Quốc dân tính Trung Hoa qua cái nhìn của Dư Hoa trong tiểu thuyết Huynh Đệ

Tài liệu Quốc dân tính Trung Hoa qua cái nhìn của Dư Hoa trong tiểu thuyết Huynh Đệ: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 23 (48) - Thaùng 12/2016 148 Quốc dân tính Trung Hoa qua cái nhìn của Dư Hoa trong tiểu thuyết Huynh Đệ Chinese national character in the novel Brothers by Yu Hua ThS. Nguyễn Thị Hoài Thu Trường Đại học Vinh Nguyen Thi Hoai Thu, M.A., Vinh University Tóm tắt Quốc dân tính là vấn đề lớn được nhiều nhà văn Trung Quốc quan tâm. Với tiểu thuyết Huynh đệ, Dư Hoa đã chỉ ra các nhược điểm trong tính cách Trung Hoa: tâm lý nô lệ, thói vô cảm, lòng mê cuồng bạo lực, lối sống bị chi phối bởi bản năng. Việc phanh phui những căn bệnh tinh thần ấy trong quốc dân là ý thức phản tỉnh cần thiết để hướng đến sự phát triển bền vững của một nền văn hóa. Từ khóa: Huynh đệ, Dư Hoa, quốc dân tính Trung Hoa, vô cảm, bạo lực, tâm lý nô lệ, bản năng. Abstract National character is a big topic that has been discussed by many Chinese writers. In the novel Brothers, Yu Hua points out defects in Chinese national character such as slavish...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 470 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quốc dân tính Trung Hoa qua cái nhìn của Dư Hoa trong tiểu thuyết Huynh Đệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 23 (48) - Thaùng 12/2016 148 Quốc dân tính Trung Hoa qua cái nhìn của Dư Hoa trong tiểu thuyết Huynh Đệ Chinese national character in the novel Brothers by Yu Hua ThS. Nguyễn Thị Hoài Thu Trường Đại học Vinh Nguyen Thi Hoai Thu, M.A., Vinh University Tóm tắt Quốc dân tính là vấn đề lớn được nhiều nhà văn Trung Quốc quan tâm. Với tiểu thuyết Huynh đệ, Dư Hoa đã chỉ ra các nhược điểm trong tính cách Trung Hoa: tâm lý nô lệ, thói vô cảm, lòng mê cuồng bạo lực, lối sống bị chi phối bởi bản năng. Việc phanh phui những căn bệnh tinh thần ấy trong quốc dân là ý thức phản tỉnh cần thiết để hướng đến sự phát triển bền vững của một nền văn hóa. Từ khóa: Huynh đệ, Dư Hoa, quốc dân tính Trung Hoa, vô cảm, bạo lực, tâm lý nô lệ, bản năng. Abstract National character is a big topic that has been discussed by many Chinese writers. In the novel Brothers, Yu Hua points out defects in Chinese national character such as slavish mind, insensibility, passion for violence, and instinctive lifestyle. By exposing the mental illness of his national people, Yu Hua makes a necessary conscious reflection to build a stable development for the national culture. Keywords: Brothers, Yu Hua, Chinese national character, slavish mind, insensibility, violence, instinct. 1. Quốc dân tính Trung Hoa là vấn đề được Lỗ Tấn chính thức đặt ra từ những năm đầu thế kỉ XX. Nó tiếp tục được các nhà văn và các nhà văn hóa thế hệ sau đào sâu suy ngẫm. Trong đó, Dư Hoa là nhà văn được coi là “người kế thừa và phát triển tinh thần Lỗ Tấn tiêu biểu nhất” (Lý Cật). Dư Hoa sinh năm 1960 tại Chiết Giang, là nhà văn nổi lên trong trào lưu tiểu thuyết tiên phong những năm 80 của thế kỉ trước và hiện nay được biết đến như một trong những nhà văn lớn, tài ba bậc nhất ở Trung Hoa đại lục. Năm 2005, 2006, hai tập tiểu thuyết Huynh đệ lần lượt được xuất bản đã gây chấn động dư luận và tạo ra nhiều sóng gió trên văn đàn. Tác phẩm với 40 vạn chữ đã dựng lên một thời kì động loạn 40 năm, từ Cách mạng Văn hóa đến thời cải cách mở cửa. Cuốn tiểu thuyết là sự tiếp nối ý thức phản tỉnh về tính cách dân tộc vốn được khơi nguồn từ Cách mạng Ngũ tứ 1919. 2. Góc nhìn nghệ thuật độc đáo là thành tựu nổi bật nhất của Dư Hoa ở tác phẩm này. Từ những năm 80 của thế kỉ XX, văn học Trung Hoa bước vào thời kì mới với việc cởi bỏ một số rào cản, khai mở một số “vùng cấm kị”, nhiều trào lưu văn học mới ra đời. Trong rừng văn chương ấy, Huynh đệ của Dư Hoa chiếm một cõi riêng bởi cái nhìn nghiêm khắc của tác giả đối với hiện thực lắm nghịch 149 cảnh oái oăm. Tác giả không dừng lại ở việc khắc họa con người - nạn nhân như một số nhà văn khác, mà trong con mắt ông, con người với những bệnh trạng tinh thần, không chỉ khiến họ dễ dàng trở thành nạn nhân của lịch sử mà còn là tội nhân, tự dồn đẩy nhau đến bước đường cùng. Họ đã tiếp tay nối dài những sai lầm lịch sử, khoét sâu thêm vết thương trong lòng dân tộc Trung Hoa. Cái nhìn nghiêm khắc có phần lạnh lùng đó là sợi dây kết nối quan trọng của hai tập truyện vốn có đề tài tương đối độc lập. Như đã nói, tiểu thuyết Huynh đệ gồm hai tập, tập một lấy bối cảnh là cuộc Cách mạng Văn hóa 1966 – 1976, tập hai lấy bối cảnh là thời kì cải cách mở cửa, phát triển kinh tế thị trường ở Trung Quốc. Sự độc lập tương đối về mặt đề tài khiến hai tập truyện có thể tách ra thành hai tác phẩm riêng biệt. Tuy nhiên, Dư Hoa để chúng liên kết với nhau trong một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất. Không nhìn cuộc sống đương đại như một phiến đoạn cắt rời khỏi quá khứ, Dư Hoa nhìn nó trong mối quan hệ đặc biệt với lịch sử, ở đó vừa có những điểm đứt gãy, vừa có những dòng chảy liên tục. Hai tập truyện tái hiện hai thái cực của cuộc sống: một bên là cuộc sống ức chế đến ngột ngạt, bạo lực đến rợn người, quyền tự do bị tước bỏ, mỗi con người chỉ biết cúi đầu vâng dạ, một bên là cuộc sống cởi mở, tự do, mỗi người đều có vũ đài của mình để lên tiếng, thế nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ thống nhất và nhân quả. Hai hình thái cuộc sống thoạt nhìn là đối lập nhưng về bản chất lại giống nhau đến khủng khiếp: đều là cuộc sống của những “nô lệ” và những con người “muốn làm nô lệ nhưng không được” [5, 73] - con người từ chỗ nô lệ cho quyền lực chính trị trở thành nô lệ cho đồng tiền và tình dục. Trong Cách mạng Văn hóa, người dân thị trấn Lưu sùng bái Mao Trạch Đông. Họ “đeo huy hiệu đỏ Mao chủ tịch ở ngực, tay cầm quyển bìa đỏ in những lời dạy của Mao chủ tịch” [1, 139] và xem lời dạy của Mao chủ tịch là chân lý. Trong thời kì mới, người họ tôn thờ là Lý Trọc - một kẻ giàu có và dâm đãng “ngoài tiền và đàn bà, không biết cái gì khác” [2, 393]. Người dân thị trấn Lưu hôm nay ra phố không còn cầm sách bìa đỏ, không còn mở miệng là “Mao chủ tịch nói” nhưng từ chủ tịch huyện đến công nhân nhà máy, từ đàn ông đến đàn bà, từ người già đến trẻ con,quần áo trên người đều là sản phẩm của Lý Trọc, nhà ở đều do Lý Trọc khai phá xây dựng, hoa quả rau xanh cũng do Lý Trọc cung cấp Đặc biệt, hình ảnh Lý Trọc “mặt mày hớn hở đi ra khỏi toà án trong tiếng hoan hô của dân chúng. Trước khi chui vào xe con San ta na của mình, anh ta còn quay người vẫy chào bà con đang hoan hô. Sau khi vào trong xe, anh ta còn quay kính cửa sổ xe xuống, lúc xe chạy, anh ta vẫn vẫy tay với dân chúng” [2, 403] - một “Mao Trạch Đông” tái sinh tại thị trấn Lưu! Lòng sùng kính tựa hồ không thay đổi, cái thay đổi chỉ là hình mẫu của lòng sùng kính ấy mà thôi. Cùng với sự thay đổi đó, người dân của thị trấn Lưu đã lấy nhiệt tình kiếm tiền, nhiệt tình làm tình thay thế cho nhiệt tình cách mạng. Trong đám đông đã từng hưởng ứng Cách mạng Văn hóa “đi trên phố lớn hò hét và ca hát như những đàn chó to chó nhỏ” [1, tr. 139], đỏ mặt tía tai hô vang những khẩu hiệu cách mạng thuở ấy, bây giờ đã có một Lý Trọc trọc phú, một ông Vương phó tổng giám đốc tiền nhiều đếm không xuể, một ông Dư cổ đông kiêm ủy viên Hội đồng quản trị rất giàu có đi du lịch khắp nơi ở Trung Quốc và trên thế giới, một ông Đồng tổng giám đốc của chuỗi siêu thị liên hoàn, một Lưu phó tổng giám đốc bận trăm công nghìn việc Thị 150 trấn Lưu xinh đẹp vốn yên bình từng bị náo loạn bởi những cuộc đấu tố đẫm máu, bởi những cái chết phi lý thì nay lại náo nhiệt bởi phố đèn đỏ, bởi ba ngàn cô gái mặc áo tắm ưỡn ngực vẹo lưng diễu phố, bởi quảng cáo công nghệ gắn màng trinh “rợp trời kín đất” Trung Quốc thực đã bước từ một thời đại hoang đường này đến một thời đại hoang đường khác. Mang nặng tâm lý nô lệ, nhân vật trong Huynh đệ vì thế thường thụ động, nhanh chóng khuất phục trước hoàn cảnh. Các nhà văn trong dòng văn học vết thương Trung Quốc với nhiều tác phẩm xuất sắc đã khắc sâu nỗi bi thảm của những kiếp người không được làm chủ số phận, không được thực hiện những nhu cầu cá nhân bé nhỏ nhất, thậm chí cả quyền “làm một sinh vật giống đực” cũng bị tước bỏ (Một nửa đàn ông là đàn bà – Trương Hiền Lượng). Nhưng đây đó ta vẫn thấy ý thức vươn lên từ cuộc sống tối tăm, cố gắng thay đổi hoàn cảnh để được tận hưởng nhiều hơn (như nhân vật trong Những người đàn bà tắm của Thiết Ngưng), hay trong hoàn cảnh bi đát họ vẫn giữ được phẩm cách trong sáng, hướng thiện của người trí thức (Ngân thành cố sự của Lý Nhuệ). Trái lại, trong Huynh đệ, trước những biến cố của thời đại tác động nghiêm trọng đến quyền tự do, con người hầu như không hề có một hành động phản kháng quyết liệt nào. Khi cuộc đại Cách mạng Văn hóa nổ ra, trên phố lớn của thị trấn Lưu, “bắt đầu đông nghìn nghịt, ngày nào cũng có dòng người diễu phố đi qua đi lại”, những kẻ đội mũ chóp cao và đeo biển gỗ bị người đi đường tát vào mặt, nhổ bọt, xì mũi vào cổ, đái vào thân “mà không dám nói, cũng không dám liếc nhìn,lại còn yêu cầu người ta giơ tay tát vào mặt mình, lại còn yêu cầu người ta hô khẩu hiệu chửi mình, chửi mình rồi, còn yêu cầu họ chửi tổ tông” [1, 140] Các nhân vật chạy theo đám đông, mỗi người hô cao khẩu hiệu cách mạng của riêng mình. Ngay cả Tống Phàm Bình, con người phi phàm này cũng không phải ngoại lệ khi sung sướng phất cao lá cờ dẫn dắt đám đông diễu hành mà không hề biết nay mai mình bị chính đám đông ấy hành hạ. Người đàn ông to lớn với cú rê chân càn quét “thần sầu” và cú đấm chết người ấy cũng phải im lặng nín nhịn trước lũ tiểu hồng vệ binh, một con người chưa bao giờ biết khuất phục phải quỳ xuống van xin, và cuối cùng bị chính những kẻ đeo băng đỏ giày xéo cho đến chết ở đầu đường. Hành động trốn trại và chống trả ở bến xe của Tống Phàm Bình không phải nhằm mục đích tự giải phóng mà chỉ để giữ lời hứa với vợ, và nếu như được phép, sau khi đón được Lý Lan, chắc chắn Tống Phàm Bình sẽ lại ngoan ngoãn vào trại như trước. Hành động quyết liệt lăn xả vào đám hồng vệ binh của bố Tôn Vĩ sau khi chứng kiến cái chết của con trai cũng là hành động bột phát thoáng chốc, sau đó cũng nhanh chóng “trở về trạng thái vâng vâng dạ dạ thường ngày” [1, 343]. Đám đông nhân vật bị biến thành những cỗ máy, mọi hoạt động đã được lập trình và con người chỉ còn cần tuân theo một cách lố bịch. Dễ dàng trở thành con rối trong tay nhà cầm quyền phải chăng là bởi trong vô thức, người dân Trung Quốc đã quen với cuộc sống bị giật dây, như Lỗ Tấn đã từng khái quát, trong lịch sử “người Trung Quốc chưa hề giành được cái giá trị của con người” [5, 73], họ chỉ mang tính cách nô lệ hay “gia súc tính”. Lịch sử nhẫn nại ba ngàn năm”[4] đã làm thui chột năng lực phản kháng, khiến họ rúm ró thảm hại trong nỗi sợ hãi cường quyền. Hay trong ý thức, họ hiểu sâu sắc một điều rằng, trước sức mạnh của quyền uy chính trị, có quẫy đạp cũng vô ích, một khi rơi vào hoàn cảnh 151 bi đát là đồng nghĩa với bước đường cùng? Con người đã thực sự vỡ mộng trước những nỗ lực chống lại hệ thống, trước cuộc truy tìm vô ích và vô vọng những mục đích không bao giờ đạt tới. Nếu trong Cách mạng văn hóa, con người quy phục trước bạo lực thì trong thời kinh tế thị trường, con người quy phục trước sức mạnh của đồng tiền và đời sống bản năng. Trước sức mạnh của đồng tiền và sự cám dỗ của dục vọng, không ít kẻ đã bị tha hóa. Một Tống Cương thương em hết mực, sẵn sàng lấy cái chết để đổi lấy hạnh phúc cho đứa em, cuối cùng vì hai hào bạc mà cắt đứt mối thâm tình; một Tống Cương hiền lành chất phác vì mưu sinh mà phẫu thuật cấy ngực giả, trở thành kẻ lừa đảo bán thuốc kích thích dương vật và kem phồng vú. Một Lâm Hồng vốn là “thiếu nữ ngây thơ trong trắng dễ xấu hổ, một cô gái ngọt ngào khi tình yêu chớm nở, một người vợ hiền lành nết na trong tim chỉ có Tống Cương”, vì đời sống xô đẩy mà trở thành một “người tình điên cuồng làm tình điên cuồng ba tháng với Lý Trọc” [2. tr. 665], và sau đó là chị Lâm lẳng lơ trong vai trò của một tú bà hiện đại. Anh Đồng thợ rèn khi xưa tát Lý Trọc một cái như búa bổ vì thằng bé làm mất mặt anh ta sau khi nhòm trộm mông vợ mình, vốn dĩ ngông nghênh, ngạo mạn với vợ, giờ “vâng vâng dạ dạ” trước mặt vợ bởi được bà Đồng thân chinh dẫn đi tìm gái đẹp vào tất cả các ngày lễ, ngày tết của Trung Quốc và nước ngoài (chợt giật mình vì cái cúi đầu vâng dạ của ông Đồng lực lưỡng ở đây sao giống với cái cúi đầu ngoan ngoãn của bao con người trước lũ hồng vệ binh đến thế). Bị cuốn vào vòng xoáy đó, Tiểu Quan mài kéo hiền lành cũng từ bỏ gia đình lên đường vật lộn với cuộc mưu sinh trước cái nhìn xót xa của người cha già. Bởi vậy mà chẳng chờ đến khi tử biệt, người chồng đã mất vợ, người vợ đã mất chồng, cha mẹ đã mất con, anh em đã mất nhau. Cách mạng Văn hóa từng khiến ta phải rợn tóc gáy vì sự tàn phá dã man của bạo lực, nay thời hiện đại cũng khiến ta không tránh khỏi cảm giác rùng mình ghê rợn vì sự mục ruỗng của hồn người. Nhân vật dễ dàng gục ngã bởi sức cám dỗ của đồng tiền và dục tính quá mạnh mẽ, bởi sức công phá của thời buổi kinh tế thị trường quá dữ dội hay bởi tâm lý nô lệ truyền đời, thói chạy theo đám đông đã làm suy giảm nghiêm trọng sức đề kháng của con người? Sức chống đỡ yếu ớt của con người chính là môi trường dung dưỡng, tạo cơ hội cho cái xấu, cái ác sinh sôi. 3. Sự bạc nhược của tâm lý nô lệ dường như là điểm khởi đầu cho những bệnh trạng tinh thần khác. Đó là sự vô cảm đến tàn nhẫn, thói chạy theo đám đông, lòng mê cuồng bạo lực, sự chi phối của đời sống bản năng. Tất cả khiến cho con người mất đi khả năng tri nhận thông thường, hành động như con rối, và đôi khi mất tính người mà nhe nanh giơ vuốt như thú vật. Trong Huynh đệ, con người vì thế trở nên vô cùng bi thảm và giá trị con người bị thử thách hết sức khắc nghiệt. Dưới cái nhìn của Dư Hoa, ở xứ sở khai sinh ra nghệ thuật kinh kịch này, con người vẫn luôn xem bất hạnh của kẻ khác là vở kịch mua vui cho bản thân mình. Tưởng chừng những đám đông vô cảm với sở thích xem chém đầu người trong các tác phẩm Lỗ Tấn đều lũ lượt tụ hội về trong Huynh đệ của Dư Hoa. Đó là đám đông thờ ơ trước cái chết của Tống Phàm Bình, là đám đông “cười rộ lên” trước câu hỏi thương tâm của hai đứa trẻ bơ vơ, là đám người “xúm lại rất đông” xem hai đứa trẻ khóc cha, là đám đông “xúm quanh chiếc xe chở xác người, như đàn ruồi bâu quanh Tống Phàm Bình”, là đám người vây quanh 152 Lý Lan đang tìm nhặt những hạt đất dính máu của chồng và kể cho cô nghe Tống Phàm Bình bị đánh chết như thế nào mà mỗi câu họ kể lại lại khiến chị run lên cầm cập, là bầy người “đứng chật kín cửa” xem Tống Phàm Bình bị đập vỡ đùi gối để bỏ vào quan tài vừa “bàn tán ầm ĩ”, Sự vô cảm đến độc ác khiến bà Tô phải thốt lên: “Các người thật quá quắt, không còn là người nữa!” [1, 298]. Sau này, đám đông thích xem kịch ấy lại vây quanh Lý Trọc ở tòa án, đứng chật đường xem gái trinh, rồi dòm ngó khi Lâm Hồng chui vào xe Lý Trọc Cuộc sống cứ như những vở kịch “li kì cổ quái” tạo ra vô vàn lớp khán giả vô tâm và chính vì được cổ vũ bởi đám đông hiếu kì mà những vở kịch vô nhân đạo cứ nối nhau tiếp diễn. Vòng luẩn quẩn đó khiến sự vô cảm, lạnh lùng dường như đã trở thành một thuộc tính bản chất của con người Trung Hoa, khó thay đổi, khó cải tạo. Tâm lý nô lệ, chạy theo đám đông khi kết hợp với nhiệt tình chính trị của thời đại Cách mạng Văn hóa tạo nên một thế giới bạo lực đẫm máu, khi kết hợp với nhiệt tình kiếm tiền và làm tình của thời kì cải cách mở cửa lại tạo nên một thời đại thiên biến vạn hóa. Một trong những nguyên nhân khiến Trung Quốc những năm 60 của thế kỉ trước trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng là bởi con người trong thời đại đó đang trong cơn say máu bạo lực. Cùng với cái sục sôi, náo nhiệt của đoàn người diễu hành và các khẩu hiệu cách mạng được hô vang là những cuộc đấu tố, tra tấn, đánh giết đẫm máu. Như con rắn quấn lấy trí não của người đọc sau khi gấp trang sách cuối cùng của Huynh đệ, những cái chết thảm khốc thực sự khiến ta bị ám ảnh mạnh mẽ. Đó là cái chết của Tôn Vĩ: “Mấy tên hồng vệ binh khỏe mạnh, cậy sức, đè Tôn Vĩ ra đất, lấy tông đơ dũi bỏ mái tóc dài xinh đẹp của hắn Chiếc tông đơ trượt khỏi đầu Tôn Vĩ, cắm phập vào cổ, máu tươi tóe ra nhuộm đỏ tông đơ, máu trong động mạch phun ra, cao tới hơn hai mét”. Bố Tôn Vĩ quỳ trên bãi máu đầm đìa, ôm chặt con, “đầu con ông lủng lẳng như sắp đứt” [1, 342]. Chính ông sau đó cũng không chịu nổi sự hành hạ về thể xác và cú sốc tinh thần mà đóng đinh vào đầu tự sát. Thê thảm hơn là cái chết của Tống Phàm Bình. Anh ta bị mười một tên hồng vệ binh đánh đập khiến cho thân thể “chỗ nào cũng phun ra máu tươi như bị dò thủng người bê bết máu, nằm sõng xoài trên bãi trống trước bến xe” [1, 258]. Con người Tống Phàm Bình anh hùng, phi phàm trong mọi hành động lúc sống, vậy mà trước khi đi vào cõi chết, linh hồn anh đã bị một đòn chí mạng, trở thành kẻ tội đồ bị xã hội phỉ nhổ. Không chỉ vậy, thể xác anh trước khi vùi xuống đất lạnh cũng không thể vẹn nguyên theo đúng nghĩa đen của nó: cái xác to lớn phải bị “chặt đùi gối, bẻ cong bắp chân” mới có thể nằm gọn vào trong quan tài. Để vừa vặn vào cái khuôn khổ nhỏ hẹp cuối cùng ấy, sao với Tống Phàm Bình lại khó khăn và đau đớn đến thế! Tác giả đã không kìm nổi sự bi phẫn mà liên tiếp so sánh lũ hồng vệ binh với “súc vật”, “thú hoang”, “lũ lang sói hổ báo” Sau khi giết người man rợ, chúng “lau mồ hôi, khải hoàn ra về” [1, 256]. Một đám đông mang não trạng thấp kém nhưng khả năng hành động và sức phá hủy của nó thì không hề nhỏ. Ở đây, biệt tài hòa trộn các cặp mâu thuẫn của Dư Hoa đã phát huy hiệu quả cao độ. Tác giả diễn tả hiện thực mà người trong cuộc cho là “linh thiêng” bằng thứ ngôn ngữ hài hước, lại miêu tả cái ấu trĩ bằng thứ ngôn ngữ hết sức nghiêm trang, đặt cái độc ác, thú tính của con người bên cạnh tình yêu thương cha con, vợ chồng nồng ấm. Các màu sắc đối lập 153 khiến cho bản chất vô văn hóa của một cuộc Cách mạng Văn hóa lộ rõ mồn một. Trong đó đáng chú ý có hình ảnh cậu bé Lý Trọc chưa đầy tám tuổi vừa “cưỡng dâm” cột điện đến đỏ bừng mặt vừa giơ nắm đấm tí tẹo của mình hô “vạn tuế” và “đả đảo” dường như chẳng ăn nhập với cái không khí hừng hực của đội ngũ diễu hành của đại Cách mạng Văn hóa. Thực chất, Lý Trọc như hình ảnh thu nhỏ của một xã hội đang trong cơn cuồng phát bản năng và thú tính, của cuộc thủ dâm tinh thần được thực hiện bởi cả xã hội Trung Hoa thời Cách mạng Văn hóa. Nó diễn ra một cách ấu trĩ, lộ liễu, công khai và cũng như nhận thức của Lý Trọc: không những cảm thấy xấu hổ cần che giấu mà ngược lại, lại cảm thấy tự hào, hãnh diện về nó. Trong cơn khoái cảm của cuộc thủ dâm, cả xã hội sung sướng mãn nguyện trước những tội ác dã man mà họ gây ra. Một thân thể đang lở loét bởi những ung nhọt nhưng nỗi đau đó không được người trong cuộc ý thức bởi cả xã hội được gây tê bởi đại mỹ từ: “Đại Cách mạng Văn hóa”. Quần thể này khiến ta liên tưởng đến đám đông điên rồ ám ảnh trong giấc mơ về ngày tận thế của nhân vật Raskolnikov (Tội ác và hình phạt của F.M.Dostoevsky) mà trong đó mỗi người tự cho mình nắm vững chân lý, họ vốn muốn tụ họp nhau thành một đạo quân đi chinh chiến nhưng cuối cùng lại quay ra cắn xé và ăn thịt lẫn nhau. Trung Quốc những năm 60 của thế kỉ XX đã trải qua một cơn mê sảng tập thể mà hậu quả của nó kéo dài mãi cho đến thời hiện đại. Huynh đệ của Dư Hoa vì thế tràn ngập những dấu ấn được ông gọi là “cơn thịnh nộ chống lại thế giới” - một phản ứng đối với sự tàn bạo vô tận mà nhà văn từng chứng kiến trong cuộc cách mạng văn hoá. Ở đây, Dư Hoa như một giáo viên tổng kết lịch sử bạo lực của đất nước Trung Hoa. Bản chất dã man của một xã hội văn minh được phơi bày thông qua diễn trình của bạo lực này. Thời kì thiên hình vạn trạng của cải cách mở cửa thực chất cũng là một biến thể tinh vi của cơn mê sảng tập thể. Thay thế bạo lực công khai là muôn vàn hình thức lừa đảo bủa vây con người: quan chức lừa đảo, thương nhân lừa đảo, báo chí lừa đảo, gái trinh lừa đảo, màng trinh giả, thuốc bảo vệ sức khỏe giả, di vật Tống Cương giả Cùng là hai quả dưa trên một dây dưa, nhưng thời đại cấm dục đã khiến “mông đít già” - bố đẻ Lý Trọc chết ngập trong hố phân khi nhòm trộm mông đàn bà, thì thời đại túng dục và lừa đảo lại khiến “mông đít non” - Lý Trọc như cá gặp nước, trở thành chủ tể. Với những vị chủ tể này, xã hội lâm vào tình trạng loạn giá trị, thiếu chuẩn mực. Trong xã hội nhiều cạm bẫy và thiếu chuẩn mực đó, con người càng trở nên hoang mang hơn bao giờ hết. Bi kịch của gia đình họ Tống lại tiếp tục bởi cái chết bi thảm của người con Tống Cương. Tống Cương chết, trên người “không có một chút vết máu, bánh tàu hỏa cán trên lưng anh, quần áo không bị cán rách. Nhưng người anh bị đứt đôi. Lúc mười một giờ khuya, Tống Cương được hai người ở cạnh đường sắt lấy xe bò chở về cửa nhà mình” [2, 647]. Cái chết của hai cha con có sự trùng lặp đến kỳ lạ. Cái chết của Tống Cương như một sự chiếu ứng với cái chết của người cha Tống Phàm Bình. Hai con người, hai thế hệ ở hai thời đại khác biệt nhưng đều chết nơi đầu đường xó chợ: một người chết ở bến xe, một người chết trên đường ray tàu hỏa, hai thân thể bấy nát đó đều được bỏ lên xe bò chở về nhà, nỗi đau đớn cào xé trong tim không thể cất thành lời của Lý Lan khi lau thân thể đầy vết thương của chồng một lần nữa lại được tái hiện nơi Lâm Hồng. Cái khác 154 giữa hai cái chết là ở chỗ người cha bị người ta đánh chết, còn người con tự sát, trong khi Tống Phàm Bình gặp nạn thì Lý Lan ở nơi xa đang thương nhớ khôn nguôi, còn trong khi Tống Cương nằm trên đường ray chờ đoàn tàu đi tới thì Lâm Hồng đang lên cơn cực khoái với người tình. Tống Cương không còn sống trong thời kì chém giết đẫm máu, không còn bị hành hạ bởi bạo lực nhưng thể xác và tâm hồn anh vẫn bầm dập, nát tan bởi chính sức mạnh gớm ghê của cái xã hội chạy theo dục vọng và đồng tiền. Tự sát chỉ là bước đi cuối cùng của cuộc đời bế tắc. Ngày Tống Cương thất nghiệp, rồi làm thuê bán mạng tại bến cảng chỉ để đổi lấy một số tiền ít ỏi, anh đã đi bước đầu tiên trên con đường dẫn đến huyệt mộ. Hóa ra trong xã hội đương đại, tuy không còn bạo lực nhưng khả năng sát thương của nó còn đáng sợ hơn nhiều lần thời đại trước. Đây đều là cái chết của những con người “muốn làm nô lệ nhưng không được”, của những cá thể sinh vật chẳng thể thích nghi với cuộc sống của đồng loại. Và đó đâu đơn giản chỉ là cái chết của thể xác mà chính là sự tận diệt về số phận, về bản thể người. Phút trầm tư của Lý Trọc khi nhìn tro xương của người huynh đệ: “Một cái cây bé tí tẹo đốt thành tro, cũng còn nhiều hơn tro xương của Tống Cương” [1, 10] khiến chúng ta xa xót về sự bé nhỏ và vô nghĩa của phận người. 4. Với Huynh đệ, Dư Hoa đã chọn con đường ngắn nhất để đến với trái tim độc giả. Ông chẳng quanh co mà tác động thẳng đến cảm xúc con người bằng những hình ảnh hết sức ám ảnh, găm vào trí óc người đọc những cảnh tượng kì dị nhưng lại thật hơn cả sự thật. Có thể mượn cách nói của nhà văn khi nhận xét lối kể chuyện của Lỗ Tấn để nói rằng: văn của Dư Hoa “khi đạt đến hiện thực, nhanh mạnh như thể một viên đạn xuyên qua chứ không lưu giữ lại trong thân thể” [3] – đi cùng với nỗi đau đớn tột cùng là cảm giác trống rỗng, vô nghĩa. Với những mảng hiện thực gai góc được tái hiện trong Huynh đệ, Dư Hoa đã bước tiếp trên con đường mà người thầy thuốc tinh thần xuất sắc của phong trào Ngũ tứ đã đi: không chỉ tái hiện nỗi đau của con người mà còn phanh phui những “ung nhọt” của quốc dân để từ đó mong muốn tái thiết lại cấu trúc căn bản của văn hóa Trung Quốc. Cũng như nhà văn đồng hương của mình, cái nhìn của Dư Hoa có phần bi quan, khắc nghiệt nhưng đó là ý thức phản tỉnh cần thiết để hướng đến sự phát triển bền vững của văn hóa. Hơn nữa, trong thế giới tàn nhẫn, đầy tai ương và đổ vỡ này, ta vẫn cảm nhận được hơi ấm tình người đang lan tỏa. Đó là tình vợ chồng, tình phụ tử, tình mẫu tử, tình huynh đệ, tình làng xóm Dư Hoa đã khơi lên một cảm xúc mang tính người nhất – hi vọng. Đó là thứ neo giữ hồn người, neo giữ cả một nền văn hóa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dư Hoa (2006), Huynh đệ tập 1, Vũ Công Hoan dịch, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 2. Dư Hoa (2006), Huynh đệ tập 2, Vũ Công Hoan dịch, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 3. Dư Hoa (2013), Trung Quốc trong mười từ vựng, trieuxuan.info. 4. Vũ Công Hoan (tổng hợp, 2008), Cơn lốc tiểu thuyết Huynh đệ của Dư Hoa tràn ra thế giới, trieuxuan.info. 5. Lỗ Tấn (1998), Tạp văn, Trương Chính giới thiệu và tuyển dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Ngày nhận bài: 18/10/2016 Biên tập xong: 15/12/2016 Duyệt đăng: 20/12/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf159_2948_2215211.pdf
Tài liệu liên quan