Tài liệu Rối loạn lo âu, trầm cảm và chất lượng cuộc sống của những người nhiễm HIV đang điều trị ARV tại trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Bình Phước: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 259
RỐI LOẠN LO ÂU, TRẦM CẢM VÀ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
CỦA NHỮNG NGƯỜI NHIỄM HIV ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV
TẠI TRUNG TÂM PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS TỈNH BÌNH PHƯỚC
Huỳnh Ngọc Vân Anh*, Tô Gia Kiên**, Nguyễn Thị Kim Tuyến***, Phạm Đình Quyết****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn lo âu là một dạng rối loạn tâm thần thường gặp, chiếm tỷ lệ cao ở những người nhiễm
HIV đang điều trị ARV, tuy nhiên các yếu tố liên quan đến lo âu vẫn chưa được mô tả đầy đủ. Nghiên cứu này
nhằm mục tiêu xác định tỷ lệ các mức độ rối loạn lo âu và các yếu tố liên quan trên những người nhiễm HIV
đang điều trị ARV.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên những người nhiễm HIV đang điều
trị ARV ở Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Bình Phước. Tất cả đối tượng thỏa tiêu chí chọn mẫu sẽ được
chọn và được phỏng vấn dựa vào bảng câu hỏi soạn sẵn gồm những thông tin nền, quá trình tham gia điều tr...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 313 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rối loạn lo âu, trầm cảm và chất lượng cuộc sống của những người nhiễm HIV đang điều trị ARV tại trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Bình Phước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 259
RỐI LOẠN LO ÂU, TRẦM CẢM VÀ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
CỦA NHỮNG NGƯỜI NHIỄM HIV ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV
TẠI TRUNG TÂM PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS TỈNH BÌNH PHƯỚC
Huỳnh Ngọc Vân Anh*, Tô Gia Kiên**, Nguyễn Thị Kim Tuyến***, Phạm Đình Quyết****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn lo âu là một dạng rối loạn tâm thần thường gặp, chiếm tỷ lệ cao ở những người nhiễm
HIV đang điều trị ARV, tuy nhiên các yếu tố liên quan đến lo âu vẫn chưa được mô tả đầy đủ. Nghiên cứu này
nhằm mục tiêu xác định tỷ lệ các mức độ rối loạn lo âu và các yếu tố liên quan trên những người nhiễm HIV
đang điều trị ARV.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên những người nhiễm HIV đang điều
trị ARV ở Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Bình Phước. Tất cả đối tượng thỏa tiêu chí chọn mẫu sẽ được
chọn và được phỏng vấn dựa vào bảng câu hỏi soạn sẵn gồm những thông tin nền, quá trình tham gia điều trị,
chất lượng sống (WHOQoL- HIV BREF), trầm cảm (CES-D) và rối loạn lo âu (HAMA).
Kết quả: Hầu hết đối tượng tham gia nghiên cứu đều có triệu chứng rối loạn lo âu, khoảng 21% bị lo âu ở
mức độ trung bình và nặng. Gần 1/3 đối tượng bị trầm cảm và điểm chất lượng sống khá thấp. Giới tính, trình
độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập và tình trạng kinh tế là những đặc điểm dân số xã hội có liên quan đến lo âu.
Kết luận: Tỷ lệ rối loạn lo âu trên những người nhiễm HIV đang điều trị ARV tại đây khá cao. Địa phương
cần phải quan tâm đến những người nhiễm HIV/AIDS có các đặc tính như giới nữ, học vấn trên cấp 3, lao động
tự do, kinh tế tự chủ với thu nhập từ 2,5 triệu/tháng trở lên vì họ bị lo âu ở mức độ không nhẹ cao hơn so với
những người không có đặc tính này.
Từ khóa: Rối loạn lo âu, trầm cảm, Chất lượng sống, HIV/AIDS, WHOQoL-BREF, CES-D, HAMA
Tác giả liên hệ: Ths. Huỳnh Ngọc Vân Anh ĐT: 0909 944 845 Email: huynhngocvananh@gmail.com
ABSTRACT
ANXIETY, DEPRESSION AND QUALITY OF LIFE IN PEOPLE LIVING WITH HIV/AIDS
RECEIVING ARV IN CENTER FOR HIV CONTROL IN BINH PHUOC PROVINCE
Huynh Ngoc Van Anh, To Gia Kien, Nguyen Thi Kim Tuyen, Pham Dinh Quyet
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 259-266
Background: Anxiety is one of the most common mental disorders, accounting for high prevalent in people
living with HIV/AIDS. However, its correlates have not been studied. The study identified the prevalence of
anxiety and correlates in people living with HIV/AIDS receiving ARV.
Methods: A cross-sectional study was conducted in in people living with HIV/AIDS receiving ARV in
Center for HIV/AIDS prevention and control in Binh Phuoc province. All eligible participants were recruited and
interviewed using a structured questionnaire. Data included personal characteristics, treatment history, quality of
life (WHOQOL-HIV BREF), depression (CES-D) and anxiety (HAMA).
*Bộ môn Thống kê y học và Tin học - Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
** Bộ môn Tổ chức quản lý y tế - Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
***Bệnh viện Nhân Ái ****Trung tâm cấp cứu 115
Tác giả liên lạc: Ths. Huỳnh Ngọc Vân Anh ĐT: 0909 944 845 Email: huynhngocvananh@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 260
Results: Most participants in the study had symptoms of anxiety disorder, with about 21% experiencing
moderate to severe anxiety. Nearly one third of the subjects were depressed and the quality of life was low. Gender,
education level, occupation, income and economic status are sociological characteristics related to anxiety.
Conclusion: The prevalence of anxiety disorder in HIV-infected people on ARV treatment is high. Center for
HIV/AIDS prevention and control in Binh Phuoc province need to pay attention to people with HIV/AIDS who
have characteristics such as women, education level 3, self-employed with income of 2.5 million VND per month
because anxiety levels higher than those without this characteristic.
Keywords: Anxiety, Depression, Quality of life, WHOQoL-BREF, CES-D, HAMA
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới
(TCYTTG) trong năm 2016 trên thế giới có
khoảng 1 triệu người tử vong vì các nguyên
nhân liên quan đến HIV/AIDS, có khoảng 36,7
triệu người đang sống chung với bệnh, và
khoảng 1,8 triệu người nhiễm mới(41) HIV/AIDS
vẫn tiếp tục là một trong những vấn đề sức khỏe
cộng đồng đáng quan tâm. Số lượng người
nhiễm cũng như gánh nặng phân bố không đều
ở các quốc gia, giữa các vùng miền. Việt Nam là
một trong những quốc gia có tỷ lệ nhiễm HIV
khá cao và đã xuất hiện ở 100% các tỉnh thành
trên cả nước. Trong 9 tháng đầu năm 2017 có
6.883 trường hợp nhiễm mới, số người nhiễm
HIV/AIDS hiện được báo cáo còn sống là
208.371, trong đó có 90.493 trường hợp đã
chuyển sang giai đoạn AIDS, và đã có tổng cộng
91.840 trường hợp tử vong. Số người nhiễm HIV
phát hiện được có xu hướng giảm nhưng vẫn ở
mức cao và tùy thuộc vào khả năng triển khai
của các công tác tư vấn xét nghiệm(13,14).
TCYTTG cũng cho biết hiện tại vẫn chưa có
phương pháp điều trị khỏi HIV, nhưng liệu
pháp điều trị bằng ARV đã được chứng minh là
có hiệu quả trong việc kiểm soát vi-rút, giúp
ngăn ngừa lây truyền bệnh và góp phần kéo dài
tuổi thọ của người nhiễm HIV(18,39,41). Tuy nhiên,
y văn cũng ghi nhận sức khỏe tâm thần có liên
quan chặt chẽ với hiệu quả điều trị. Những
người có những rối loạn về tâm thần có chất
lượng cuộc sống thấp hơn, khả năng thất bại
điều trị cao hơn, có các hành vi nguy cơ lây
truyền cao hơn và cản trở khả năng tiếp thu
thông tin về bệnh so với nhóm người không có
vấn đề về sức khỏe tâm thần. Hơn nữa, rối loạn
về sức khỏe tâm thần còn ảnh hưởng đến cuộc
sống thường ngày, hoạt động thể lực, các mối
quan hệ với người thân và xã hội, khả năng đối
mặt với những stress cao(2,5,6,8,3,4,7,1,40).
Trong các vấn đề về sức khỏe tâm thần thì
rối loạn lo âu và trầm cảm là một trong những
vấn đề thường gặp nhất ở những người nhiễm
HIV(4,19 6,25,28). Nghiên cứu của tác giả Đặng Thị
Thanh Thảo thực hiện tại bệnh viện Nhiệt Đới
cho thấy có 54,4% đối tượng nhiễm HIV có các
dấu hiệu về rối loạn lo âu(20). Tuy nhiên, các
nghiên cứu chưa bao quát về các vấn đề người
nhiễm HIV gặp phải trong quá trình điều trị.
Hiểu biết về dịch tễ học của rối loạn tâm thần có
thể giúp xác định rõ hơn các nhu cầu và nguồn
lực cần thiết để góp phần làm giảm tỷ lệ mắc,
giảm gánh nặng của dịch HIV đối với cá nhân
nói riêng và đối với cộng đồng nói chung. Vì vậy
cần thiết có thêm nghiên cứu bao quát hơn về
các vấn đề sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên
quan ở nhóm người nhiễm HIV/AIDS.
Bình Phước là một trong những tỉnh thuộc
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có nền kinh
tế công nông nghiệp ngày càng phát triển và thu
hút được nhiều nguồn nhân lực từ nhiều nơi.
Theo thống kê của Cục phòng chống HIV/AIDS,
tính đến tháng 6/2014 toàn tỉnh có 1.687 người
nhiễm HIV/AIDS, trong đó có 411 người đang
được điều trị ARV tại 3 cơ sở điều trị. Nghiên
cứu của chúng tôi được thực hiện nhằm xác định
tỷ lệ mắc các rối loạn lo âu, trầm cảm, đo lường
điểm số chất lượng sống trung bình của những
người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại
Trung tâm phòng chống (TTPC) HIV/AIDS tỉnh
Bình Phước, đồng thời xác định các yếu tố liên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 261
quan ảnh hưởng đến các vấn đề sức khỏe tâm
thần của những đối tượng này.
PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện
trên những người nhiễm HIV đang điều trị tại
Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Bình
Phước từ tháng 4/2015 đến tháng 7/2015. Tất cả
những người nhiễm HIV đang điều trị ARV từ
15 tuổi trở lên, sau khi được giải thích rõ ràng về
mục tiêu của nghiên cứu, đồng ý và sẵn sàng
tham gia nghiên cứu thì đối tượng nghiên cứu
được phỏng vấn mặt đối mặt dựa trên bộ câu
hỏi soạn sẵn gồm thông tin về dân số xã hội như
tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình trạng hôn
nhân, nghề nghiệp, tình trạng kinh tế. Chất
lượng sống được đánh giá bằng thang đo
WHOQoL- HIV Bref (World Health
Organization Human Immunod eficiency virus
infection Quality of Life Bref). Sử dụng thang đo
CES-D (Center for Epidemiologycal Studies
Depression Scale) để đánh giá tình trạng trầm
cảm và thang đo HAM-A (Hamilton Anxiety
Rating Scale) để đo lường rối loạn lo âu.
Thang đo CES-D, WHOQoL-BREF và HAM-A
Thang đo CES-D là một trong những thang
đo được phát triển miễn phí nhằm phục vụ cho
cộng đồng và đã được nhiều nghiên cứu đánh
giá mức độ tin cậy khá cao khi sử dụng để đo
lường tỷ lệ trầm cảm(10,12,32). Thang đo này gồm 20
câu và được tính điểm từ 0 điểm đến 3 điểm
tương ứng với số ngày trải qua các sự kiện được
hỏi, trong đó “0 điểm” tương đương với hiếm
khi (không có hoặc có <1 ngày), “1 điểm” tương
đương với đôi khi (1 – 2 ngày), “2 điểm” tương
đương với hầu hết (3 – 4 ngày) và “3 điểm”
tương đương với thường xuyên (5 – 7 ngày). Các
câu 4, 8, 12 và 16 trong thang đo được chuyển
điểm ngược lại trước khi tính tổng số điểm.
Điểm số sẽ được tính từ 0 điểm đến 60 điểm. Đối
tượng được xem là có trầm cảm khi điểm số
vượt trên 23 điểm.
Thang đo WHOQoL-HIV BREF được
TCYTTG xây dựng và phát triển gồm 31 câu chia
thành 6 lĩnh vực bao gồm 4 câu về sức khỏe thể
chất (câu 3, 4, 14 và 21), 5 câu về sức khỏe tinh
thần (câu 6, 11, 15, 24 và 31), 4 câu về mức độ
độc lập (câu 5, 20, 22 và 23), 4 câu về quan hệ xã
hội (câu 17, 25, 26 và 27), 8 câu về môi trường
sống (câu 12, 13, 16, 18, 19, 28, 29 và 30) và 4 câu
về niềm tin cá nhân (câu 7, 8, 9 và 10). Hai câu
đầu tiên trong thang đo WHOQoL-HIV BREF
không được tính vào tổng điểm mà chỉ được
dùng để đánh giá tình trạng sức khỏe chung và
sự hài lòng về sức khỏe của người tham gia
phỏng vấn. Tất cả các câu hỏi được cho điểm từ
1 đến 5 điểm, sau đó được cộng lại và quy đổi ra
điểm chất lượng sống theo thang 20 điểm như
hướng dẫn của TCYTTG. Thang đo này đã được
chuẩn hóa và sử dụng trong nhiều nghiên cứu
với độ tin cậy và tính giá trị tốt.(9, 11, 23, 27, 33, 35) Kết
quả của nghiên cứu thử cũng cho thấy hệ số
Cronbach’s alpha của thang đo là 0,9.(30)
Thang đo HAM-A là một thang đo tâm lý
được sử dụng để đánh giá mức độ nghiêm
trọng của sự lo lắng ở bệnh nhân. Thang đo
này đã được chứng minh là có tính ổn định và
độ nhạy cao và đã được dịch ra nhiều ngôn
ngữ khác nhau trên thế giới(16,22,34). Năm 2004,
tác giả Trịnh Ngọc Tuân đã thực hiện nghiên
cứu tại bệnh viện sức khỏe tâm thần và kết
luận rằng thang đo HAM-A có thể áp dụng
cho nghiên cứu chẩn đoán, điều trị các rối loạn
lo âu(37). Thang đo HAM-A gồm có 14 câu, mỗi
câu hỏi được cho điểm từ 0 đến 4 điểm tương
ứng với mức độ lo âu tăng dần từ không lo âu,
lo âu nhẹ, lo âu vừa, lo âu nặng và lo âu rất
nặng. Tổng điểm của thang đo HAM-A dao
động từ 0 đến 56 điểm và được chia làm các
mức độ lo âu gồm không lo âu (0 điểm), rối
loạn lo âu nhẹ (1 – 17 điểm), lo âu trung bình
(18 – 24 điểm) và lo âu nặng (≥25 điểm).
Phân tích thống kê
Sử dụng tần số và tỷ lệ phần trăm để mô tả
cho các biến số về đặc điểm dân số xã hội (như
nhóm tuổi, giới tính, hôn nhân, học vấn, nghề
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 262
nghiệp), tình trạng trầm cảm và lo âu. Sử dụng
trung bình và độ lệch chuẩn để mô tả điểm chất
lượng sống từng lĩnh vực và điểm chất lượng
sống chung.
Kiểm định chi bình phương được dùng để
so sánh tỷ lệ rối loạn lo âu theo các đặc điểm
dân số xã hội. Kiểm định được xem là có ý
nghĩa khi giá trị p<0,05. Nghiên cứu còn sử
dụng số đo tỉ số tỷ lệ hiện mắc PR (Prevalance
Ratio) và khoảng tin cậy 95% để đo lường mức
độ liên quan đến lo âu.
KẾT QUẢ
Có tổng cộng 196 người nhiễm HIV đang
điều trị ARV tại Trung tâm phòng chống
HIV/AIDS tỉnh Bình Phước đồng ý tham gia
nghiên cứu. Tuy nhiên, có 1 người chưa hoàn
thành phiếu thu thập thông tin về các câu hỏi
liên quan đến rối loạn lo âu nên được loại ra.
Nghiên cứu ghi nhận thông tin của 195 người
thỏa tiêu chí đưa vào, kết quả nghiên cứu được
trình bày bên dưới.
Bảng 1: Đặc tính dân số xã hội (n = 195)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ %
Giới tính (Nữ) 98 50,3
Tình trạng hôn nhân
Độc thân
Sống với vợ/chồng
Sống với bạn tình
Ly thân/ly dị
Góa
21
124
11
18
21
10,8
63,6
5,6
9,2
10,8
Trình độ học vấn
Biết đọc, biết viết
Cấp 1
Cấp 2
Cấp 3
Trên cấp 3
10
29
113
35
8
5,1
14,9
58,0
17,9
4,1
Nghề nghiệp
Công nhân
Thất nghiệp
Nông dân
Buôn bán
Lao động tự do
51
44
43
36
21
26,1
22,6
22,0
18,5
10,8
Thu nhập (n = 151)
<1,5 triệu
1,5 – 2,5 triệu
>2,5 – 3,5 triệu
>3,5 triệu
24
40
61
26
15,9
26,5
40,4
17,2
Tình trạng kinh tế
Tự chủ bản thân
130
66,7
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ %
Phụ thuộc gia đình
Trợ cấp xã hội
57
8
29,2
4,1
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nam so với
nữ là tương đương nhau. Độ tuổi trung bình của
đối tượng nghiên cứu là 34,8 ± 7,8; trong đó
những người >30 tuổi chiếm tỷ lệ nhiều hơn so
với nhóm ≤30 tuổi. Trình độ học vấn từ cấp 2 trở
lên chiếm phần lớn, đa số những đối tượng
nhiễm HIV đang sống chung với vợ/chồng
chiếm 63,6%. Những người nhiễm HIV đa phần
đều có công việc để tạo thu nhập, công việc của
những đối tượng này chủ yếu là công nhân
(26%), nông dân (22%) và buôn bán (18%). Tỷ lệ
những người nhiễm HIV hưởng trợ cấp của xã
hội là rất thấp chủ yếu là người cao tuổi, những
người không có việc làm thì chủ yếu phụ thuộc
vào gia đình. Đa phần nguyên nhân bị lây nhiễm
HIV là do quan hệ tình dục (66,3%), có 15,8%
bệnh nhân không rõ mình bị nhiễm HIV là do
nguyên nhân nào.
Bảng 2: Mức độ rối loạn lo âu và tình trạng trầm
cảm (n = 195)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ %
Rối loạn lo âu
Không có (0 điểm)
Nhẹ (<17 điểm)
Trung bình (18 – 24 điểm)
Nặng (≥25 điểm)
9
145
28
13
4,6
74,4
14,4
6,6
Tình trạng trầm cảm
Có
Không
63
132
32,3
67,7
Kết quả phân tích thống kê cho thấy đối
tượng tham gia nghiên cứu có điểm rối loạn lo
âu trung vị theo thang đo HAMA là 6 điểm với
khoảng tứ phân vị từ 3 đến 15 điểm, cao nhất là
42 điểm. Theo đó thì có 9 người không bị bất kỳ
triệu chứng nào của rối loạn lo âu (chiếm 4,6%).
Có 145 người có ít nhất 1 triệu chứng lo âu
(chiếm 75,4%), 28 người có triệu chứng lo âu ở
mức trung bình (chiếm 14,4%) và 13 người có
triệu chứng lo âu ở mức nặng (chiếm 6,7%). Bên
cạnh đó theo thang đo CES-D thì có 63 người bị
trầm cảm, chiếm 32,3%.
Điểm chất lượng sống ghi nhận theo thang
đo WHOQoL-HIV BREF cho thấy thấp nhất ở
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 263
lĩnh vực môi trường sống (11,7 ± 1,9) và cao nhất
là lĩnh vực sức khỏe thể chất (12,5 ± 2,4) và sức
khỏe tinh thần (12,5 ± 2,1). Điểm chất lượng sống
chung của đối tượng nghiên cứu không cao,
khoảng 12,1 ± 1,6 điểm.
Nghiên cứu còn ghi nhận mối liên quan
giữa rối loạn lo âu (nhẹ và không nhẹ) với các
đặc điểm dân số xã hội và tình trạng rối loạn
trầm cảm. Kết quả được trình bày ở các bảng
bên dưới.
Bảng 3: Mối liên quan giữa đặc điểm dân số xã hội với rối loạn lo âu (n = 186)
Đặc điểm RLLA không nhẹ
(n = 41)
RLLA nhẹ
(n = 145)
Giá trị p PR (KTC 95%)
Giới tính
Nữ
Nam
28 (29,8)
13 (14,1)
66 (70,2)
79 (85,9)
0,010
2,11 (1,17 – 3,81)
Nhóm tuổi
≤30 tuổi
>30 tuổi
18 (31,0)
23 (20,0)
40 (69,0)
105 (82,0)
0,046
1,73 (1,01 – 2,94)
Sống chung
Sống chung vợ/chồng
Khác
25 (19,2)
16 (28,6)
105 (80,8)
40 (71,4)
0,159
1,48 (0,86 – 2,56)
Trình độ học vấn
Trên cấp 3
Cấp 3
Cấp 2
Dưới cấp 2
5 (62,5)
3 (9,1)
21 (19,8)
12 (30,8)
3 (37,5)
30 (90,9)
85 (80,2)
27 (69,2)
0,002
0,001
0,052
1
0,14 (0,04 – 0,49)
0,32 (0,16 – 0,61)
0,49 (0,24 – 1,01)
Nghề nghiệp
Lao động tự do
Công nhân
Nông dân
Buôn bán
Nội trợ, thất nghiệp
9 (45,0)
10 (20,0)
7 (17,1)
5 (16,1)
10 (22,7)
11 (55,0)
40 (80,0)
34 (82,9)
26 (83,9)
34 (77,3)
0,031
0,023
0,032
0,067
1
0,44 (0,21 – 0,93)
0,38 (0,16 – 0,87)
0,36 (0,14 – 0,92)
0,50 (0,24 – 1,05)
Thu nhập
>2,5 triệu
1,5 - 2,5 triệu
<1,5 triệu
8 (10,0)
14 (36,8)
19 (27,9)
72 (90,0)
24 (63,2)
49 (72,1)
0,001
0,008
1
3,68 (1,69 – 8,04)
2,79 (1,30 – 5,99)
Có mối liên quan giữa rối loạn lo âu với giới
tính, học vấn, nghề nghiệp, thu nhập và tình
trạng kinh tế. Theo đó thì nữ có tỷ lệ rối loạn lo
âu từ mức trung bình trở lên cao hơn so với
nam. Những người có học vấn trên cấp 3 thì có
tỷ lệ rối loạn lo âu từ mức trung bình trở lên cao
hơn so với những người học vấn dưới cấp 3.
Những người không phải lao động tự do thì có
tỷ lệ rối loạn lo âu nhẹ thấp hơn so với những
người lao động tự do. Thu nhập >2,5 triệu/tháng
thì có tỷ lệ rối loạn lo âu nhẹ thấp hơn những
người thu nhập ≤2,5 triệu/tháng.
Bảng 4: Mối liên quan giữa rối loạn lo âu với trầm
cảm (n = 186)
Đặc điểm Trầm
cảm
(n = 67)
Không
trầm cảm
(n = 119)
Giá trị p PR (KTC
95%)
Rối loạn lo âu
Đặc điểm Trầm
cảm
(n = 67)
Không
trầm cảm
(n = 119)
Giá trị p PR (KTC
95%)
Không nhẹ
Nhẹ
31 (75,6)
36 (24,8)
10 (24,4)
109 (75,2)
<0,001
3,04 (2,18 –
4,24)
Có mối liên quan giữa trầm cảm và rối loạn
lo âu với p<0,001. Những người có triệu chứng
rối loạn lo âu từ mức trung bình trở lên sẽ có tỷ
lệ trầm cảm bằng 3,04 lần so với những người có
triệu chứng lo âu dưới trung bình với khoảng tin
cậy 95% từ 2,18 đến 4,24.
BÀN LUẬN
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Dân số nghiên cứu có độ tuổi trung bình là
34,8 ± 7,8 và nhóm tuổi >30. Kết quả này cũng
phù hợp với các nghiên cứu khác được thực hiện
trên cùng đối tượng(20,24,15,36,35). Trong các báo cáo
về tình hình dịch bệnh cả nước nói chung và khu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 264
vực phía Nam nói riêng thì số lượng nữ giới
nhiễm HIV có xu hướng gia tăng(14,15) có lẻ vì lý
do đó mà trong nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ
nam và nữ tham gia nghiên cứu gần như tương
đương nhau. Ngoài ra nghiên cứu của chúng tôi
còn ghi nhận học vấn của những người nhiễm
HIV đang điều trị tại đây lại có tỷ lệ học vấn từ
cấp 2 trở lên chiếm phần lớn. Học vấn thì
thường có liên quan đến nghề nghiệp và thu
nhập kinh tế. Có lẻ vì vậy mà hơn 3/4 đối tượng
nghiên cứu là có công việc tạo thu nhập.
Mức độ rối loạn lo âu, trầm cảm
Y văn ghi nhận tỷ lệ trầm cảm ở những
người nhiễm HIV thay đổi theo từng quốc gia.
Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ trầm
cảm có thể dao động từ 18% đến 50%. Tại Việt
Nam, theo nghiên cứu của nhóm tác giả Trần
Minh Giới(21) thì tỷ lệ trầm cảm là 18,7%. Trong
nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận có 34,4% đối
tượng tham gia bị trầm cảm theo thang đo CES-
D. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả ghi
nhận được của tác giả Thái Thanh Trúc(38) và
Ngô Tích Linh(29).
Nghiên cứu của tác giả Đặng Thị Thanh
Thảo(20) ghi nhận tỷ lệ rối loạn lo âu ở người
nhiễm HIV là 54,4%. Trong nghiên cứu này thì
chúng tôi lại ghi nhận hầu hết đối tượng đều có
rối loạn lo âu theo thang đo HAMA, trong đó tỷ
lệ rối loạn lo âu mức độ nhẹ là 74,4%, mức độ
trung bình là 14,4% và mức độ nặng là 6,6%. Một
vài nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới
cũng cho ra tỷ lệ rối loạn lo âu thấp hơn nghiên
cứu của chúng tôi như Kagee (52,9%)(26), Campos
(51,5%)(4), Celesia B M (47%)(17), Qui Yangyang
(40,3%)(31). Mặc dù có khác nhau về tỷ lệ rối loạn
lo âu giữa các nghiên cứu, tuy nhiên mức độ rối
loạn lo âu thì tương đối giống nhau, trong đó đa
phần là rối loạn mức độ nhẹ.
Các yếu tố liên quan rối loạn lo âu
Nghiên cứu này ghi nhận rối loạn lo âu có
liên quan với giới tính. Những người nữ thì có tỷ
lệ rối loạn lo âu từ mức trung bình trở lên cao
hơn gấp đôi so với những người nam với p =
0,01. Kết quả này tương tự tác giả Đặng Thị
Thanh Thảo(20) và điều này cũng phù hợp với
đặc tính chung trong các mối quan hệ xã hội, bởi
lẻ nữ giới thường có những vấn đề về sức khỏe
tinh thần cao hơn nam giới và họ cũng khó bộc
lộ về tình trạng mắc bệnh hơn so với những
người nam. Thêm nữa, phụ nữ thường có những
tâm lý e dè và ngại sự kỳ thị của xã hội, cũng
như những sự lo ngại khác quanh việc nhiễm
HIV sẽ làm cho đối tượng dễ dàng rơi vào tình
trạng lo âu hơn so với nam giới.
Thêm nữa, nghiên cứu của chúng tôi cũng
ghi nhận những người >30 tuổi có tỷ lệ rối loạn
lo âu thấp hơn so với những người ≤30 tuổi.
Theo báo cáo của TCYTTG thì rối loạn lo âu có
tần suất xảy ra thấp hơn ở nhóm người lớn
tuổi(40). Bên cạnh đó thì học vấn, nghề nghiệp
và thu nhập cũng được tìm thấy là có liên
quan đến rối loạn lo âu. Những người có học
vấn trên cấp 3, nghề nghiệp lao động tự do và
thu nhập dưới 2,5 triệu/tháng thì đều có tỷ lệ
rối loạn lo âu từ mức trung bình cao hơn so
với những người không có đặc tính này. Có lẻ
rằng tỷ lệ lo âu sẽ thấp hơn đối với những
người có mối lo ngại về kinh tế ít hơn. Nghiên
cứu của tác giả Đặng Thị Thanh Thảo(20) cũng
cho biết người nào có hài lòng về tình trạng
kinh tế thì có liên quan đến lo âu.
Nghiên cứu này cũng ghi nhận mối liên
quan giữa trầm cảm và rối loạn lo âu. Những
người có rối loạn lo âu từ mức độ trung bình trở
lên thì có tỷ lệ trầm cảm gấp 3 lần so với những
người chỉ lo âu ở mức độ nhẹ. Kết quả này cũng
tương tự với các nghiên cứu trong và ngoài nước
về mối liên quan giữa lo âu và trầm cảm(4,6,26,38).
Lo âu càng kéo dài kèm theo mức độ lo âu càng
cao thì càng dễ dẫn đến trầm cảm. Đây là một
trong những vấn đề đáng quan tâm của cộng
đồng nói chung hay của cá nhân và gia đình nói
riêng, bởi lẻ khi người nhiễm HIV có các vấn đề
về sức khỏe tâm thần thì dù họ mắc lo âu hay
trầm cảm thì cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
cuộc sống của họ và từ đó gián tiếp ảnh hưởng
đến tình trạng lây nhiễm. Bởi khi có các vấn đề
về sức khỏe tâm thần thì đối tượng dễ có thể có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 265
những hành vi tiêu cực và có khả năng làm tăng
nguy cơ truyền nhiễm bệnh.
Một trong những điểm mạnh của nghiên
cứu là chúng tôi đã sử dụng những thang đo đã
được chuẩn hóa, có độ tin cậy và tính giá trị cao
như thang đo rối loạn lo âu theo HAMA, thang
đo trầm cảm theo CES-D và thang đo chất lượng
sống theo WHOQoL-HIV BREF. Nghiên cứu đã
góp phần khẳng định lại các yếu tố có khả năng
ảnh hưởng đến rối loạn lo âu ở người nhiễm
HIV đang điều trị ARV. Tuy nhiên, nghiên cứu
chỉ được tiến hành tại Trung tâm Phòng chống
HIV/AIDS tỉnh Bình Phước nên chỉ có thể áp
dụng kết quả nghiên cứu cho những địa phương
có cùng đặc tính, cùng với thiết kế nghiên cứu
cắt ngang là một trong những hạn chế của chúng
tôi vì không thể suy luận được mối quan hệ
nhân quả giữa rối loạn lo âu với trầm cảm.
Ngoài ra, thang đo rối loạn lo âu theo HAMA
khá nhạy, chỉ cần đối tượng trả lời có ở bất kỳ 1
trong 14 nội dung của thang đo thì được xem là
có triệu chứng lo âu. Chính vì vậy trong những
nghiên cứu tiếp theo nên sử dụng kết hợp
những thang đo khác để đánh giá chính xác hơn
về tình trạng lo âu trên nhóm đối tượng này.
Thêm nữa, nên thực hiện nghiên cứu tiếp theo
với cỡ mẫu cao hơn để thấy rõ các yếu tố ảnh
hưởng đến rối loạn lo âu vì trong nghiên cứu
này chỉ tìm thấy 9 người không có bất kỳ dấu
hiệu nào của lo âu nên chưa so sánh được sự
khác biệt giữa những người có và không có lo âu.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này mang lại thông tin hữu ích
cho ngành y tế nói chung và các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe cho những người sống với HIV nói
riêng nhằm có những chiến lược phù hợp hỗ trợ
nhóm đối tượng này. Từ những kết quả mà
nghiên cứu ghi nhận được, chúng tôi đề xuất
một vài giải pháp nhằm làm giảm nhẹ gánh
nặng của xã hội, gia đình và bản thân người
nhiễm, đó là Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS
cần theo dõi và tư vấn hỗ trợ tâm lý cho những
người có khả năng trầm cảm hoặc rối loạn lo âu
cao, đặc biệt quan tâm đến nhóm đối tượng có
học vấn thấp và quan tâm nhiều hơn đối với
những người nhiễm là nữ, nhóm tuổi ≤30, nghề
nghiệp không ổn định hay thu nhập thấp. Và
cần thực hiện thêm những nghiên cứu về
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trầm cảm, rối
loạn lo âu trên đối tượng này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AIDS Government (2016). Mental Health USA: U.S. Department
of Health & Human Services; [cited 2016 accessed on 9/03/2017].
Available from: https://www.aids.gov/hiv-aids-basics/staying-
healthy-with-hiv-aids/taking-care-of-yourself/mental-health/.
2. Alciati A, Gallo L, Monforte AD, Brambilla F, Mellado C (2007).
"Major depression-related immunological changes and
combination antiretroviral therapy in HIV-seropositive
patients". Hum Psychopharmacol, 22(1):33-40.
3. Belenky NM, Cole SR, Pence BW, Itemba D, et al (2014).
"Depressive symptoms, HIV medication adherence, and HIV
clinical outcomes in Tanzania: a prospective, observational
study". PLoS One, 9(5):e95469.
4. Campos LN, Guimaraes MD (2010). "Anxiety and depression
symptoms as risk factors for non-adherence to antiretroviral
therapy in Brazil". AIDS Behav, 14(2):289 - 99.
5. Charles B, Jeyaseelan L, Pandian AK, Sam AE, Thenmozhz M
(2012). "Association between stigma, depression and quality of
life of people living with HIV/AIDS (PLHA) in South India - a
community based cross sectional study". BMC Public Health,
12:463.
6. Ezeamama AE, Woolfork MN, Guwatudde D, Bagenda D,
Manabe YC, Fawzi WW, et al. (2016). "Depressive and Anxiety
Symptoms Predict Sustained Quality of Life Deficits in HIV-
Positive Ugandan Adults Despite Antiretroviral Therapy: A
Prospective Cohort Study". Medicine (Baltimore), 95(9):e2525.
7. Khan MR, Kaufman JS, Pence BW, Gaynes BN, Adimora AA,
Weir SS, et al. (2009). "Depression, sexually transmitted
infection, and sexual risk behavior among young adults in the
United States". Arch Pediatr Adolesc Med, 163(7):644-52.
8. Sikkema KJ, Watt MH, Drabkin AS, Meade CS, Hansen NB
(2010). "Mental health treatment to reduce HIV transmission
risk behavior: a positive prevention model". AIDS Behav,
14(2):252-62.
9. Trần Xuân Bách (2012). "Quality of life outcomes of
antiretroviral treatment for HIV/AIDS patients in Vietnam".
PLoS One, 7(7):e41062.
10. Beck AT, Ward CH, Mendelson M, Mock J, JE (1961 Jun). "An
inventory for measuring depression". Arch Gen Psychiatry, 4:561
- 71.
11. Belak Kovacevic S, Vurusic T, Duvancic K, M M (2006 Dec).
"Quality of life of HIV-infected persons in Croatia". Coll
Antropol, 30(2):79 - 84.
12. Blazer DG, Kessler RC, McGonagle KA, MS S (1994 Jul). "The
prevalence and distribution of major depression in a national
community sample: The national comorbidity sample". Am J
Psychiatry, 151(7):979 - 86.
13. Bộ Y Tế (2015). Hướng dẫn quản lý, điều trị và chăm sóc bệnh nhân
HIV/AIDS. Hà Nội.
14. Bộ Y Tế (2017). Báo cáo công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2017
và nhiệm vụ trọng tâm năm 2018.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 266
15. Bộ Y Tế (2017). Công tác phòng chống HIV/AIDS 6 tháng đầu năm
2016 và nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2016. Hà Nội.
16. Bruss GS, Gruenberg AM, Goldstein RD, JP B (1994 Aug).
"Hamilton Anxiety Rating Scale Interview Guide: Joint
Interview and Test-retest Methods for Interrater Reliability".
Psychiatry research, 53(2):191 - 202.
17. Celesia BM, Nigro L, Pinzone MR, Coco C, La Rosa R, Bisicchia
F, et al. (2013). "High prevalence of undiagnosed anxiety
symptoms among HIV-positive individuals on cART: a cross-
sectional study". Eur Rev Med Pharmacol Sci, 17(15):2040 - 6.
18. Centers for Disease Control and Prevention (2001). "First report
of AIDS". Morbidity and Mortality Weekly Report, 50(21):429 - 44.
19. Chen MH, Su TP, Chen TJ, Cheng JY, Wei HT, Ya-Mei B (2012).
"Identification of psychiatric disorders among human
immunodeficiency virus-infected individuals in Taiwan, a nine-
year nationwide population-based study". AIDS Care,
24(12):1543 - 9.
20. Đặng Thị Thanh Thảo, Quách Thị Minh Phượng, Trương Trung
Đại, Nguyễn Hoàng Văn, Huỳnh Ngọc Vân Anh, Võ Xuân
Huy, et al. (2016). "Rối loạn lo âu và các yếu tố liên quan trên
bệnh nhân HIV đến khám và điều trị tại bệnh viện Bệnh Nhiệt
Đới Hồ Chí Minh năm 2015". Y học TpHCM, 20(1):306 - 12.
21. Esposito CA, Steel Z, Gioi TM, Huyen TT, D T (2009). "The
prevalence of depression among men living with HIV infection
in Vietnam". Am J Public Health, 99(2):S439 - S44.
22. Hamilton M (1959). "The assessment of anxiety states by rating".
British journal of medical psychology, 32(1):50 - 5.
23. Hsiung PC, Fang CT, Lee KL, Sheng WH, Wu CY, Wang JD, et
al. (2011 Mar). "Validation of the medical outcomes study HIV
(MOS-HIV) health survey among HIV-infected patients in
Taiwan". Qual Life Res, 20(2):281 - 6.
24. Huỳnh Ngọc Vân Anh, Tô Gia Kiên, Dương Bá Vũ, Thảo NTP
(2017). "Trầm cảm và các yếu tố liên quan ở những người nhiễm
HIV đang điều trị ARV". Y học TpHCM, 21(1):252 - 60.
25. Jallow A, Ljunggren G, Wandell P, AC C (2015). "Prevalence,
incidence, mortality and co-morbidities amongst human
immunodeficiency virus (HIV) patients in Stockholm County,
Sweden - The Greater Stockholm HIV Cohort Study". AIDS
Care, 27(2):142 - 9.
26. Kagee A, LM (2010). "Symptoms of depression and anxiety
among a sample of South African patients living with HIV".
AIDS Care, 22(2):159 - 65.
27. Louwagie GM, Bachmann MO, Meyer K, Booysen Fle R, Fairall
LR, CH (2007 Sep). "Highly active antiretroviral treatment and
health related quality of life in South African adults with human
immunodeficiency virus infection: A cross-sectional analytical
study". BMC Public Health, 14(7):244.
28. Lowther K, Selman L, Harding R, IJ H (2014). "Experience of
persistent psychological symptoms and perceived stigma
among people with HIV on antiretroviral therapy (ART): a
systematic review". Int J Nurs Stud, 51(8):1171 - 89.
29. Ngô Tích Linh, PN B (2016). "Khảo sát tỷ lệ trầm cảm và các yếu
tố liên quan trên bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tại bệnh viện đa
khoa tỉnh Bình Dương". Y học TpHCM, 20(5):532 - 6.
30. Nguyễn Thị Kim Tuyến, Huỳnh Ngọc Vân Anh, Kiên TG
(2016). "Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan của người
nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV ở Trung tâm Phòng chống
HIV/AIDS Bình Phước". Y học TpHCM, 20(5):6 - 12.
31. Qiu Y, Luo D, Cheng R, Xiao Y, Chen X, Huang Z, et al. (2014).
"Emotional problems and related factors in patients with
HIV/AIDS". Zhong Nan Da Xue Xue Bao Yi Xue Ban, 39(8):835 -
41.
32. Radloff LS (1977). "The CES-D Scale: A Self-Report Depression
Scale for Research in the General Population". Center for
Epidemiologic Studies National Institute of Mental Health, 1(3):385 -
401.
33. Saddki N, Noor MM, Norbanee TH, Rusli MA, Norzila Z,
Zaharah S, et al. (2009 Oct). "Validity and reliability of the Malay
version of WHOQOL-HIV BREF in patients with HIV
infection". AIDS Care, 21(10):1271 - 8.
34. Shear MK, Vander Bilt J, Rucci P, Endicott J, Lydiard B, Otto
MW, et al. (2001). "Reliability and validity of a structured
interview guide for the Hamilton Anxiety Rating Scale (SIGH-
A)". Depression and Anxiety, 13(4):166 - 78.
35. Tô Gia Kiên, Huỳnh Ngọc Vân Anh, Tô Gia Quyền, Đỗ Văn
Dũng, Mai NTH (2014). "Đặc tính đo lường của WHOQoL-HIV
Bref tiếng Việt trên người nhiễm HIV đang được điều trị ARV".
Y học TpHCM, 18(1):15 - 22.
36. Tổ HIV/AIDS viện Pasteur Tp.HCM (2016). Báo cáo tình hình dịch
tại khu vực phía Nam năm 2016, TpHCM.
37. Trịnh Ngọc Tuân, Tùng ĐT (2005). "Sử dụng thang đánh giá lo
âu Hamilton cho bệnh nhân có rối loạn lo âu tại viện sức khỏe
tâm thần". Tạp chí tâm lý học, 5(74):54 - 9.
38. Thai TT, Jones MK, Harris LM, RC H (2016). "Screening value of
the Center for epidemiologic studies – depression scale among
people living with HIV/AIDS in Ho Chi Minh City, Vietnam: a
validation study". BMC Psychiatry, 16:145.
39. UNAIDS (2014). The Gap Report. Geneva, Switzarland.
40. WHO (2008). HIV/AIDS and mental health. Geneva.
41. WHO (2016). Key facts. Available from:
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- roi_loan_lo_au_tram_cam_va_chat_luong_cuoc_song_cua_nhung_ng.pdf