Tài liệu Rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động làm quen với văn học: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 36-40
36
Email: minhphuongsphn@gmail.com
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SO SÁNH CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI VĂN HỌC
Nguyễn Thị Minh Phương - Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương
Ngày nhận bài: 05/7/2019; ngày chỉnh sửa: 08/8/2019; ngày duyệt đăng: 16/8/2019.
Abstract: In this article, we analyze and propose a process to train comparative skills for children
in activities of familiarizing with literature which conducted in 5 steps: Listening and identifying
comparative verses; repeat comparison; conversation about comparison; say comparisons;
experience the comparison. This training process will both help children develop thinking and help
children develop language and participate in communication activities more effectively.
Keywords: Skill, comparison, preschool children, activity, literature.
1. Mở đầu
So sánh là một trong những thao tác dùng để nhận
thức thế giới, nhận thức hiện thực khách qua...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 444 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động làm quen với văn học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 36-40
36
Email: minhphuongsphn@gmail.com
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SO SÁNH CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI VĂN HỌC
Nguyễn Thị Minh Phương - Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương
Ngày nhận bài: 05/7/2019; ngày chỉnh sửa: 08/8/2019; ngày duyệt đăng: 16/8/2019.
Abstract: In this article, we analyze and propose a process to train comparative skills for children
in activities of familiarizing with literature which conducted in 5 steps: Listening and identifying
comparative verses; repeat comparison; conversation about comparison; say comparisons;
experience the comparison. This training process will both help children develop thinking and help
children develop language and participate in communication activities more effectively.
Keywords: Skill, comparison, preschool children, activity, literature.
1. Mở đầu
So sánh là một trong những thao tác dùng để nhận
thức thế giới, nhận thức hiện thực khách quan. So sánh
được sử dụng thường xuyên trong mọi hoạt động thuộc
tất cả những lĩnh vực khác nhau của đời sống thường
ngày. Ngay từ khi còn được bế ẵm trên tay cho tới khi
chập chững biết đi rồi tới trường mẫu giáo, có lẽ trẻ
không ít lần được nghe bà nói nựng, mẹ hát ru những lời
thơ, câu hát mang đậm các hình ảnh so sánh. Phần nào
đó trẻ hiểu về thế giới xung quanh qua các hình ảnh so
sánh trong lời mẹ ru, mẹ hát ấy. Như vậy, rõ ràng là
những câu nói, những cách nói so sánh trẻ đã được làm
quen từ rất sớm và không phải là quá xa lạ khi trẻ bước
chân vào trường mẫu giáo. Có lẽ không phải là quá khi
chúng ta nói rằng, thế giới trẻ thơ là thế giới của tưởng
tượng và so sánh. Qua tưởng tượng và so sánh, trẻ vừa
có thể khám phá và nhận thức về hiện thực, vừa có được
cách sử dụng so sánh sinh động, giúp cho lời nói thêm đa
dạng và giầu hình ảnh. “Chất màu” để nuôi dưỡng và
phát triển trí tưởng tượng và so sánh ấy cho trẻ chính là
những hoạt động kể chuyện, đọc thơ của cô trong nhà
trường, hay nói một cách khác chính là trong hoạt động
làm quen với văn học.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Sự khác biệt giữa rèn luyện so sánh cho trẻ trong
hoạt động làm quen với văn học với các loại hoạt động
khác
- Trong hoạt động giáo dục ở trường mầm non, có hai
loại hoạt động nâng cao kĩ năng so sánh cho trẻ một cách
hiệu quả nhất là: hoạt động khám phá môi trường xung
quanh và hoạt động làm quen với văn học. Nếu trong
hoạt động nhận thức khám phá môi trường xung quanh,
khi cần phải nhận thức một đối tượng nào đó thì trẻ được
tiếp xúc trực tiếp với đối tượng ấy. Những đối tượng đó
thường là những vật thật (cũng có thể là mẫu vật hay
tranh ảnh), trẻ được nhìn tận mắt, được sờ mó, cầm
nắm tận tay. Hay nói một cách khác, đối tượng tồn tại
trong hiện thực khách quan mà trẻ được tiếp xúc chính là
đối tượng cần phải nhận thức. Còn trong hoạt động làm
quen với văn học thì đối tượng cần nhận thức của trẻ lại
là những âm thanh, những câu chữ. Đó là những lời nói
mang nội dung trừu tượng không thể sờ mó, cầm nắm
mà chỉ có thể nhận thức thông qua suy luận, liên tưởng.
Những câu văn, câu thơ là thứ ngôn ngữ cô đọng, hàm
súc, giầu hình ảnh, nhiều tầng nghĩa, nhiều lượng thông
tin nên rất khó nắm bắt đối với trẻ.
- Trong hoạt động làm quen với văn học, trẻ được tiếp
xúc với câu văn, câu thơ để tìm hiểu về chúng và vì vậy
câu văn, câu thơ với cách thức tổ chức ngôn từ phải trở
thành đối tượng cần nhận thức. Nhưng ở đây, bản thân
việc tổ chức ngôn từ của câu văn, câu thơ ấy chưa phải là
cái đích cuối cùng của nhận thức văn học. Việc tổ chức
ngôn từ mới chỉ là phương tiện để đạt tới mục đích. Nếu
nhận thức của trẻ chỉ dừng lại ở đấy thì câu văn, câu thơ
mới chỉ có “xác” mà chưa có “hồn”, trẻ mới chỉ tiếp xúc
được với những tín hiệu vật chất mang tính kí mã của
ngôn ngữ. Bởi vậy, việc giải mã các tín hiệu ngôn ngữ ấy
để nắm bắt được nội dung kí gửi, những điều nằm sau
các câu chữ mới là điều hết sức cần thiết. Đây mới là
“phần hồn” của câu văn, câu thơ. Vì thế có thể thấy trong
hoạt động làm quen với văn học, trẻ sẽ phải có hai lần
nhận thức: lần thứ nhất (trực tiếp) là nhận thức về cách
thức tổ chức ngôn ngữ (là hình thức, mang tính vật chất)
và lần thứ hai (gián tiếp) là nhận thức về những điều mà
tác giả gửi gắm trong hình thức ấy (là nội dung, mang
tính tinh thần). Trong hai đích này thì đích nhận thức nội
dung mới là đích giữ vai trò quan trọng nhất, là cái đích
cuối cùng của hoạt động làm quen với văn học.
- Đã nói đến hoạt động làm quen với văn học là nói
đến cảm xúc, cảm nhận, sự rung động, sự liên tưởng...
Nếu điều này là xảy ra thường xuyên với trẻ khi tham gia
hoạt động làm quen với văn học thì ngược lại, điều này
lại rất ít khả năng xảy ra khi trẻ tham gia hoạt động khám
phá môi trường xung quanh. Khi nghe một câu văn, câu
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 36-40
37
thơ nào đó, mỗi người sẽ có một liên tưởng, một cảm xúc
rất khác nhau, nhiều khi trái ngược nhau. Trước một câu
văn, câu thơ, trước một sự so sánh nào đó được nghe giáo
viên (GV) đọc, trẻ có thể có thưởng thức theo cách riêng,
cảm nhận theo cái “tôi” của mình. Trẻ nhìn nhận mọi việc
xung quanh, đánh giá cái tốt, cái xấu trong đời sống theo
đúng cách cảm, cách nghĩ của cái “tôi”. Khi trải nghiệm
so sánh, trẻ có thể nói ra cái riêng của mình theo các mẫu
so sánh đã được nghe, được dạy. Cái riêng được trẻ nói
ra ấy đã làm nên chất hồn nhiên, trong sáng của trẻ. Cái
riêng ở đây không đồng nhất với cái hay, cái sáng tạo.
Cái hay, cái sáng tạo là mức cao trong thang đo giá trị
sản phẩm của hoạt động nói chung và của hoạt động
ngôn ngữ nói riêng. Hay có thể là về ý, sáng tạo có thể là
về lời, vừa hay vừa sáng tạo là đạt thang giá trị cao nhất
về việc chọn ý, tạo lời. Nếu đòi hỏi như vậy đối với cái
riêng, thì quả thật trẻ mẫu giáo khó có thể đạt được. Bởi
vậy, cái riêng trong so sánh của trẻ có thể chỉ là việc trẻ
nói lời so sánh khác với mẫu của tác phẩm, chưa đạt tới
độ chính xác cao, nhưng lại là cách cảm, cách nghĩ chỉ
có ở lứa tuổi của trẻ.
2.2. Quy trình rèn luyện kĩ năng so sánh cho trẻ trong
hoạt động làm quen với văn học (thơ ca)
Bước 1: Trẻ nghe và nhận ra câu so sánh
Mục đích: Bước này hướng đến việc giúp trẻ nghe và
nhận ra câu so sánh trong lời đọc của GV. Đây là bước
đi đầu tiên dẫn trẻ đến với văn học, đến với hoạt động so
sánh trong văn học. Vì trẻ chỉ có thể tiếp xúc với câu thơ
qua lời đọc, bởi vậy việc GV đọc là nhằm giúp trẻ hiểu
được ngôn từ và bước đầu nhận ra được nội dung bài thơ.
Cách tiến hành
- Tạo tâm thế nghe và giao nhiệm vụ cho trẻ. Để trẻ
nghe có kết quả - nghĩa là nghe hiểu được phần nào đó
nội dung và nhận ra câu so sánh - GV cần phải tạo tâm
thế nghe cho trẻ. Không phải lúc nào trẻ cũng sẵn sàng
chuyển từ dạng hoạt động này sang dạng hoạt động khác.
Trẻ rất khó chuyển nhanh, chuyển ngay tức thì từ trạng
thái vui chơi sang trạng thái học tập, từ trạng thái hoạt
động chân tay sang trạng thái hoạt động trí óc, hay hoạt
động nghe nhìn. Thường thì vì mải mê việc riêng hoặc
mải mê nói chuyện cùng bạn, hay đang thích thú với đồ
chơi nào đó, trẻ mất tập trung, không quan tâm đến việc
nghe GV đọc thơ. Bởi vậy, khoảng thời gian tạo tâm thế
này chính là khoảng thời gian đủ để GV giúp trẻ quay trở
lại, tập trung trở lại để nghe đoạn thơ GV sẽ đọc.
- Trẻ nghe đoạn thơ. Đây là bước đầu tiên của trẻ
trong hoạt động làm quen với đoạn thơ, bài thơ. Trong
hoạt động làm quen với văn học, trẻ chỉ được dùng thính
giác để tiếp nhận vỏ âm thanh - cái biểu đạt mang tính
vật chất - của tín hiệu ngôn ngữ. Do đặc điểm này mà
tính trực quan trong hoạt động làm quen với văn học của
trẻ giảm đi rất nhiều. Bởi vậy, khi đọc thơ, GV cần đọc
chậm và rõ ràng để giúp trẻ nghe rõ từng câu, từng tiếng.
Việc đọc này, GV có thể phải tiến hành tới hai hoặc ba
lần nếu như bài thơ, đoạn thơ có nội dung còn xa lạ, hoặc
âm điệu, vần điệu có phần nào đó trúc trắc, khó nghe, khó
nhớ với trẻ. Với những câu so sánh, GV có thể đọc nhấn
giọng hơn, trọng âm mạnh hơn những câu khác để lôi
kéo, thu hút được sự chú ý của trẻ. Việc đọc chậm và
nhiều lần như vậy là cơ sở để giúp trẻ hiểu được nội dung
văn bản và nhận ra câu thơ so sánh.
- Trẻ nhận ra câu so sánh. Để trẻ có thể thực hiện được
hoạt động so sánh, việc đầu tiên là trẻ phải làm quen với
mô hình so sánh, đặc biệt là phải nhận ra được câu so sánh.
Cách đơn giản và dễ nhận biết nhất đối với trẻ chính là các
từ ngữ so sánh. Bởi vậy, việc GV cần làm là giúp trẻ nhận
diện so sánh thông qua việc nhận diện từ ngữ so sánh tiêu
biểu nhất, điển dạng nhất. Đó chính là từ “như”. Hễ có từ
“như” là có so sánh. Điều này được in đậm vào nhận thức
của trẻ như một cơ sở nhận diện so sánh. Còn những từ
ngữ so sánh khác, ví dụ: “giống như, tựa như, hệt như,
tương tự như...”, dựa trên cấu trúc so sánh có “như” cũng
sẽ dần dần được trẻ tiếp nhận một cách thuận lợi. Đây là
việc nhận diện so sánh từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến
khó, từ gần gũi đến xa lạ. Có tiến hành như vậy, trẻ mới
nhận thức dễ dàng và tránh được sự mệt mỏi trong hoạt
động làm quen với so sánh. Như vậy, để trẻ có thể nhận ra
nhanh chóng và dễ dàng câu so sánh trong đoạn thơ hoặc
bài thơ, GV giúp trẻ ghi nhớ: trong câu văn, câu thơ nếu
câu nào sử dụng các từ: “như”, “giống”, “giống như”...
thì câu đó là câu so sánh.
Bước 2: Nhắc lại so sánh
Mục đích: Nếu bước 1 đơn giản chỉ là việc trẻ được
nghe và nhận ra câu so sánh trong quá trình nghe ấy thì
bước 2 lại hướng đến việc giúp trẻ nhắc lại được câu so
sánh có trong bài thơ, đoạn thơ. Để có thể tiếp tục tham
gia vào tìm hiểu so sánh, trẻ buộc phải nói lại được những
câu thơ có sử dụng phép so sánh đó để làm cơ sở cho việc
đàm thoại ở bước sau. Nếu trẻ không nhắc lại được câu
thơ, nghĩa là trẻ không nhớ câu thơ, trẻ không thể tham
gia đàm thoại, trò chuyện về chính câu thơ ấy. Bởi vậy,
việc nhắc đi nhắc lại nhiều lần những câu thơ này sẽ giúp
trẻ có điều kiện để ghi nhớ câu so sánh, nhớ những hình
ảnh hoặc cách so sánh đã được nghe đó.
Cách tiến hành
- GV gợi ý. Sau khi được nghe GV đọc đoạn thơ, trẻ
có thể không tự mình nói lại được câu so sánh có trong
đoạn thơ đó. Bởi vậy cần có sự gợi ý của GV. Ví dụ, với
bài “Trăng sáng” của Nhược Thủy trong chương trình
làm quen với văn học, GV có thể gợi ý để trẻ nhận ra so
sánh bằng các câu hỏi như sau:
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 36-40
38
+ Ai cho cô biết, câu “Trăng hồng như quả chín” có
phải là so sánh không? - Có.
+ Vì sao các con lại cho là một so sánh? - Vì có từ
“như”.
+ À, đúng rồi! Câu “Trăng hồng như quả chín” là
một câu so sánh.
Bằng cách dắt dẫn và gợi mở như vậy, GV tiếp tục
hướng dẫn trẻ tìm những câu so sánh khác trong bài thơ.
Khi trẻ tìm đủ các câu so sánh có trong bài thơ, GV sẽ
nhắc những câu so sánh ấy và sau đó cho trẻ nói lại những
câu so sánh vừa tìm được.
- GV nhắc lại các câu so sánh để trẻ nói theo. Với
những bài thơ, có nhiều lần so sánh, trẻ khó có thể nhớ
hết được những câu so sánh ấy trong khoảng thời gian
ngắn. Bởi vậy, sau khi trẻ tìm ra được những câu so sánh
ấy, GV cần nhắc lại đầy đủ tất cả những câu so sánh đó.
Việc nhắc lại các câu so sánh có trong bài thơ có thể do
GV chủ động thực hiện, nhưng cũng có thể được tiến
hành theo cách dắt dẫn, cô nói trước và trẻ sẽ nhắc lại
theo. Ví dụ, GV nói và trẻ nhắc lại: Trăng hồng như quả
chín; Trăng tròn như mắt cá; Trăng bay như quả bóng.
Hoạt động này giúp trẻ có thể thuộc những câu thơ nhanh
hơn. Tới khi trẻ đã thuộc rồi, GV nên để trẻ tự nói những
câu thơ đó. Việc GV dắt dẫn trẻ nhắc lại những câu vào
một thời điểm kết thúc hoạt động nhận diện các câu so
sánh như vậy sẽ giúp trẻ lưu giữ tốt hơn những câu thơ
này trong bộ nhớ của mình.
- Trẻ tự mình nhắc lại câu so sánh. Việc GV nhắc lại
những câu so sánh trong bài thơ là cần thiết đối với trẻ,
nhưng muốn giúp trẻ thuộc và nhận thức được so sánh,
thì hoạt động làm quen với văn học ở trường mẫu giáo
tuyệt đối không thể chỉ là hoạt động của GV. Vì thế, GV
cần cho trẻ nhắc lại, nói lại câu so sánh đó trong bài thơ.
Việc trẻ tự mình nói lại, đọc lại được những câu so sánh
như thế, một mặt vừa giúp các em nhớ thơ, thuộc thơ,
mặt khác vừa giúp các em nhận thức được về phép so
sánh một cách có chủ định, có ý thức. Và khi trẻ nhắc lại
những câu thơ này cũng chính là lúc trẻ đã thực sự tham
gia vào nhận thức về so sánh. Những lời đầu tiên, có thể
trẻ không nhắc lại hết được câu thơ, hoặc trẻ chỉ nói được
một phần câu thơ thậm chí nói sai câu thơ. Nhưng đó là
việc bình thường, không có gì đáng ngại. Bởi lẽ việc mới
làm quen với so sánh có thể khiến trẻ có những bỡ ngỡ,
chập chững ban đầu. Nhưng chỉ cần sau một vài lần luyện
tập và được GV hỗ trợ, sửa chữa, trẻ sẽ thành thạo với
hoạt động này hơn và dần dần nhắc lại, đọc lại những lời
so sánh một cách trôi chảy và rõ ràng.
Bước 3: Đàm thoại về nội dung văn bản và câu so
sánh
Mục đích: Nhằm giúp trẻ hiểu được nội dung văn
bản, hiểu được câu chữ, hình ảnh được sử dụng trong
bài thơ cũng như trong phép so sánh. Nếu không đàm
thoại với trẻ, GV sẽ không có thông tin phản hồi về việc
trẻ hiểu chính xác đến mức nào nội dung, hình ảnh, âm
thanh, vần điệu được dùng trong văn bản. Chỉ qua đàm
thoại, trò chuyện với trẻ, GV mới có thể biết trẻ còn điểm
nào nhận thức sai, không chính xác để uốn nắn, chỉnh
sửa. Tất nhiên là việc đàm thoại, trò chuyện với trẻ về bài
thơ, câu thơ, dòng thơ không chỉ là việc đàm thoại xoay
quanh phép so sánh. GV vẫn phải đàm thoại với trẻ về
những nội dung, yêu cầu theo đúng nhiệm vụ của tiết
hoạt động cho trẻ làm quen với văn học.
Cách tiến hành
- Đàm thoại về nội dung được nghe. Việc nghe của
trẻ trong hoạt động làm quen với văn học không phải chỉ
là nghe để nghe mà còn là nghe để hiểu và cảm thụ văn
bản. Chỉ khi trẻ hiểu được nội dung, trẻ mới có thể cảm
thụ được cái hay của lời văn, lời thơ được nghe. Không
hiểu được nội dung, hoặc nội dung không được trẻ nhận
thức đầy đủ thì trẻ không bao giờ có cảm xúc, không bao
giờ thích nhớ những câu văn câu thơ ấy. Chính vì vậy,
việc GV tiến hành đàm thoại với trẻ vừa là một hoạt động
giúp trẻ hiểu nội dung để từ đó cảm thụ được cái hay của
văn bản đã được nghe, mà còn vừa là hoạt động giúp trẻ
hứng thú ghi nhớ những câu văn câu thơ được học.
Những câu hỏi GV đặt ra với trẻ có thể là: Con vật, đồ
vật, hiện tượng, sự việc... nào đã được tác giả nói đến
trong bài thơ? Chúng có những đặc điểm gì nổi bật,
những hoạt động nào là đáng chú ý nhất? Bài thơ này,
tác giả muốn khuyên các con điều gì?...
- Đàm thoại về đối tượng so sánh (vế A). Để có thể
rèn luyện được cho trẻ khả năng so sánh trong hoạt động
làm quen với văn học thì việc đàm thoại không chỉ dừng
lại ở tìm hiểu nội dung thuần túy mà GV còn cần phải
tiếp tục đàm thoại với trẻ về phép so sánh được sử dụng
trong bài thơ. Hoạt động đàm thoại này thường bắt đầu
bằng việc hướng trẻ vào việc phát hiện đối tượng so sánh
(vế A). Đối tượng ấy trong cấu trúc so sánh là đối tượng
còn chưa hiểu rõ, cần phải nhận thức, bởi thế việc xác
định đối tượng A là bắt buộc.
- Đàm thoại để nhận ra chuẩn so sánh (vế B). Vế B
trong cấu trúc so sánh là vế in đậm dấu ấn về thẩm mĩ,
về cảm xúc, thái độ của tác giả đối với đối tượng được
đem ra so sánh trong vế A. Tất nhiên, ở lứa tuổi mẫu giáo,
GV chỉ cần chỉ ra tình cảm, thái độ này ở một mức độ
nào đấy mà thôi, ví dụ như: yêu, ghét, thích thú, ngợi
khen... là đủ mà không thật cần phải phân tích kĩ. Khi trẻ
tìm ra được vế B thì điều đó cũng có nghĩa là trẻ đã hiểu
được chuẩn so sánh là cái gì, con gì, vật gì, hiện tượng
gì, đáng yêu hay đáng ghét... Đây cũng là lúc trẻ sẽ hiểu
được, mặc dù trẻ không thể nói ra được thành lời, cấu
trúc cốt lõi của so sánh chính là: một đối tượng được đem
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 36-40
39
ra so sánh và một đối tượng được dùng để làm chuẩn so
sánh. Không có hai đối tượng ấy sẽ không thể có so sánh.
- Đàm thoại để trẻ nhận ra phương diện so sánh. Hai
đối tượng có thể có nhiều điểm giống nhau. Vì thế, việc
GV đưa ra điểm cần đối chiếu giữa hai đối tượng, hay
nói khác đi đưa ra phương diện cần phải so sánh, như:
màu sắc, hình dáng, kích thước... thì trẻ sẽ nhận thức dễ
dàng hơn. Với những câu hỏi dắt dẫn, trẻ có thể nhận ra
được phương diện so sánh ấy. Và khi trẻ hiểu được
phương diện so sánh là gì thì trẻ sẽ tự nhận ra rằng đối
tượng A có thể giống đối tượng B ở màu sắc nhưng
không giống ở hình dáng; giống đối tượng C ở hình dáng
nhưng không giống ở tính chất; giống đối tượng D ở tính
chất nhưng không giống đối tượng C ở hoạt động... Hoạt
động so sánh vừa giúp trẻ phát triển nhận thức vừa giúp
trẻ phát triển tư duy là như vậy.
Bước 4: Nói lời so sánh
Mục đích: Nhằm giúp trẻ rèn luyện cách chuyển so
sánh trong nhận thức của mình thành những lời nói, câu
nói cụ thể. Nói một cách khác, đây là bước chuyển nội
dung mang tính tinh thần của trẻ sang lĩnh vực ngôn ngữ
mang tính vật chất. Không phải trẻ nhận thức như thế nào
là có thể chuyển được sang ngôn ngữ một cách chính xác
như thế nấy. Giữa tư duy và ngôn ngữ vẫn có một khoảng
cách nhất định, nhất là ở thời điểm mà ở trẻ khả năng
nhận thức lại đi trước khả năng ngôn ngữ. Bởi vậy, để có
thể giúp trẻ có thể rút ngắn khoảng cách ấy, GV cần phải
rèn luyện cho trẻ cách nói so sánh. Có thể lúc đầu trẻ chưa
thật quen với hoạt động này nên khó khăn đến với trẻ
không ít. Nhưng nếu trẻ được lặp đi lặp hoạt động này từ
tiết học này sang tiết học khác, từ nói lời so sánh này sang
nói lời so sánh khác, trẻ quen dần và thực hiện hoạt động
này sẽ mắc ít lỗi hơn, sẽ thành thạo hơn.
Cách tiến hành
- Trẻ nhận diện mẫu. GV giảng giải thêm một lần nữa
để trẻ hiểu về nội dung và cách thức so sánh của từng câu
thơ. Trong bài thơ “Trăng ơi từ đâu đến ?”, khi nhìn về
màu sắc, trăng được tác giả so sánh với quả chín: “Trăng
hồng như quả chín”; còn khi nhìn về hình dáng, trăng lại
được tác giả so sánh với mắt cá:“Trăng tròn như mắt
cá”. Việc GV nói lại, đọc lại cho trẻ nghe những câu thơ
ấy chính là GV đã cung cấp cho trẻ một mẫu câu so sánh.
- Trẻ nói lại mẫu. Việc nói lại, nhắc lại vào thời điểm
này buộc trẻ phải nhắc lại đầy đủ cả dòng thơ mà không
phải chỉ là một từ hay một ngữ, vì mỗi dòng thơ như vậy
mới là một cấu trúc so sánh đầy đủ. Việc lặp đi lặp lại
câu so sánh như vậy sẽ giúp trẻ quen dần với cách cấu
trúc này. GV có thể đặt câu hỏi gợi mở để định hướng trả
lời cho trẻ: Trong bài thơ, nhà thơ đã thấy “trăng
tròn”như cái gì ? →Trăng tròn như mắt cá. Ở đây, trẻ
buộc phải nhắc lại cả câu có cấu trúc so sánh, mà không
được dùng từ ngữ “mắt cá” để trả lời vì trẻ phải nói lời
so sánh mà không phải là nói từ so sánh. Sau đó cô nhắc
lại một lần nữa câu chứa cấu trúc so sánh:“Trăng tròn
như mắt cá”. Khi trẻ nhắc lại đầy đủ câu thơ ấy, cấu trúc
ấy là trẻ đã nhận thức được mẫu so sánh và làm quen
được với cách nói lời so sánh.
- Trẻ nói theo mẫu. Khi trẻ đã nói lại được thành thạo
theo mẫu, GV nâng cao hơn yêu cầu rèn luyện. GV có thể
chỉ đưa ra vế A còn trẻ tự suy nghĩ và lựa chọn đối tượng
riêng theo ý mình trong vế B. Lúc này, trẻ không được nói
lại vế B đã có ở câu thơ mẫu mà trẻ chủ động, tự quyết
định chọn và đưa ra một đối tượng khác được dùng làm
chuẩn so sánh trong vế B. Hoạt động so sánh theo mẫu có
độ khó hơn việc nói lại mẫu. Bởi lẽ, hoạt động nói lại mẫu
chỉ cần thuộc là nói lại được. Nhưng nói theo mẫu buộc trẻ
vừa phải thuộc mẫu, vừa phải suy nghĩ, liên tưởng, lựa
chọn. Lúc này đòi hỏi trẻ phải có được một nhận thức riêng
thì mới có khả năng so sánh đúng và hay. Ví dụ, trẻ có thể
đưa ra so sánh của riêng mình, chẳng hạn như: Trăng tròn
như quả bóng, như cái mâm cơm, như một viên bi, như
một cái kẹo mút; Trăng hồng như mắt cá, như ngọn lửa,
như màu áo, như dải lụa...
- Trẻ nói sáng tạo. Đây là một hoạt động khó nhất đối
với trẻ. Để nói được những câu so sánh mang tính sáng
tạo, trẻ phải có một sự hiểu biết nhất định về môi trường
xung quanh, thuộc một số câu văn câu thơ có sử dụng so
sánh và đặc biệt là trẻ phải tích cực, chủ động suy nghĩ.
Bởi lẽ, đây là một hoạt động chỉ dựa vào mẫu đã được
nghe mà trẻ tự đưa ra một sự so sánh mới. Ví dụ, dựa vào
mẫu so sánh đã biết, cô giáo sẽ đưa ra một số câu hỏi
như: Trăng sáng như...? Trăng treo lơ lửng như...?
Trăng vàng như...? Trăng khuyết như...? Trăng đẹp
như...? để giúp trẻ nói sáng tạo. Trẻ sẽ có thể nói ra những
câu, ví dụ như: Mặt mẹ đẹp như trăng hoặc Trăng đẹp
như mặt mẹ hay Mẹ dịu dàng như ánh trăng... Những lời
nói như vậy của trẻ là lời nói sáng tạo.
Bước 5: Trải nghiệm so sánh
Mục đích: Trải nghiệm ở đây được hiểu là một hoạt
động vui chơi, tự nói câu so sánh nhằm giải tỏa sự mệt
mỏi, căng thẳng, giúp trẻ trở lại với trạng thái tự nhiên,
hồn nhiên vốn có sau những giây phút tập trung học tập.
Hoạt động vui chơi là hoạt động tự nhiên của trẻ, giúp trẻ
có một trạng thái tâm lí thoải mái, vui vẻ. Nguyên nhân
thúc đẩy trẻ tham gia trò chơi chính là sự hấp dẫn của
chính trò chơi đó chứ không phải là nhằm tới một lợi ích,
một kết quả nào đó. Có vui thì trẻ mới chơi và đã chơi là
trẻ rất vui. Hoạt động vui chơi trải nghiệm như vậy vừa
hợp với tâm lí lứa tuổi, vừa phù hợp với phương pháp
giáo dục trẻ.
Cách tiến hành
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 36-40
40
- Phổ biến luật chơi. Để tiến hành trải nghiệm như một
hoạt động giải trí, vui chơi, GV phải cho trẻ biết luật chơi.
Trong đời sống thường ngày, có thể có những trò chơi
không cần luật, mang đậm tính cá nhân, tính sở thích như:
câu cá, thả diều, nhảy dây...; nhưng nhìn chung, đã là trò
chơi mang tính tổ chức với nhiều người tham dự thì bao
giờ cũng có tính đua tranh, cũng cần luật. Tính đua tranh
sẽ giúp cho hoạt động vui chơi sôi nổi, hào hứng và vui vẻ
hơn. Bởi thế việc đầu tiên trong hoạt động tổ chức trẻ tham
gia trò chơi học tập là cần phải giải thích rõ luật chơi để trẻ
nắm được. Luật chơi đối với trẻ càng đơn giản, càng dễ
hiểu bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Tính cạnh tranh thắng
thua trong vui chơi không phải là điều quan trọng. Đối với
trẻ thì thắng hay thua đều vui vẻ cả.
- Tổ chức chơi
+ Chia nhóm. Đây là hoạt động mang tính tự nguyện,
nên GV có thể để một số trẻ tham gia, nhưng tốt nhất vẫn
là tìm cách động viên, cổ vũ các cháu để không một trẻ
nào đứng ngoài cuộc chơi này. GV chia lớp thành 3
nhóm như đã dự định. Số lượng người trong nhóm nên
tương đương nhau (phụ thuộc vào sĩ số trong lớp) nhưng
không nhất thiết phải bằng nhau. GV phân công vị trí
ngồi cho các nhóm và đặt tên cho từng nhóm.
+ Nghe và nhận diện so sánh. Các nhóm ngồi trật tự ở
vị trí của mình và nghe GV đọc. Để trẻ dễ nhận diện so
sánh và có khả năng nhắc lại được câu so sánh, GV nên
chọn đọc một bài thơ hoặc đoạn thơ vì thơ thường ngắn
gọn, dễ nhớ, dễ thuộc đối với trẻ. Mỗi lần chơi như vậy,
GV chỉ nên chọn một đoạn thơ hoặc bài thơ, mà không
nên chọn nhiều bài, nhiều đoạn một lúc. Bởi nếu chọn
nhiều đoạn, nhiều bài, số lượng câu so sánh sẽ tăng lên và
trẻ không thể nhớ hết và nhớ chính xác câu thơ so sánh
được. Lúc đó trẻ sẽ không còn hứng thú với cuộc chơi nữa.
+ Nhắc lại câu so sánh. Sau khoảng 2-3 phút dành
cho trẻ nhẩm đọc để thuộc câu so sánh, GV báo hiệu lệnh
kết thúc thời gian chuẩn bị. Lúc này các nhóm được
quyền giơ tay. Nhóm nào có trẻ giơ tay trước sẽ được nói
trước. Nếu trẻ nói đúng, thì nhóm của trẻ ấy là nhóm
giành chiến thắng. Cuộc chơi thứ nhất sẽ kết thúc và trẻ
chuyển sang cuộc chơi thứ hai. Còn nếu trẻ nói sai, thì
cuộc chơi chưa dừng lại. GV tiếp tục dùng hiệu lệnh để
các nhóm giơ tay. Cuộc chơi cứ diễn ra như vậy cho tới
lúc có trẻ nói chính xác câu thơ đã được nghe đọc thì
dừng lại và chuyển sang cuộc chơi với đoạn thơ khác.
+ Kết thúc trò chơi
Mỗi lần chơi như vậy, GV có thể tổ chức một cuộc
chơi nhưng cũng có thể tổ chức hai hoặc thậm chí ba cuộc
chơi. Điều này tùy thuộc vào thời gian của tiết học và
thời lượng dành cho mỗi cuộc chơi. Sau mỗi cuộc chơi
ấy, GV có thể nêu tên nhóm thắng cuộc. GV ngợi khen
đội thắng, người thắng và động viên các nhóm khác.
Nhưng nếu GV tổ chức nhiều cuộc chơi thì cũng có thể,
sau khi kết thúc tất cả các cuộc chơi ấy, GV mới tuyên
bố nhóm thắng cuộc và tên những trẻ đem lại phần thắng
cho nhóm.
3. Kết luận
Việc rèn luyện cho trẻ năng lực so sánh trong những
tiết hoạt động làm quen với văn học sẽ được tiến hành
theo trình tự 5 bước: Nghe và nhận diện câu thơ so sánh;
nhắc lại so sánh; đàm thoại về so sánh; nói lời so sánh
và tham gia trò chơi so sánh. Mỗi bước đi trong quy trình
này sẽ giúp trẻ có được những nhận thức cơ bản, những
hiểu biết tối thiểu trẻ có thể tham gia hoạt động được
trong các bước tiếp theo. Trong quá trình rèn luyện ấy,
bước đi này sẽ làm nền cho bước đi khác, làm cơ sở để
cho bước tiếp sau được thực hiện một cách chắc chắn,
hiệu quả. Việc rèn luyện chia thành 5 bước như trên chủ
yếu mang tính “kĩ thuật”, tính chỉ dẫn sư phạm trong hoạt
động giúp trẻ làm quen với văn học, trong đó có hoạt
động so sánh. Nhưng khi trẻ đã thành thạo với hoạt động
so sánh này, thì tùy thuộc vào năng lực của trẻ và dụng ý
của GV mà những bước này có thể bị “mờ” đi hoặc lược
bớt nhưng kết quả học tập của trẻ vẫn có thể đảm bảo.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD-ĐT (2017). Chương trình giáo dục mầm
non.
[2] Hà Nguyễn Kim Giang (2009). Phương pháp tổ
chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
NXB Giáo dục Việt Nam.
[3] Nguyễn Cẩm Giang - Phạm Thị Thu (2015). Tuyển
chọn thơ, truyện cho trẻ mầm non. NXB Văn học.
[4] Lã Thị Bắc Lý (2012). Văn học thiếu nhi với giáo dục
trẻ em lứa tuổi mầm non. NXB Đại học Sư phạm.
[5] Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) - Nguyễn Thị Như
Mai - Đinh thị Kim Thoa (2015). Tâm lí học trẻ em
lứa tuổi mầm non từ lọt lòng đến 6 tuổi. NXB Đại
học Sư phạm
[6] Lã Thị Bắc Lý (2012). Giáo trình văn học thiếu nhi
và đọc, kể diễn cảm. NXB Giáo dục Việt Nam.
[7] Barbara C. Lust (2006). Child Language:
Acquisition and Growth. Cambridge University
Press, UK.
[8] Caroline Rowland (2014). Understanding Child
Language Acquisition. Routlege: Taylors & Francis
Group, London, UK.
[9] Davood Mashhadi Heidar (2012), First Language
Acquisition: Psychological Considerations and
Epistemology. Theory and Practice in Language
Studies, Vol. 2, No. 2, pp. 411-416, February 2012,
Academy Publisher Manufactured in Finland.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 07nguyen_thi_minh_phuong_2272_2207962.pdf