắc HIV và chết do HIV/AIDS giảm nhưng số lượng người hiện mắc vẫn tăng theo thời gian tại Việt Nam và trên toàn thế giới, chủ yếu nhờ vào dịch vụ chăm sóc tiên tiến và thuốc kháng retrovirus (ARV)(3,19). Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO), năm 2015 tỉ lệ điều trị ARV trên toàn thế giới đã tăng đáng kể lên mức 46% từ con số 3% trước đây, nhưng vẫn có hơn 50% số người SCVH không có điều kiện tiếp cận ARV. Tại Việt Nam, ARV được sử dụng để điều trị cho người SCVH, đạt 42% so với số ước tính nhiễm HIV trong cộng đồng(3). Sự ra đời của ARV đã giúp người SCVH kéo dài tuổi thọ, hạn chế sự nhân lên của virus, duy trì hệ miễn dịch, giúp kiểm soát dịch bệnh(5). Từ đó, một trong những vấn đề sức khỏe dần trở nên phổ biến ở người SCVH là các rối loạn tâm thần, mà nổi bật là rối loạn trầm cảm (RLTC)(4,20). Các nghiên cứu cho thấy người SCVH có vấn đề về sức khỏe tâm thần thường tuân thủ điều trị kém, dễ có các hành vi nguy cơ cao do không đủ nhận thức điều chỉnh hành vi và có chất lượng cuộc sống thấp do cùng lúc mang hai gánh nặng là HIV/AIDS và rối loạn tâm thần(1,12). Mặc dù RLTC có thể xuất hiện ở tất cả mọi người, mọi lứa tuổi, nhưng tỉ lệ RLTC trên người SCVH luôn cao hơn so với những dân số chung. Theo ước tính từ các nghiên cứu tại nhiều nước thì tỉ lệ RLTC dao động trung bình ở mức 40% và có thể cao hơn ở các nước có nguồn lực y tế hạn chế. Tại Việt Nam, đa số các nghiên cứu được thực hiện tại hai thành phố lớn là thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) và Hà Nội với tỉ lệ RLTC vào khoảng 30- 40%(8,9,16,17,18). Các nghiên cứu trước cũng chỉ ra rằng, cần tiến hành các nghiên cứu khác tại nhiều bối cảnh khác nhau(16,17), đặc biệt là các vùng nông thôn để có bức tranh toàn diện hơn về RLTC ở người SCVH tại Việt Nam do có nhiều bằng chứng cho thấy có sự khác biệt giữa thành thị lớn và các vùng nông thôn. Tuy nhiên, hiện nay số lượng các nghiên cứu về RLTC ở người SCVH ở các vùng nông thôn vẫn còn rất hạn chế trong khi tỉ lệ ước tính ở các nơi này cũng như mô hình các yếu tố liên quan có thể khác so với thành phố lớn như TP.HCM và Hà Nội. Bình Dương thuộc một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của phía nam và theo thống kê năm 2015 xếp thứ 3 trong 6 tỉnh miền Đông Nam Bộ về số người SCVH (n=3017) sau TP.HCM và Bà Rịa – Vũng Tàu(6). Toàn tỉnh hiện có 5 PKNT thực hiện chăm sóc, tư vấn, điều trị ARV, dự phòng nhiễm trùng cơ hội cho người SCVH gồm Bệnh viện đa khoa tỉnh, Dĩ An, Thuận An, Bến Cát, trại giam An Phước. Thuận An là một trong những địa phương điển hình về dân số, đô thị hóa, công nghiệp hóa của tỉnh Bình Dương với sự biến động lớn dân nhập cư(11). Theo số liệu tháng 3/2017, PKNT Thuận An Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 324 quản lí tổng cộng 330 người SCVH bao gồm những bệnh nhân trong và ngoài tỉnh chuyển đến, số lượng người đến khám, điều trị ngày càng tăng do dân cư từ những nơi khác đến sinh sống và làm việc . Chúng tôi nhận thấy việc khảo sát tỉ lệ RLTC và các yếu tố liên quan trên người SCVH đang điều trị ARV tại PKNT Thuận An, Bình Dương là cần thiết để cung cấp bằng chứng khoa học cho các nhà quản lý y tế từ đó có những giải pháp hỗ trợ, can thiệp cho người SCVH. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện vào tháng 5-7/2017 trên toàn bộ người SCVH (n=330) đang được quản lý và điều trị ARV tại PKNT Thuận An, Bình Dương. Người SCVH khi đến PKNT để khám, tư vấn và nhận thuốc ARV hàng tháng được mời tham gia vào nghiên cứu. Những người đồng ý tham gia nghiên cứu được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn gồm thông tin về đặc điểm dân số - xã hội, hành vi sử dụng các chất gây nghiện, mức độ cảm nhận sự hỗ trợ từ người thân, gia đình, nhân viên y tế, tham gia hoạt động ở các nhóm, câu lạc bộ. RLTC được đánh giá bằng thang đo CES-D (Center for Epidemiologic Studies - Depression scale) là một trong những thang đo được sử dụng phổ biến để đo lường RLTC tại cộng đồng, bao gồm người SCVH. Thang đo gồm 20 câu, mỗi câu hỏi có 4 giá trị từ 0 điểm đến 3 điểm ứng với mức độ và số ngày có các triệu chứng của RLTC trong vòng 7 ngày qua, bao gồm 0 điểm tương đương với < 1 ngày hoặc hiếm khi, 1 điểm tương đương với 1 – 2 ngày hoặc đôi khi, 2 điểm tương đương với 3 – 4 ngày hoặc thỉnh thoảng và 3 điểm tương đương 5 – 7 ngày hoặc hầu hết thời gian. Tổng số điểm dao động từ 0 đến 60 điểm. Người được coi là có RLTC khi tổng điểm từ 16 điểm trở lên, trong đó 16 – 21 là mức độ nhẹ, 22 – 25 là mức độ vừa và >25 là mức độ nặng(15). Thang đo này đã được dịch và chuẩn hóa tại Việt Nam trên người SCVH tại TP.HCM năm 2016(16). Chúng tôi cũng sử dụng phiếu trích xuất thông tin lâm sàng để lấy thêm các thông tin về quá trình điều trị ARV như thời gian sống chung với HIV, số năm điều trị ARV hoặc số lượng CD4 gần nhất. Phân tích dữ kiện Tần số, tỉ lệ phần trăm (%) được dùng để phân tích thống kê mô tả cho các biến định tính như RLTC, nhóm tuổi, giới, trình độ học vấn. Khoảng tin cậy 95% (KTC 95%) của tỉ lệ RLTC cũng được tính toán. Phép kiểm định Chi bình phương (χ2) được chúng tôi dùng để xác định mối liên quan giữa RLTC với các biến số đặc tính dân số học, sử dụng các chất gây nghiện, cảm nhận sự hỗ trợ, tham gia hoạt động xã hội, đặc điểm quá trình điều trị ARV. Khi trên 20% tổng số các ô có vọng trị nhỏ hơn 5 hoặc tần số trong ô nhỏ (n<5) thì dùng kiểm định chính xác Fisher để thay thế. Chúng tôi đo lường mức độ liên quan giữa RLTC và các đặc điểm nêu trên bằng tỉ số tỉ lệ hiện mắc (Prevalence Ratio # PR) cùng với khoảng tin cậy 95%. Mối liên quan được xem là có ý nghĩa thống kê khi p<0,05. KẾT QUẢ Trong tổng số 330 người SCVH hiện đang được quản lý và điều trị tại PKNT Thuận An có 7 người từ chối tham gia nghiên cứu, 13 người vắng mặt tại thời điểm nghiên cứu (3 người hiện đang giam giữ ở trại giam, 10 người nhờ người thân lãnh thuốc giúp), 6 người không cung cấp đủ thông tin và không thể trích xuất thông tin về quá trình điều trị. Có 304 người tham gia đầy đủ quy trình nghiên cứu và được đưa vào phân tích, chiếm 92,1%. Tỉ lệ RLTC theo thang đo CES-D là 24,7% (KTC 95% 19,9 – 29,9%), trong đó bao gồm mức độ nặng 6,3%, vừa 5,9% và nhẹ 12,5%. Đa số những người SCVH đang điều trị ARV tại PKNT Thuận An là nam giới (62,2%) với tuổi trung bình là 34,6 ± 6,2 tuổi, trong đó Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 325 thấp nhất là 19 tuổi và cao nhất là 54 tuổi. Đa số người SCVH có trình độ học vấn dưới cấp 3 (61,7%), đã kết hôn hoặc sống chung với bạn tình (63,8%), có việc làm toàn thời gian (72,7%) với thu nhập ở mức 5 – 10 triệu (40,8%) và sống chung với gia đình hoặc người thân (86,8%). Hơn 1/3 người SCVH (36,2%) cho biết nhiễm HIV qua quan hệ tình dục và 18,1% qua đường tiêm chích ma túy và hầu hết (86,2%) đã tiết lộ cho người khác về tình trạng nhiễm HIV của bản thân (Bảng 1). So với những người SCVH làm việc toàn thời gian thì những người SCVH làm việc theo dạng thời vụ có tỉ lệ RLTC cao gấp 2,30 lần (KTC 95% 1,16 – 4,55), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,016. Những người thu nhập hàng tháng 5 - 10 triệu/tháng có tỉ lệ RLTC chỉ bằng 0,43 lần, KTC 95% 0,26 – 0,74 (thấp hơn 2,32 lần) so với những người SCVH có thu nhập thấp ≤ 3 triệu/tháng, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,002). RLTC không có liên quan có ý nghĩa thống kê với nhóm tuổi, giới, nơi ở hiện tại, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân gia đình, sống chung với ai, tình trạng kinh tế gia đình, việc tiết lộ về tình trạng nhiễm HIV và đường nhiễm HIV (Bảng 1). Bảng 1: Mối liên quan giữa rối loạn trầm cảm và đặc tính dân số (n= 304) Đặc điểm Tổng N=304 n (%) Trầm cảm P PR (KTC95%) Có N=75; 24,7% n (%) Không N=129; 75,3% n (%) Nhóm tuổi ≤ 35 tuổi 171 (56,3) 49 (28,7) 122 (71,3) 0,068 0,68 (0,45 – 1,04) >35 tuổi 133 (43,7) 26 (19,6) 107 (80,4) 1 Giới: Nam 189 (62,2) 47 (24,9) 142 (75,1) 0,919 1,02 (0,68 – 1,53) Nữ 115 (37,8) 28 (24,4) 87 (75,6) 1 Nơi ở hiện tại Nhà riêng 153 (50,3) 35 (22,9) 118 (77,1) 0,465 1,16 (0,78 – 1,72) Thuê trọ 151 (49,7) 40 (26,5) 40 (73,5) 1 Dân tộc Kinh 294 (97,7) 73 (24,8) 221 (75,2) 0,999 1 Khác 10 (0,3) 2 (20,0) 8 (80,0) 1,24 (0,35 – 4,36) Trình độ học vấn Dưới cấp 3 188 (61,8) 44 (23,4) 144 (76,6) 1 Cấp 3 83 (27,3) 24 (28,9) 59 (71,1) 0,405 1,24 (0,75 – 2,03) Trên cấp 3 33 (10,9) 7 (21,2) 26 (78,8) 0,809 0,91 (0,41 – 2,01) Tình trạng hôn nhân Độc thân 74 (24,4) 67 (25,4) 197 (74,6) 1 Kết hôn/Sống chung với bạn tình 194 (63,8) 7 (20,6) 27 (79,4) 0,247 0,81 (0,37 – 1,77) Ly dị/ly thân/góa 36 (11,8) 1 (16,7) 5 (83,3) 0,514 0,65 (0,09 – 4,73) Sống chung với Người thân 264 (86,8) 67 (25,4) 197 (74,6) 1 Một mình 34 (11,2) 7 (20,6) 27 (79,4) 0,554 0,81 (0,37 – 1,77) Bạn bè 6 (2,0) 1 (16,7) 5 (83,3) 0,648 0,65 (0,09 – 4,73) Đặc điểm thời gian công việc Không việc làm 38 (12,5) 11 (28,9) 27 (71,1) 0,390 1,33 (0,69 – 2,57) Thời vụ 20 (6,6) 10 (50,0) 10 (50,0) 0,016 2,30 (1,16 – 4,55) Bán thời gian 25 (8,2) 6 (24,0) 19 (76,0) 0,818 1,10 (0,47 – 2,58) Toàn thời gian 221 (72,7) 48 (21,7) 173 (78,3) 1 Thu nhập hàng tháng ≤ 3 triệu 65 (21,4) 23 (35,4) 42 (64,6) 1 >3 – 5 triệu 93 (30,6) 28 (30,1) 65 (69,9) 0,484 0,85 (0,54 – 1,34) >5 -10 triệu 124 (40,8) 19 (15,3) 105 (84,7) 0,002 0,43 (0,26 – 0,74) >10 triệu 22 (7,2) 5 (22,7) 17 (77,3) 0,301 0,64 (0,28 – 1,49) Tình trạng kinh tế Tự chủ 252 (82,9) 60 (23,8) 192 (76,2) 0,452 1 Phụ thuộc (gia đình, xã hội) 52 (17,1) 15 (28,9) 37 (71,2) 1,21 (0,75 – 1,96) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 326 Đặc điểm Tổng N=304 n (%) Trầm cảm P PR (KTC95%) Có N=75; 24,7% n (%) Không N=129; 75,3% n (%) Đã tiết lộ về tình trạng nhiễm HIV Có 262 (86,2) 67 (25,6) 195 (74,4) 0,362 1 Không 42 (13,8) 8 (19,1) 34 (80,9) 1,34 (0,69 – 2,59) Nhiễm HIV qua đường Tiêm chích ma túy 55 (18,1) 15 (27,3) 40 (72,7) 1 Quan hệ tình dục 110 (36,2) 26 (23,6) 84 (76,4) 0,659 0,87 (0,46 – 1,64) Đường khác 18 (5,9) 3 (16,7) 15 (83,3) 0,436 0,61 (0,18 – 2,11) Không rõ 121 (39,8) 31 (25,6) 90 (74,4) 0,842 0,92 (0,50 – 1,74) Bảng 2 thể hiện mối liên quan giữa RLTC và việc sử dụng các chất gây nghiện cũng như cảm nhận về sự hỗ trợ từ gia đình và xã hội của người SCVH. Kết quả cho thấy, trong tháng qua, tỉ lệ người SCVH sử dụng ma túy, hút thuốc lá và sử dụng cồn lần lượt là 1,0%, 33,2% (5,3% <10 điếu/ngày và 27,9% ≥10 điếu/ngày), và 32,9% (5,9% dưới mức nguy cơ và 27,0% ở mức nguy cơ). Hầu hết những người SCVH đều nhận được nhiều hỗ trợ từ nhân viên y tế (75,0%) và từ người thân/gia đình (59,5%). Phần lớn người SCVH không tham gia hoạt động xã hội khi chỉ có 7,2% người cho biết đã tham gia và hiện đang tham gia. Bảng 2: Mối liên quan giữa rối loạn trầm cảm và sử dụng các chất gây nghiện, cảm nhận sự giúp đỡ, hỗ trợ từ người thân, gia đình, nhân viên y tế (n=304) Đặc tính mẫu Tổng N=304 n (%) Rối loạn trầm cảm p PR (KTC95%) Có N=75; 24,7% n (%) Không N=129; 75,3% n (%) Sử dụng ma túy trong tháng qua Có 3 (1,0) 2 (66,7) 1 (33,3) 0,152 2,74 (0,85 – 8,86) Không 301 (99,0) 73 (24,3) 228 (75,7) 1 Hút thuốc lá Không 203 (66,8) 48 (23,7) 155 (76,3) 1 Ít hơn 10 điếu 16 (5,3) 4 (25,0) 12 (75,0) 0,915 1,06 (0,38 – 2,93) Từ 10 điếu trở lên 85 (27,9) 23 (27,1) 62 (72,9) 0,595 1,14 (0,69 – 1,88) Sử dụng cồn trong tháng qua* Không 204 (67,1) 54 (26,5) 150 (73,5) 1 Dưới nguy cơ 18 (5,9) 2 (11,1) 16 (88,9) 0,228 0,42 (0,10 – 1,72) Nguy cơ 82 (27,0) 19 (23,2) 63 (76,8) 0,618 0,87 (0,52 – 1,48) Hỗ trợ nhân viên y tế Không 0 0 0 KXĐ Ít 3 (1,0) 2 (66,7) 1 (33,3) 2,43 (0,57 – 10,4) Bình thường 73 (24,0) 20 (27,4) 53 (72,6) 0,160 1 Nhiều 228 (75,0) 53 (23,3) 175 (76,8) 0,85 (0,51 – 1,42) Hỗ trợ người thân/ gia đình Không 13 (4,3) 5 (38,5) 8 (61,5) 0,326 1,63 (0,61 – 4,32) Ít 21 (6,9) 12 (57,1) 9 (42,9) 0,015 2,42 (1,19 – 4,92) Bình thường 89 (29,3) 21 (23,6) 68 (76,4) 1 Nhiều 181 (59,5) 37 (20,4) 144 (79,6) 0,600 0,86 (0,51 – 1,48) Tham gia hoạt động tại câu lạc bộ, nhóm Có 22 (7,2) 4 (18,2) 18 (81,8) 0,464 0,72 (0,29 – 1,79) Không 282 (92,8) 71 (25,2) 211 (74,8) 1 (*):Nguy cơ: Đối với nam: uống trên 2 đơn vị cồn/ngày. Đối với nữ: uống trên 1 đơn vị cồn/ngày. Cả nam và nữ sử dụng rượu/bia ≥5 ngày/ tuần. Dưới nguy cơ: Uống ≤ 2 đơn vị cồn/ngày. Đối với nữ: uống ≤ đơn vị cồn/ngày. Cả nam và nữ sử dụng rượu/bia ≤5 ngày/ tuần. Không: Không sử dụng cồn. KXĐ: Không Xác Định Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa RLTC và cảm nhận sự hỗ trợ từ người thân/gia đình (p = 0,015), trong đó nhóm cảm thấy ít nhận được hỗ trợ từ người thân và gia đình có tỉ lệ RLTC cao gấp 2,42 lần (KTC 95% 1,19 – 4,92) so với nhóm cảm nhận bình thường. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 327 Không có mối liên quan có ý ghĩa thống kê giữa RLTC và việc sử dụng ma túy, thuốc lá, chất có cồn. Hơn 1/3 số người SCVH (38,2%) có gia đình với tiền sử nhiễm HIV. Hầu hết người SCVH đang ở giai đoạn lâm sàng 1 (95,4%). Lúc bắt đầu điều trị ARV, đa số người SCVH có số lượng tế bào CD4 ≤200 tế bào/mm3 (45,1%). Hiện tại, nhóm CD4 trên 500 tế bào/mm3 là cao nhất (42,4%). Bảng 3: Mối liên quan giữa rối loạn trầm cảm và đặc điểm quá trình điều trị ARV (n=304) Đặc tính mẫu Tổng N=304 n (%) Rối loạn trầm cảm p PR (KTC95%) Có N=75; 24,7% n (%) Không N=129; 75,3% n (%) Tiền sử gia đình nhiễm HIV Có 118 (38,2) 26 (22,0) 92 (78,0) 0,396 0,83 (0,55 – 1,27) Không 186 (61,8) 49 (26,3) 137 (73,7) Chỉ số khối BMI (n=302) Thừa cân/béo phì 53 (17,6) 14 (26,4) 39 (73,6) 0,699 1,12 (0,66 – 1,89) Bình thường 174 (57,6) 41 (23,6) 133 (76,4) 1 Nhẹ cân 75 (24,8) 20 (26,7) 55 (73,3) 0,599 1,13 (0,71 – 1,80) Giai đoạn lâm sàng hiện tại Giai đoạn 1 290 (95,4) 70 (24,2) 220 (75,8) 1 Khác (giai đoạn 2, 3, 4) 14 (4,6) 5 (35,7) 9 (64,3) 0,345 1,48 (0,71 – 3,07) Số năm nhiễm HIV < 1 năm 45 (14,8) 12 (26,7) 33 (73,3) 1 1-5 năm 133 (43,8) 32 (24,1) 101 (75,9) 0,761 0,90 (0,46 – 1,75) Trên 5 năm 126 (41,4) 31 (24,6) 95 (75,4) 0,813 0,92 (0,47 – 1,79) Số năm điều trị ARV < 1 năm 51 (16,8) 13 (25,4) 38 (74,6) 1 1-5 năm 153 (50,3) 35 (22,9) 118 (77,1) 0,739 0,90 (0,47 – 1,69) Trên 5 năm 100 (32,9) 27 (27,0) 73 (73,0) 0,865 1,06 (0,55 – 2,05) Số lượng tế bào CD4 lúc bắt đầu điều trị ARV ≤ 200 tế bào/mm 3 137 (45,1) 31 (22,6) 106 (77,4) 1 201-250 tế bào/mm 3 33 (10,9) 8 (24,2) 25 (75,8) 0,862 1,07 (0,49 – 2,33) 251-350 tế bào/mm 3 71 (23,3) 20 (28,2) 51 (71,8) 0,445 1,24 (0,71 – 2,18) 351-500 tế bào/mm 3 41 (13,5) 10 (24,4) 31 (75,6) 0,837 1,07 (0,53 – 2,19) >500 tế bào/mm 3 22 (7,2) 6 (27,3) 16 (72,7) 0,675 1,20 (0,50 – 2,89) Số lượng tế bào CD4 hiện tại ≤ 200 tế bào/mm 3 28 (9,2) 11 (39,3) 17 (60,7) 1 201-250 tế bào/mm 3 16 (5,3) 6 (37,5) 10 (62,5) 0,927 0,95 (0,35 – 2,58) 251-350 tế bào/mm 3 46 (15,2) 11 (23,9) 35 (76,1) 0,244 0,61 (0,26 – 1,40) 351-500 tế bào/mm 3 85 (27,9) 13 (15,3) 72 (84,7) 0,021 0,38 (0,17 – 0,86) >500 tế bào/mm 3 129 (42,4) 34 (26,4) 95 (73,6) 0,250 0,67 (0,34 –1,32) Gián đoạn trong quá trình điều trị ARV Có 2 (0,7) 0 (0,0) 2 (100,0) KXĐ KXĐ Không 302 (99,3) 75 (24,8) 227 (75,2) Tác dụng phụ trong quá trình điều trị ARV Có 18 (5,9) 3 (16,7) 15 (83,3) 1 Không 286 (94,1) 72 (25,2) 214 (74,8) 0,577 0,66 (0,23 – 1,89) Bệnh kèm theo Có 108 (35,5) 26 (24,1) 82 (75,9) 1 Không 196 (64,5) 49 (25,0) 147 (75,0) 0,858 0,96 (0,63 – 1,46) Tuân thủ điều trị Tốt 279 (91,8) 64 (22,9) 215 (77,1) 0,52 (0,32 – 0,85) Không tốt 25 (8,2) 11 (44,0) 14 (56,0) 0,010 1 KXĐ: Không Xác Định Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 328 Hầu hết người SCVH tuân thủ điều trị tốt (91,8%), chỉ có 0,66% phải gián đoạn và 5,9% có tác dụng phụ trong quá trình điều trị. Tuy nhiên, hơn 1/3 người SCVH (35,5%) có mắc ít nhất một bệnh kèm theo. Kết quả phân tích liên quan cho thấy, những người SCVH có số lượng tế bào CD4 hiện tại từ 351-500 tế bào/mm3 có tỉ lệ RLTC bằng 0,38 lần, KTC 95% 0,17 – 0,86 (thấp hơn 2,63 lần) so với người SCVH có số lượng ≤200 tế bào/mm3 (p = 0,021). Ngoài ra, những người SCVH tuân thủ điều trị tốt có tỉ lệ RLTC bằng 0,52 lần, KTC 95% 0,32 – 0,85 (thấp hơn 1,92 lần) so với người SCVH tuân thủ điều trị không tốt với p = 0,019 (Bảng 3). BÀN LUẬN Tỉ lệ rối loạn trầm cảm Nghiên cứu này là một trong số những khảo sát hiếm hoi ngoài Tp.HCM và Hà Nội và là đầu tiên tại Thuận An, Bình Dương về RLTC ở người SCVH đang được quản lý và điều trị ARV. Kết quả cho thấy RLTC là phổ biến ở người SCVH với tỉ lệ 24,7% (KTC 95% 19,9 – 29,9%). Tuy nhiên, so với các nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Mai (2013)(18), Thái Thanh Trúc (2012-2013)(16), Huỳnh Ngọc Vân Anh (2013, 2014)(9) tiến hành tại khu vực Hà Nội, TP.HCM với tỉ lệ RLTC tương ứng là 35,4%; 35%; 42%; 63,2% thì nghiên cứu này cho kết quả thấp hơn. Các nghiên cứu trên dân số chung cho thấy sự khác biệt về tỉ lệ RLTC giữa thành thị và vùng nông thôn vẫn chưa rõ ràng(10,14). Tuy nhiên, có khả năng những người SCVH ở các thành thị lớn như Hà Nội và TP.HCM có nhiều hơn các áp lực của cuộc sống hiện đại và dễ phát sinh các triệu chứng RLTC hơn. Ngoài ra, có thể thấy từ kết quả rằng người SCVH tại Thuận An, Bình Dương đa phần có cuộc sống có thể gọi là ‘ổn định’ hơn khi đa số đều đã có gia đình hoặc sống chung với bạn tình, làm việc toàn thời gian (công nhân) với mức lương đa số là 5 – 10 triệu/tháng, tự chủ về kinh tế, đa số không hút thuốc, không sử dụng ma túy và không sử dụng chất cồn. VIệc tuân thủ điều trị cũng rất cao ở người SCVH tại đây. Tất cả điều đó góp phần giải thích tỉ lệ RLTC tương đối thấp ở Thuận An, Bình Dương khi so sánh với Hà Nội và TP.HCM. Các yếu tố liên quan đến rối loạn trầm cảm Nghiên cứu của chúng tôi tìm thấy mối liên quan giữa RLTC và đặc điểm thời gian công việc, thu nhập hàng tháng, trong đó những người thu nhập thấp có tỉ lệ RLTC cao hơn. Kết quả có sự tương đồng với nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Mai, RLTC ở người SCVH thất nghiệp cao hơn so với người có nghề nghiệp ổn định và không ổn định(18). Các nghiên cứu khác trên đối tượng này đều tìm thấy RLTC phổ biến hơn ở người có thu nhập thấp(9,18). Ngoài ra, chúng tôi tìm thấy có mối liên quan về hỗ trợ gia đình với RLTC, trong đó người cảm nhận ít sự hỗ trợ từ y tế có tỉ lệ RLTC cao gấp 2,42 lần người cảm nhận hỗ trợ bình thường. Nhiều nghiên cứu đã có thấy vai trò quan trọng của những hỗ trợ từ gia đình và xã hội đối với những người SCVH, đặc biệt là về mặt tâm thần(2, 18). Nếu như ở các ước phương Tây, các rối loạn tâm thần như RLTC thường được qui kết cho những rối loạn thực thể ở cá nhân đối tượng thì các nước phương Đông trong đó có Việt Nam thường qui kết RLTC cho những rối loạn chức năng của nhóm, xã hội mà đối tượng là thành viên trong đó. Nghiên cứu định tính tại Việt Nam cũng chỉ ra rằng, RLTC thường được nghĩ là kết quả của việc “ăn ở” của gia đình, dòng họ, là hậu quả phải gánh chịu ở đời này do những lỗi lầm gây ra ở đời trước. Chính điều này dẫn đến RLTC vẫn còn là một vấn đề sức khỏe bị kỳ thị ít nhiều. Do đó, nếu không có các hỗ trợ từ gia đình và xã hội thì người SCVH dễ dàng xuất hiện RLTC và/hoặc làm nặng thêm các triệu chứng RLTC đang có, vốn dĩ có thể điều trị được. Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm thấy mối liên quan giữa RLTC và tuân thủ điều trị, kết quả này tương tự với kết quả của Đỗ Mai Hoa(7). Điều này ủng hộ thêm cho khuyến cáo Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 329 của WHO cần quan tâm đến vấn đề sức khỏe tâm thần trên người điều trị ARV để đạt được hiệu quả tối ưu và tránh trường hợp bỏ trị, trường hợp kháng thuốc, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng(21). Có sự khác biệt về tỉ lệ RLTC giữa các nhóm CD4 hiện tại, kết quả tương đồng với nghiên cứu trước đây(13). Kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi có thể mang nhiều ý nghĩa trong chăm sóc, điều trị cho người SCVH tại Thuận An, Bình Dương. Thứ nhất, mặc dù có nhiều nghiên cứu cho thấy người SCVH ngày càng có nhiều vấn đề về sức khỏe tâm thần nhưng việc sàng lọc, chuyển tuyến, chăm sóc và điều trị các rối loạn tâm thần nói chung và RLTC nói riêng hiện vẫn chưa phải là hoạt động thường qui tại Việt Nam và Thuận An. Hiện nay, Việt Nam đã đưa RLTC vào chương trình quốc gia và có thể cung cấp các dịch vụ miễn phí cho người dân thông qua tuyến cơ sở là các phòng, khoa tầm thần của các trung tâm y tế dự phòng tuyến quận/huyện. Vì vậy, việc kết hợp và tận dùng nguồn lực giữa các PKNT HIV/AIDS và các phòng, khoa chuyên trách về tâm thần có thể là một giải pháp trước mắt để nâng cao dịch vụ chăm sóc cho người SCVH. Thứ hai, hiện nay lực lượng có chuyên môn về sức khỏe tâm thần tại các PKNT HIV/AIDS hầu như không có. Mặc dù có thể tập huấn cho nhân viên y tế tại đây để sàng lọc, nhưng sẽ hiệu quả hơn nếu có thể sử dụng các công cụ đã được chuẩn hóa tại Việt Nam cho mục tiêu sàng lọc này. Việc sử dụng cùng một công cụ sàng lọc cũng mang lại lợi ích cho chương trình chăm sóc và điều trị ARV khi có thể đánh giá chương trình ở các nơi, các mốc thời gian khác nhau một cách dễ dàng, đồng nhất. Thang đo trầm cảm CES-D mà chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu này có thể là một công cụ phù hợp. Thứ ba, việc sàng lọc tất cả bệnh nhân có thể khó khả thi do số lượng ngày càng gia tăng người SCVH và vì vậy việc khu trú các đối tượng có nhiều ‘nguy cơ’ hơn là cần thiết. Việc cân nhắc các yếu tố có liên quan phát hiện trong nghiên cứu này để tập trung vào nhóm có nhiều khả năng RLTC sẽ giúp hỗ trợ được những người SCVH thật sự cần hỗ trợ do RLTC. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết quả của chúng tôi ghi nhận tỉ lệ RLTC trên người SCVH tại PKNT Thuận An là 24,7% (KTC 95% 16 – 37), trong đó tỉ lệ RLTC nhẹ là 12,5%, nặng 6,3%, vừa 5,9%. Điều này cho thấy cần có hoạt động sàng lọc phát hiện sớm những người RLTC để tư vấn hỗ trợ tâm lý, nếu cần thiết cần đưa đến cơ sở điều trị tâm thần. Các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê phát hiện được trong nghiên cứu này có thể là yếu tố chỉ điểm góp phần khu trú đối tượng cần theo dõi và sàng lọc RLTC. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Adewuya Abiodun O, et al. (2010) "The Effect of Psychological Distress on Medication Adherence in Persons With HIV Infection in Nigeria". Psychosomatics, 51 (1): 68-73. 2. Bhatia MS, Munjal S (2014), "Prevalence of Depression in People Living with HIV/AIDS Undergoing ART and Factors Associated with it". J Clin Diagn Res, 8 (10): Wc01- 4. 3. Bộ y tế (2016), Báo cáo Công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2015 và các nhiệm vụ trọng tâm năm 2016, Hà Nội, tr. 1-2. 4. Braithwaite RS, et al. (2016), "Do Alcohol Misuse, Smoking, and Depression Vary Concordantly or Sequentially? A Longitudinal Study of HIV-Infected and Matched Uninfected Veterans in Care". AIDS Behav, 20 (3):566-72. 5. Centers for Disease Control and Prevention (2017), Prevention Benefits of HIV Treatment, https://www.cdc.gov/hiv/research/biomedicalresearch/tap /, access on 21 April 2017. 6. Cục phòng chống HIV/AIDS (2016), Báo cáo số liệu phòng, chống HIV/AIDS năm 2015, Bộ Y Tế, tr. 1 - 2. 7. Do HM, Dunne MP, Kato M, Pham CV, Nguyen KV (2013), "Factors associated with suboptimal adherence to antiretroviral therapy in Viet Nam: a cross-sectional study using audio computer-assisted self-interview (ACASI)". BMC Infect Dis, 13:154. 8. Esposito CA, Steel Z, Gioi TM, Huyen TT, Tarantola D (2009), "The prevalence of depression among men living with HIV infection in Vietnam". Am J Public Health, 99 Suppl 2: S439-44. 9. Huỳnh Ngọc Vân Anh ( 2014), Trầm cảm và các yếu tố liên quan ở những người nhiễm HIV đang điều trị ARV. 10. John PD, Blandford AA, Strain LA (2006), "Depressive symptoms among older adults in urban and rural areas". Int J Geriatr Psychiatry, 21 (12):1175-80. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 330 11. Lữ Văn Việt (2009) Trung tâm Y tế Thuận An, thieu/59-gioi-thieu/cac-n-v-trc-thuc-tuyn-huyn/230-trung- tam-y-t-thun-an, accessed on 19 April 2017. 12. Mellins CA, et al. (2009) "Adherence to antiretroviral medications and medical care in HIV-infected adults diagnosed with mental and substance abuse disorders". AIDS Care, 21 (2): 168-77. 13. Olisah VO, Adekeye O, Sheikh TL (2015), "Depression and CD4 cell count among patients with HIV in a Nigerian University Teaching Hospital". Int J Psychiatry Med, 48 (4): 253-61. 14. Probst JC, Laditka SB, Moore CG, Harun N, Powell MP, Baxley EG (2006), "Rural-urban differences in depression prevalence: implications for family medicine". Fam Med, 38 (9):653-60. 15. Radloff LS (1977), "The CES-D Scale: A self-report depression scale for research in the general population.". Applied Psychological Measurement, 1 (3): pp.385 -401. 16. Thai Truc Thanh, Jones Mairwen K, Harris Lynne M, Heard Robert C (2016), "Screening value of the Center for epidemiologic studies – depression scale among people living with HIV/AIDS in Ho Chi Minh City, Vietnam: a validation study". BMC Psychiatry, 16 (1):145. 17. Thai TT, Jones MK, Harris LM, Heard RC (2017), "The association between symptoms of mental disorders and health risk behaviours in Vietnamese HIV positive outpatients: a cross-sectional study". BMC Public Health, 17 (1): 250. 18. Trần Thị Ngọc Mai, Bùi Thị Minh Hảo, Trần Khánh Toàn, Lê Minh Giang (2016), "Hỗ trợ xa ̆ hội và mối liên quan với trầm cảm của bệnh nhân HIV/AIDS tại 5 phòng khám ngoại trú; Hà Nội; na ̆m 2013". Tạp chí nghiên cứu Y học, Đại học Y Hà Nội, 99 (1): tr.182-191. 19. World Health Organization (2016), HIV/AIDS, accessed on 21 April 2017. 20. World Health Organization (2017), WHO “Depression: let’s talk” campaign calls for end to mental health stigma, 21. 017/world_health_day_2017/en/, acessed on 20 April 2017. Ngày nhận bài báo: 02/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfroi_loan_tram_cam_o_nguoi_song_chung_voi_hivaids_dang_dieu_t.pdf
Tài liệu liên quan