Tài liệu Quan niệm về chữ “trung” trong văn học nhà Nho Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016
114
Quan niệm về chữ “trung” trong văn học
nhà Nho Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX
Notion of “faithfulness” in literature by Confucian scholars in Southern Vietnam
during the late nineteenth century
NCS N uy n N ọc Phú
r n i học ồng Tháp
Nguyen Ngoc Phu, Ph.D. student
The University of Dong Thap
Tóm tắt
Văn học nhà nho Nam Bộ phát triển tron bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX -
một iai đo n có sự chuyển biến lớn tron quan niệm về chữ “trung” ể hiểu hơn về quan niệm này,
bài viết luận iải quan niệm về chữ “trung” tron quan hệ với lý t ởn trun quân, lý t ởn ái quốc và
chữ “trung” - nhìn từ óc độ nhận thức, vận dụn nhữn iá trị tích cực đối với thực ti n
Từ khóa: quan niệm, trung, văn học nhà nho, Nam Bộ.
Abstract
Southern-Vietnamese Confucian literature was developed in the late nineteenth century, during which
the notion of “faithfulness” had chan ed si nifi...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 351 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan niệm về chữ “trung” trong văn học nhà Nho Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016
114
Quan niệm về chữ “trung” trong văn học
nhà Nho Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX
Notion of “faithfulness” in literature by Confucian scholars in Southern Vietnam
during the late nineteenth century
NCS N uy n N ọc Phú
r n i học ồng Tháp
Nguyen Ngoc Phu, Ph.D. student
The University of Dong Thap
Tóm tắt
Văn học nhà nho Nam Bộ phát triển tron bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX -
một iai đo n có sự chuyển biến lớn tron quan niệm về chữ “trung” ể hiểu hơn về quan niệm này,
bài viết luận iải quan niệm về chữ “trung” tron quan hệ với lý t ởn trun quân, lý t ởn ái quốc và
chữ “trung” - nhìn từ óc độ nhận thức, vận dụn nhữn iá trị tích cực đối với thực ti n
Từ khóa: quan niệm, trung, văn học nhà nho, Nam Bộ.
Abstract
Southern-Vietnamese Confucian literature was developed in the late nineteenth century, during which
the notion of “faithfulness” had chan ed si nificantly his article discusses the notion of “faithfulness”
in comparison between the traditional Confucian virtues of bein “faithful to Kin , devoted to country”
and the practical perception and application of “faithfulness” in the historical context of Southern
Vietnam during the late nineteenth century.
Keywords: notion, faithfulness, Confucian literature, Southern Vietnam.
1. Mở đầu
“Trung” là khái niệm đ o đức, xuất
hiện tron các tác phẩm kinh điển của Nho
iáo và th n đ ợc dùn để chỉ lý t ởn
trun quân th i phon kiến Chữ “trung”
mặc dù đã đ ợc hình thành từ rất lâu
nh n việc bàn luận về nó vẫn khôn hề
man tính chất l c điệu, bởi lẽ, tron
nhữn mối quan hệ iữa bề tôi với vua, bề
tôi với nhân dân luôn nảy sinh nhữn mâu
thuẫn Cho nên, chữ “trung” luôn vận
hành cùn với sự thay đổi của xã hội Khi
bàn về chữ “trung”, Nho iáo nhấn m nh
đến n uyên tắc chính trị, là quy ph m luân
lý trị quốc và xử thế của con n i Nói
cách khác, chữ trun đ ợc hiểu là đ n
lối, n uyên tắc đ o đức mà con n i phải
có bổn phận iữ ìn, đó là nhân sinh quan,
quan niệm sốn phải tuân theo Chữ trun
thể hiện t t ởn chỉ đ o tron việc trị
115
quốc và phản ánh t t ởn của iai cấp
phon kiến c m quyền Vì thế, văn học nhà
nho là bộ phận cơ bản và quan trọn tron
văn học Việt Nam th i trun đ i, bộ phận
văn học này hiện c n đặt ra nhiều vấn đề
c n tìm hiểu, n hiên cứu ây là iai đo n
văn học mà Nam Bộ đã rơi vào vòng thuộc
địa của thực dân Pháp, nhân dân ta phải
chịu sự xâm lăn của ph ơn ây và sốn
tron bi kịch của chế độ thực dân nửa
phon kiến ron iai đo n này có biết
bao anh hùng vì trun với n ớc đã xả thân
để đấu tranh iữ n ớc, thể hiện thái độ
c ơn quyết bất hợp tác đối với kẻ thù và
hết l n vì đất n ớc quê h ơn Ở iai
đo n tr ớc, nhân dân tập họp chun quanh
chính quyền, t o nên bức t n thành
chốn n o i xâm C n iai đo n này có sự
chuyển biến lớn tron quan niệm về chữ
trun của các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế
kỷ XIX ron đó có nhiều quan niệm,
nhữn t t ởn phản ánh th i thế và quan
niệm về chữ trun đ ợc đặt ra đối với các
nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX
Quan niệm này có sự chuyển biến, thay đổi
tr ớc khi thực dân Pháp xâm l ợc Do lợi
ích của qu n chún nhân dân khôn đ ợc
đảm bảo trọn vẹn, quan niệm trun mâu
thuẫn với tình yêu đối với đất n ớc Nhữn
nỗi niềm này đ ợc thể hiện qua sán tác
thơ văn của các nhà nho Nam Bộ nửa cuối
thế kỷ XIX Phân tích, luận iải về sự
chuyển biến tron quan niệm trun của văn
học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX
có ý n hĩa rất quan trọn , iúp cho chún
ta hiểu sâu sắc hơn về quan niệm, t t ởn
của các nhà nho Nam Bộ nửa cuối thế kỷ
XIX và thể hiện truyền thốn yêu n ớc quý
báu của ôn cha ta
t u t m u
t ở t u u
ron th i phon kiến t t ởn trun
quân đ ợc đặc biệt coi trọn , khôn ít
n i đặt hai chữ “trung quân” lên hàng
đ u nh n một số nhà nho yêu n ớc nửa
cuối thế kỷ XIX đ i hỏi phải coi trọn chữ
“trung” nh n phải trun với n ớc, vì
iúp vua chủ yếu để iúp n ớc, iúp dân
Quan niệm này khôn bị rơi vào n n “ngu
trung”, vì thế chỉ trun với vua khi vua
biết thi hành nhân n hĩa, tức phải biết lo
cho dân, cho n ớc Có thể nói, t t ởn
trun quân tích cực của các nhà nho ắn
với l n yêu n ớc th ơn dân nên tron
thơ văn của họ thể hiện rõ ý thức, trách
nhiệm của mình đối với đất n ớc, phải
luôn ìn iữ “đạo trung”.
Sán tác của các nhà nho Nam Bộ nửa
sau thế kỷ XIX cũn chịu sự chi phối bởi
quan niệm Khổn M nh, biểu hiện ra thành
luân th n đ o lý nên đã vận dụn các
khái niệm, ph m trù, nhữn chuẩn mực của
Nho iáo nhằm đáp ứn yêu c u của th i
đ i Cho nên, tron bối cảnh triều N uy n
suy von thì nhữn chuẩn mực ấy n ày
càn tỏ ra bất lực tron việc định h ớn
hành vi con n i Vì vậy, quan niệm về
chữ “trung” đ ợc hiểu và thực thi khác
nhau, có n i kh kh iữ lấy “ngu
trung”, có khi muốn thoát khỏi quan niệm
trung quân và cũn có kẻ lợi dụn chữ
“trung” để m u lợi riên hoặc biện minh
cho sự hèn nhát của mình ron bối cảnh
ấy, các nhà nho theo quan điểm chính
thốn thì cố ắn phục h n l i nhữn iá
trị đ o đức của Nho iáo và cụ thể hóa
thêm một số ph m trù đ o đức theo cách
riên của mình nhằm để củn cố chế độ
độc quyền, kéo dài sự tồn t i của v ơn
triều phon kiến ừ thực tế đó, có nhữn
nhà nho thực hiện đ o trun một cách thụ
độn nh n cũn có tr n hợp tiếp thu
yếu tố nhân bản của quan niệm trun (quân
minh, th n trun ) cùn với sự ảnh h ởn
116
tinh th n yêu n ớc nên các nhà nho Nam
Bộ có nhữn b ớc tiến tron quan niệm
“trung quân” và quyết định ia nhập vào
phon trào khán Pháp B ớc tiến đó thể
hiện từ quan niệm trun quân thu n túy của
Nho iáo san quan niệm trun với đất
n ớc, với nhân dân
Phan hanh Giản là một con n i
chính trực, nhân n hĩa - một cái tôi trữ tình
iàu cảm xúc nên thơ văn của ôn phản
ánh chân thực nhân cách, t t ởn của một
nhà nho yêu n ớc chính thốn Sán tác
của ôn thể hiện nỗi niềm mất n ớc, một bi
kịch của vị đ i th n suốt đ i lận đận tron
v n trói buộc của hai chữ “trung quân”.
Ôn bị trói buộc bởi đ n lối “chủ hòa”
của triều đình với tâm tr n đ y mâu thuẫn
và bế tắc tron việc thực thi nhiệm vụ
chính trị ở chốn quan tr n Ôn là vị
quan thanh liêm, đ o đức, mọi sự n hĩ suy
đều vì dân, vì n ớc: “Lo nỗi nước kia cơn
phiến biến/ Thương bề dân nọ cuộc giao
chinh” [5, tr 851] a thấy cuộc đ i Phan
hanh Giản có nhiều điểm t ơn đồn với
ăn Quốc Phiên ở Hồ Nam, run Quốc.
Phan hanh Giản và ăn Quốc Phiên có
t m vóc lớn, có ảnh h ởn t m quốc ia
nh n bị đánh iá một cách n hiêm n ặt
tron th i ian dài, nh n họ vẫn tồn t i
tron l n n i dân mỗi n ớc vì sự chính
trực, nhân n hĩa, hết l n vì n ớc, vì dân
ron cuộc đ i làm quan, Phan hanh
Giản cảm thấy thẹn vì ch a làm đ ợc ì
cho quê h ơn , ôn ắn sức trau dồi, tu
d ỡn đ o đức và luôn băn khoăn về ánh
nặn nợ n ớc, ơn vua mà n hĩ đến sự báo
đáp ron bài Trú trực, ôn bày tỏ: “Quốc
ân hà tự sùng thâm báo/ Độc ỷ nguy lan
tọa tịch dương” [5, tr 353] Ơn của vua
khôn biết làm thế nào để đền đáp cho
xứn đán , n ồi một mình tựa lan can d ới
ánh chiều tà mà n ẫm n hĩ về mình:
“Ngọc Quan mạn đạo lao đầu bút/ Bạch
thủ trường kham báo quốc ân” (Dùng ngòi
bút luận bàn đến việc ra biên ải/ u b c
vẫn c n có thể báo đáp ơn n ớc) (Đăng
Bảo Định đồn) L n yêu n ớc của Phan
hanh Giản lúc nào cũn ắn với tình
th ơn yêu dân n hèo nên ôn luôn n hĩ
về nhân dân, quan tâm đến nỗi khổ của dân
tr ớc thiên tai khắc n hiệt, ôn khôn n ủ
đ ợc khi thấy nhân dân đói khổ Nỗi niềm
của Phan hanh Giản n ày càn nặn thêm
khi tuổi tác phải đối mặt với sự phức t p
của th i cuộc và khôn sao iải quyết đ ợc
khiến ôn cảm thấy xót xa: “Lăm trả ơn
vua đền nợ nước/ Đành cam gánh nặng
ruổi đường xa/ Lên ghềnh, xuống thác
thương con trẻ/ Vượt biển, trèo non cám
phận già/ Cũng tưởng một lời an bốn cõi/
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!” (Việc nước
không thành) [7, tr.264]. Mấy ai hiểu đ ợc
một nhà nho yêu n ớc đã khôn tiếc m n
sốn của mình để bày tỏ sự tận trun v i
triều đình? Cái chết của Phan hanh Giản
là cái chết của l n quả cảm, khôn tham
sốn sợ chết và khôn hề nhu nh ợc Nhà
thơ yêu n ớc N uy n ình Chiểu đã đánh
iá Phan hanh Giản rất cao: “Lịch sử tam
triều độc khiết thân” (Một n i từn trải
ba triều vua duy nhất c n tron s ch) [9,
tr 39] Ôn mất đi nh n nhân dân Nam
Bộ vẫn tôn th ôn , có nhữn đánh iá cao
và xóa cho ôn tội oan “bán nước”.
ron sán tác của N uy n hôn thể
hiện cảnh đói khổ của nôn dân, ta th n
ặp tron thơ ôn nỗi lo lắn về tình hình
đất n ớc, nỗi quan tâm lo lắn đến cảnh
khổ của n i dân vì chiến tranh Xuất
phát từ lập tr n yêu dân thắm thiết và có
cái nhìn đún đắn đối với qu n chún c n
lao thôn qua nhữn án thơ đ y n ớc mắt
nh n ở một số chỗ cũn tỏ ra ch a mất
hết l n tin t ởn ở vua ron bài Trọng
117
đông tiểu tập thị Phạm Qúy Hữu Doanh
điền sứ ( hán 11 nhân buổi họp mặt nhỏ
viết đ a ôn Ph m Qúy Hữu Doanh điền
sứ) ửi ôn Doanh điền sứ khi nhắc cơn
bão tố h thành Phiên An do quân Pháp
ây chiến, tác iả viết: “Các tu nỗ lực báo
minh chủ” (Mọi n i đều phải cố ắn
báo đáp minh chúa) [5, tr 110] Họa bài thơ
Vân Lộc Nguyễn Tư Giản, ông có câu:
“Kim tịch bất giác thần phi vũ/ Công kim
hữu đạo tá minh chủ” (Bất iác đêm nay
tinh th n bay múa, ôn hay ặp đ i hữu
đ o ra iúp vua anh minh) [5, tr 159] Mặc
dù đó là nhữn câu thơ th n đ ợc viết
theo lối khuôn sáo, côn thức, nh n xét
cho cùn tác iả vẫn tin nhà vua sán suốt,
nếu đ ợc bề tôi hiền ra iúp thì việc trị
n ớc sẽ v ợt khỏi cơn n uy Vì iữ đ o
trun quân nên ôn luôn luôn tỏ ra vân
lệnh vua, đan lúc chốn Pháp N uy n
hôn r i miền ôn khói lửa san Vĩnh
Lon nhận chức đốc học
Văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế
kỷ XIX chịu sự ảnh h ởn của t t ởn
“trung quân”, nh n chữ “trung” đã mất
hết ý n hĩa, chữ “trung quân” mâu thuẫn
với chữ “ái quốc” Vì vua đã khôn minh
thì th n khó mà có thể iữ l n trun , nên
có nhữn nhà nho chốn l i vua, nhân dân
cũn chốn l i vua Nh n l i có một số
tr n hợp, nhà nho cộn tác với Pháp để
h ởn danh lợi mà bán rẻ l ơn tâm cho
iặc, tiêu biểu nh ôn họ n : “Ở đời
há dễ quên đời đặng/ Tính thiệt so hơn
cũng gọi là” [4, tr 167] Về tr n hợp này
thì nhân dân côn kích rất dữ dội vì một bề
tôi trun khôn thể th hai vua, nên đứn
tr ớc bài toán của lịch sử dân tộc thì có
n i rút lui về thành lập đội quân chốn
iặc, có khi ch y về ph n đất c n l i của
triều đình để ẩn náu ch th i Vì vậy, tron
hoàn cảnh đó có nhiều thơ văn yêu n ớc
xuất hiện nhằm bày tỏ nỗi uất hận và kêu
ọi cùn nhau hy sinh vì chính n hĩa
ron thơ điếu Phan n , N uy n
ình Chiểu bày tỏ l i lẽ cảm th ơn hết
sức bi trán : “Làm người trung nghĩa đáng
bia son/ Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng
mòn/ Cơm áo đền bồi ơn đất nước/ Râu
mày giữ vẹn phận tôi con/ Tinh thần hai
chữ phao sương tuyết/ Khí phách ngàn thu
rỡ núi non” [2, tr.55]. N uy n Duy Cun
là một nhà nho đất Quản N ãi, khi biết
sắp bị xử tử vẫn khôn hề nao nún : “Ninh
vi trung nghĩa quỷ/ Bất vi tàm phụ nhân”
( hà làm ma có hồn trun vía n hĩa/
Không làm n i đeo mặt n ựa đ u trâu)
[2, tr.78]. inh th n bất khuất của Phan
Văn t, Lê Cao Dõn khiến nhà vua (sau
đã thỏa hiệp đ u hàn ) phải ca n ợi:
“Tiếng trung nghĩa của Nam kỳ/ Không
phải ngày nay mới có/ Xem tờ tấu thật
đáng khen/ Khen đó, lại khóc đó!/ Lời
thơ lặp lại dài dòng/ Chỉ sợ còn điều thiếu
sót/ Thương thay hai đấng nam nhi!/ Danh
tiết ngàn năm duy trì” (Lê hực dịch)
[2, tr.32] ứn tr ớc nhữn vấn đề của
th i cuộc nên một số nhà nho n hiên về
t t ởn yêu n ớc nh n họ vẫn ch a thể
r i khỏi chữ “trung quân” C n N uy n
ình Chiểu thì cũn đã bộc lộ quan điểm
về vấn đề trun hiếu của mình: “Hai chữ
cương thường dằn cả nước/ Một câu trung
hiếu vững muôn nhà” [9, tr.280], “Còn
đánh giặc mất cũng đánh giặc; sống thờ
vua, thác cũng thờ vua” [10, tr.29], “Quan
Phan thác trọn chữ trung thần” [10, tr.42].
ron sán tác N uy n Hữu Huân cũn thể
hiện rõ tinh th n trun n hĩa: “Thiên phố
hoàn nhân trung nghĩa hậu/ Phân phân
Nam Bắc đảo huyền sầu” (Sau buổi n i
trun về tựu n hĩa/ Bắc Nam d i đổi chúng
dân s u) [11, tr 79], nh n cũn có khi l i
đề cao N uy n Hữu Huân trên lập tr n
118
trun quân của nho iáo: “Tằng tương tam
xích tuyết quân cừu” (Vun kiếm vì vua
quyết trả thù) [11, tr 80] C n một số n i
l i ca n ợi chữ trun của N uy n Hữu
Huân từ ý thức “công dân”: “Bi tai quốc
thế nguy huyền phát/ Tử nhĩ tam nhi sỉ
khấu đầu” (Buồn thay, thế n ớc nh treo
tóc/ Chết vậy! thân trai thẹn cúi đ u) [11,
tr.80].
ừ đó, xét trên tinh th n yêu n ớc thì
nhữn ý kiến đánh iá, nhận định về chữ
trung tron mối quan hệ với lý t ởn trun
quân của nho iáo c n man nhiều h n chế
và c n có nhiều nhận định khác nhau
Nhữn h n chế, khác biệt ấy thể hiện tính
chất và đặc điểm vùn Nam Bộ tron bối
cảnh thuộc địa nửa phon kiến N uy n
Hữu Huân đã thể hiện ý thức trun quân
của một nhà nho, mặc dù tinh th n và ý chí
khôn đủ để chiến thắn nh n tinh th n
dân tộc đã óp ph n nuôi d ỡn l n căm
thù iặc của ôn : “Việc lớn không thành,
báo chúa cũng đành liều một chết” [11,
tr 64] Nhữn tâm sự này thể hiện một khát
vọn cứu n ớc, tinh th n bất khuất, ý chí
chiến đấu kiên c n của nhà nho tr ớc kẻ
thù: “Ngọn cờ phá lỗ bao giờ thấy/ Thiên
hạ người đều ngóng cổ trông” (Thuật
hoài) [11, tr.102], “Bậc trung nghĩa, từ
xưa mấy kẻ/ Muốn lập công mà dễ thành
công” (Khúc hát hò khoan) [11, tr.96], “Vũ
trụ còn xem tiết nghĩa lưu” (Điếu Trần
Xuân Hòa) [11, tr.106], “Con hiếu tôi
trung danh mãi rạng Lòng trung nửa
điểm, tháng năm lưu” (Trung nghĩa vịnh -
Khuyết danh) [11, tr.163-164].
ron thơ văn của N uy n ình Chiểu
có nhắc đến vấn đề “trung hiếu”: “trung
hiếu vững muôn nhà, trung hiếu làm đầu,
lấy mình báo chúa, cám niềm thần tử hết
lòng trung ái, tận trung, trọn chữ trung
thần, kẻ ứa gan trung, đều tài bậc trung,
chiết trung, đặng chữ hiếu trung, một
đường hiếu trung, chuộng đường trung
hiếu, tấm lòng trung, một câu trung hiếu
bỏ đi không màng, chữ hạ chữ trung rõ
ràng, mang chữ bất trung, thần tử dự phần
hiếu trung,” Chữ “hiếu” của N uy n
ình Chiểu ắn liền với chữ “trung”: “lấy
trung hiếu làm đầu, đường trung hiếu, tận
trung, trọn chữ trung, bậc trung,” Bậc
trun này phải lo cho dân, th ơn dân nếu
khôn thì N uy n ình Chiểu mãnh liệt
phê phán: “ghét cay ghét đắng, trang dẹp
loạn rày đâu vắng, trông tin nhạn, bặt
tiếng hồng, biết ai thiên tử biết ai thần,
chẳng nghe thiên tử chiếu, quyết đánh cả
triều lẫn Tây,” Hồ Huân N hiệp với
tinh th n yêu n ớc cao cả hiên n an ,
khoan thai rửa mặt, sửa khăn áo un dun
đọc bốn câu thơ tr ớc i bị địch hành
quyết: “Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi/
Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi” [1,
tr 26] Vì trun hiếu mà chết oanh liệt đã
làm cho quân địch hết sức kinh n c, đồn
bào vô cùn xúc độn đối với chiến sĩ anh
hùng.
Trong Dương Từ - Hà Mậu, N uy n
ình Chiểu đề cao quan niệm c ơn
th n nhằm củn cố khối đ i đoàn kết
dân tộc và cũn muốn nhắc nhở mọi n i
tr ớc sau vẫn một l n với đất n ớc,
khôn n hiên n ã, khôn ch y theo iặc,
đồn th i cũn đề cao chữ trun : “Làm tôi
mang chữ bất trung/ Đứng trong trời đất
chẳng dung người nào” [9, tr.346].
N uy n ình Chiểu cho rằn bề tôi phải
trun , chữ trun ở đây đ ợc đặt tron mối
quan hệ với vua và vua đó phải biết lo cho
nhân dân, lo cho đất n ớc ron lúc đất
n ớc ch a lâm n uy thì ở truyện Lục Vân
iên, N uy n ình Chiểu khôn phản đối
chế độ quân chủ nói chun nh n khi mối
quan hệ vua tôi mất hết ý n hĩa, khôn c n
119
iá trị nữa thì quan niệm về chữ trun của
ôn có sự thay đổi và đ ợc biểu hiện qua
bài văn tế khóc r ơn ịnh, bộc lộ rõ
ràn quan điểm của mình đối với vua chúa
bán n ớc: “Bởi lòng chúng chẳng nghe
thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền”
[10, tr.35].
Quan niệm về chữ trun của N uy n
ình Chiểu và N uy n Hữu Huân man
một nội dun mới là sự trun thành tuyệt
đối với ổ Quốc, ắn chặt với nhân dân,
thể hiện nhất quán tron suy n hĩ và hành
độn ron Hịch Trương Định, N uy n
Hữu Huân kêu ọi tha thiết về bổn phận
con dân đối với đất n ớc đan lâm n uy vì
n n n o i xâm, khôn c n ồn ánh nào
nặn hơn nhữn thứ thiên liên ấy: “Hai
vai nặng trĩu, gánh chi bằng gánh cang
thường/ Tấc dạ trung lương, gồng chi gồng
xã tắc” Ôn đã khôn xem trọn quan
niệm trun quân khi mà vua chúa đã đ u
hàn tr ớc b ớc n oặt của lịch sử dân tộc,
vận độn qu n chún quyết tâm khởi n hĩa
đánh đuổi quân xâm l ợc thực dân Pháp và
cũn luôn thể hiện sự trách móc, quy trách
nhiệm đối với nhà vua: “Trong dò hàng
giặc chưa xong giá/ Ngoài ngóng tin triều
đã bặt tâm” [1, tr.173]. Khi thể hiện “sĩ
khí Nam trung”, Bùi Hữu N hĩa luôn v ch
mặt bọn quan trên h i dân, khôn đem l i
lợi ích cho qu n chún nhân dân, họ xuất
hiện với bộ mặt tiểu nhân, làm tay sai cho
iặc, phản bội l i iốn n i: “Lá xanh tơ
liễu nhành thưa thớt/ Bông bạc dường mai
nhụy sượng sần Rường soi cột trổ chưa
nên mặt/ Cao lớn làm chi bần hỡi bần!”
(Cây bần) [1, tr.204]. C n N uy n hôn
thì phê phán bọn xu nịnh, đê hèn đắc th i,
đắc thế nh cỏ d i khôn trồn mà cứ mọc:
“Cỏ loạn không giồng thềm mọc khắp/
Hoa rơi vừa quét, chái liền sa” (Gửi bạn)
[1, tr.290].
t u t m u
t ở á u c
Nho iáo khôn c n iữ vai tr quan
trọn nh tr ớc nữa thì vấn đề đặt ra cho
các nhà nho lúc này là bề tôi có nhất thiết
phải trun thành nữa khôn ? Khi đức vua
đi n ợc l i quyền lợi của dân tộc, tron
tr n hợp đó thì bề tôi phải làm sao đây?
Một số nhà nho khôn r i bỏ triều đình,
một số nhà nho đã đặt yêu n ớc lên trên
vua, khôn tuân lệnh vua, khi vua khôn
tận trun với n ớc thì bề tôi khôn bắt
buộc phải trun với vua N uy n ình
Chiểu một th i kỳ từn thất vọn rất nhiều
ở vua và triều đình nhà N uy n: “Xe ngựa
lao xao giữa cõi trần/ Biết ai thiên tử biết
ai thần” [10, tr 149] Phan Văn rị ay ắt
hơn, ôn đ i: “Trảm càn đức chi đầu, ẩm
càn đức chi huyết, phanh càn đức chi thi,
thực càn đức chi nhục” (Chém đầu càn
đức, uống huyết càn đức, xẻ thây càn đức,
ăn thịt càn đức) Khi ứn khẩu dọc đ n ,
ôn tỏ ra hết sức coi th n con rồn là
biểu t ợn của nhà vua: “Đứng lại làm chi
cho mất công, Vừa đi vừa đái vẽ nên
rồng”. C n vua nh ồn Khánh thì văn
học yêu n ớc th n tỏ thái độ phê phán
ay ắt: “Hàm Nghi mới thực vua trung/
Còn như Đồng Khánh là ông vua xẳng”
[6, tr.63].
ó là nỗi niềm, tấm l n trun của
nhữn nhà nho yêu n ớc, hết l n vì nhân
dân, vì nền độc lập tự do của dân tộc
N uy n ình Chiểu thì đề cao r ơn
ịnh dám chốn l i chiếu chỉ nhà vua:
“Giúp đời dốc trọn trang nam tử; Ngay
chúa nào lo tiếng nghịch thần Bởi lòng
chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón
ngăn mấy dặm mã tiền; Theo bụng dân
phải chịu tiếng quân phù, gánh vác một
vai khổn ngoại” [10, tr.30-35]. Các nhà
nho Nam Bộ đã trở thành nhữn tác iả có
120
t m vóc lớn với nhữn án thơ văn đ y
nhiệt huyết thể hiện tấm l n trun với
n ớc, với dân Các nhà nho th i kỳ này đã
kế thừa truyền thốn oanh liệt n àn đ i
của dân tộc, đã cùn nhân dân Nam Kỳ
chiến đấu n oan c n để bảo vệ quê
h ơn xứ sở, thể hiện l n yêu n ớc sâu
sắc của mình Nhữn nhà nho trun th i
kỳ đ u nh ặn Huy rứ, N uy n ình
Chiểu cho đến các sĩ phu yêu n ớc, các
nhà nho C n V ơn ất cả họ đều bộc
lộ nỗi đau đớn xót xa tr ớc bi kịch mất
n ớc ừ bi kịch đó, họ khôn thể làm
khác n oài con đ n ở ẩn, đó là sự lựa
chọn bất đắc dĩ của một số nhà nho cuối
mùa của chế độ phon kiến Hơn bao i
hết, quan niệm trun tron th i kỳ này
đ ợc đặt ra rất quyết liệt và là chỗ dựa tinh
th n lớn nhất cho các nhà nho yêu n ớc.
Một nhà nho yêu n ớc đánh iặc để
ìn iữ ian sơn, nếu khôn làm đ ợc thì
phải chọn cái chết nh Phan hanh Giản,
Hoàn Diệu để đền ơn vua hoặc rút về ở ẩn
để ch th i Họ nhận thức rằn , khôn
iúp đ ợc vua thì phải tìm cách lui về ở ẩn,
không làm tai sai cho iặc, họ tìm nơi vắn
vẻ làm b n với thiên nhiên, iải s u bằn
chén r ợu âm tr n của họ là tâm tr n
man đ y tính bi kịch của kẻ sĩ bất lực Có
khi họ bị truy nã phải bỏ trốn, có khi họ
chủ độn bỏ ch y cho khỏi man tiến
nhục vì phải hàn ây, có khi họ khôn
chịu ra làm việc cho triều đình nh Hồ
Huân N hiệp viện lẽ c n mẹ ià, Phan Văn
t ra Huế nhận một chức quan nh n khi
đến kinh đô l i bỏ về Một số nhà nho chấp
nhận hợp tác với chính quyền thực dân,
một số thì phó mặc cho th i thế, một số thì
tìm đ n tránh né để iữ khí tiết và một
số thua keo n y y keo khác, họ cố chí để
phục thù ất cả các nhà nho ấy đều có ít
nhiều t t ởn bộc lộ qua thơ văn “Học
Lạc, Nhiêu Tâm hay Trần Thới Hanh, Hồ
Bửu Ngoạn cam phận làm dân vong quốc
mà gửi hồn vào những vần châm biếm...
Trần Hữu Thường, Nguyễn Văn Thới muốn
khư khư một mực vì đạo nghĩa luân
thường... Trần Kim Phụng, Sương Nguyệt
Anh, Trần Ngọc Lầu, Tạ Quốc Bửu, Lê
Lương Tri, Nguyễn Công Minh... với nhiều
khuynh hướng khác nhau, tả tình, tả cảnh,
nghĩ ngợi vẩn vơ, khóc than vô cớ...”
[4, tr.320].
Có nhữn sĩ phu yêu n ớc chân chính
th i kì này vừa làm thơ, làm văn, vừa trực
tiếp lãnh đ o nhân dân chốn iặc ó là
Phan Văn t, ỗ rình ho i, N uy n
Hữu Huân, Hồ Huân N hiệp, r n hiện
Chánh, Ph m Văn N hị, Có n i khôn
có cơ hội hoặc điều kiện tham ia đấu
tranh trực tiếp, đã dùn n i bút của mình
để ca n ợi cuộc khán chiến, đề cao n hĩa
cử anh hùn của các lãnh tụ n hĩa quân, và
qua đó mà khích lệ, cổ vũ nhân dân tích
cực chốn iặc Có khi dùn bút pháp đã
có ít nhiều nhân tố hiện thực để tố cáo sự
thối nát của xã hội, sự n ột n t của chế
độ ó là Ph m Văn N hị (1805 - 1880)
với Nghĩa Trai thi văn tập, Miên hẩm
(1819 - 1870) với Thương Sơn thi tập,
N uy n ình Chiểu (1822 - 1888) với
nhữn bài thơ chữ Hán, N uy n hôn
(1827 - 1894) với Ngọa du sào thi văn tập,
r n Bích San (1840 - 1877) với Mai
Nham thi thảo, Hoàn Văn H e (1848 -
1885) với Hạc nhân tùng ngôn,... Tiêu
biểu là nhà nho Phan hanh Giản (1796 -
1867) với Lương khê thi thảo đã thể hiện
nhữn nỗi niềm trăn trở, lo lắn cho vận
mệnh của dân tộc tr ớc âm m u xâm l ợc
của bọn thực dân Pháp Với tấm l n vì
dân, vì n ớc, ôn cũn luôn trăn trở và
mon muốn chấn h n đất n ớc tr ớc sự
xâm lăn của n o i ban Bởi thế, Phan
121
hanh Giản là một bậc trun th n với một
tấm ơn về đ o đức, một phẩm chất cao
đẹp, suốt cuộc đ i dốc hết sức lực xây
dựn đất n ớc, mon đất n ớc thoát khỏi
sự l c hậu uy nhiên, t t ởn này l i
khôn đ ợc xem trọn làm ôn phải man
nặn nhữn nỗi niềm tr ớc th i cuộc: “Từ
ngày đi sứ Tây Kinh/ Thấy việc Âu Châu
phải giật mình/ Kêu rủ đồng bào mau thức
dậy/ Hết lời năn nỉ chẳng ai tin” [7,
tr 178] Nỗi niềm u uất này đã đ ợc nhân
dân thấu hiểu và mến mộ ôn , đến hàn
trăm năm sau phẩm chất của Phan Thanh
Giản vẫn đ ợc n i đ i sau xem trọn
Khi 3 tỉnh miền ôn rơi vào tay iặc rồi
tiếp đến 3 tỉnh miền ây, Phan hanh Giản
càn u uất hơn khi phải thừa hành một
đ n lối sai l m của triều đình phon
kiến, mà n i đứn đ u chính là vua ự
ức Với tấm l n yêu n ớc th ơn dân
nh n đứn tr ớc th i cuộc ôn khôn thể
làm trái với t t ởn trun quân của đ o
nho, ôn nhận thấy mình có tội với dân với
n ớc và đã kết li u đ i mình để bày tỏ nỗi
l n với n i đ i sau Vì thế nỗi l n và
phẩm chất của ôn càn đ ợc nêu cao, một
con n i luôn có lẽ sốn , luôn nêu cao sự
chính trực và nhân n hĩa.
Các triều đ i phon kiến đã có nhữn
đón óp to lớn tron việc củn cố, xây
dựn nền độc lập dân tộc n ớc nhà và óp
ph n quan trọn vào sự phát triển của đất
n ớc Nh n lịch sử dân tộc đã có nhữn
thay đổi khi triều đ i phon kiến nửa sau
thế kỷ XIX khôn đảm bảo sự iữ vữn
nền độc lập của quốc ia d ới đ n lối trị
n ớc cũ ron hoàn cảnh ấy, khôn thể
nào tìm thấy đ ợc ý chí quật c n , tinh
th n tự hào dân tộc nh đã từn thấy tron
thơ của Lý h n Kiệt, r n Quan Khải,
Ph m N ũ Lão, tron Hịch tướng sĩ của
r n Quốc uấn, tron Bạch Đằng giang
phú của r ơn Hán Siêu và đặc biệt tron
Bình Ngô đại cáo của N uy n rãi.. ến
cả cái hơi nón của thơ ca dân gian yêu
n ớc đ ơn th i, tiến dội của một Hịch
đánh Pháp, một Hịch Lãnh Cồ chẳn h n
ó là sự hào hùn của nhữn tâm hồn
dũn cảm, sự l c quan tin t ởn vào nhữn
bản lĩnh kiên c n khi đất n ớc chốn
n o i xâm
4. Chữ trung - nhìn từ góc độ nhận thức,
vận dụng những giá trị tích cực đối với
thực tiễn
N uyên lý đ o đức của Nho iáo là
luân th n , luân là n ũ luân, là năm mối
quan hệ: quân th n, phụ tử, phu phụ, môn
đệ, bằn hữu ron năm quan hệ đó, hai
mối quan hệ đ u là quan trọn nhất, đ ợc
t ợn tr n bằn hai chữ “trung - hiếu” và
đ ợc ọi là đ o quân th n (vua - cha mẹ)
Vào đ i vua r n hái ôn, l n trun
quân đã đ ợc quy định tron điều lệ nên
th n dân phải thề: “Làm tôi hết trung, làm
quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh
giết chết” [3, tr.439]. “Điều đó cho thấy
triều đình phong kiến đã đẩy ý nghĩa trung
quân từ một cách hành xử trong hành đạo
của người quân tử lên thành luật vua, phép
nước, lấy hình phạt cao nhất để răn đe. Nó
vừa làm tăng sự uy nghi của vua vừa làm
cho đạo lý trung quân mang màu sắc
thiêng liêng. Trung quân không còn đơn
giản chỉ là một hành vi ứng xử với người
trên mà còn là bổn phận cao nhất của một
kẻ bề tôi với vị vua - Trung quân” [8,
tr 43] Ở N uy n ình Chiểu cũn thể hiện
rõ quan điểm: “Trai thời trung hiếu làm
đầu/ Gái thời tiết hạnh là câu trau mình”
[9, tr 93] ừ triết lý đó, vua chúa phon
kiến cổ vũ cho chữ hiếu cũn nhằm để cổ
vũ cho chữ trun , hiếu với cha mẹ để trun
với vua
ron đ o làm tôi, Khổn ử đề cao
122
chữ trun , nhấn m nh đến l n biết ơn, sự
phục tùn , tinh th n phục vụ của bề tôi đối
với vua và quốc ia heo ôn , n i làm
quan tr ớc hết phải là n i có đức, có thái
độ ứn xử đún ở mọi lúc, mọi nơi M nh
ử cũn đã phê phán nhữn kẻ làm quan
mà khôn đún danh phận của mình: “Khi
ra làm quan rồi, thì phải trung với vua, hết
lòng hết sức thờ vua, nhưng cũng không vì
vậy mà biến mình thành kẻ “ngu trung”.
Người làm tôi trung còn là người biết can
gián vua, khi vua làm điều trái đạo, không
những thế, còn có thể phế truất ngôi vua,
khi thấy vua là kẻ vô đạo” ừ đó, khái
niệm “trung quân” xuất hiện
Khi quyền lợi của vua thốn nhất với
quyền lợi dân tộc thì quan niệm về trun
đồn th i là trun với n ớc, mỗi bên đều
phải có trách nhiệm với nhau: “Quân sử
thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (Nhà vua
sai khiến bề tôi thì dùn l , bề tôi phụn sự
nhà vua thì iữ đ o trun ) Khổn ử
khôn chủ tr ơn “ngu trung”, khôn bắt
buộc bề tôi phải phục tùn bề trên một
cách vô điều kiện nh quan niệm về chữ
trun của các nhà nho sau này Quan niệm
về chữ trun khôn phải là trun một cách
tuyệt đối, khi vua khôn ra vua thì th n dân
khôn nhất thiết phải trun Khi đ i sốn
nhân dân yên bình, ấm no thì bề tôi tuyệt
đối phục tùn vua, trun thành với vua vô
điều kiện Khi mà đ i sốn xã hội có nhiều
biến đổi thì quan niệm về chữ trun ắn
liền với l n yêu n ớc, ắn với lợi ích của
dân tộc nên tron từn iai đo n lịch sử thì
quan niệm này cũn có nhữn biến đổi phù
hợp với l n yêu n ớc của nhân dân ta
ron th i kỳ dựn n ớc, quan hệ vua
tôi là quan hệ quân th n cùn chun lý
t ởn yêu n ớc, chốn n o i xâm để bảo
vệ nền độc lập cho dân tộc Cho nên đã có
nhiều tấm ơn tiêu biểu thể hiện l n
trun thành đối với vua nh : Dã ợn ,
Yết Kiêu đã lều chết để bảo vệ r n H n
o, Lê Lai đã chết thay cho Lê Lợi Và
sau này là nhữn anh hùn luôn trun với
n ớc đ ợc hiện diện tron nhữn sán tác
của các nhà nho, đặc biệt là iai đo n nửa
cuối thế kỷ XIX Khi triều đ i phon kiến
khôn c n đảm đ ơn đ ợc sứ mệnh iải
phón dân tộc, tron nội bộ triều đình có
nhữn kẻ n u trun , phản độn , bán n ớc
(Lê Chiêu hốn c u cứu nhà hanh,
N uy n Ánh c u cứu thực dân Pháp) thì
nhân dân ta l i càn quyết tâm vùn dậy
chốn l i chế độ phon kiến Bởi vì, tron
t t ởn chủ đ o của các nhà nho là yêu
n ớc, họ quan niệm vua đến rồi l i đi, triều
đ i dựn lên rồi l i đổ, chỉ đất n ớc của
nhân dân là c n mãi Do vậy, chữ “trung”
đã đi vào nhận thức của con n i một
cách tự nhiên và đã trở thành chuẩn iá trị
của chế độ phon kiến Nhân dân ta đã tiếp
nhận chữ trun ở một nhận thức mới, t
bỏ đi nội dun cũ của Nho iáo là trun với
vua và đ a vào đó nội dun mới là trun
với n ớc Khi xác định nội dun chữ trun ,
nhân dân ta đã đặt nội dun ấy tron sự
phù hợp với yêu c u, n uyện vọn của
nhân dân, phù hợp với nhiệm vụ đấu tranh
iải phón đất n ớc Lấy chữ “trung” làm
nền tản để t o nên sức m nh iúp nhân
dân ta v ợt qua mọi khó khăn, đánh thắn
mọi kẻ thù xâm l ợc và xây dựn xã hội
n ày càn tốt đẹp
Giá trị cốt lõi của đ o đức truyền
thốn dân tộc là l n trun thành đối với
ổ Quốc, bởi tron th i phon kiến, việc
trun với n ớc cũn là trun với vua, tuy
nhiên trun với vua phải có điều kiện và
điều kiện ấy phải là trun với đất n ớc
t ởn đ o đức truyền thốn của dân tộc ta
đặt n ớc cao hơn vua, vì ph m trù trun
đ ợc xác lập trên cơ sở chủ n hĩa yêu n ớc
123
ắn bó chặt chẽ với l n th ơn dân, l n
nhân ái của dân tộc N ày nay chún ta c n
phải kế thừa nhữn tinh hoa t t ởn đ o
đức truyền thốn của dân tộc, t o nên sức
m nh tinh th n vĩ đ i cho nhân dân ta làm
nên cuộc cách m n thán ám thành côn ,
đánh đuổi thực dân Pháp và Mỹ xâm l ợc
để iành độc lập và thốn nhất đất n ớc
Chún ta phải thực hiện đ o đức Cách
m n trun với n ớc, hiếu với dân, xây
dựn một xã hội n ày càn iàu đẹp
Hiện nay, trun với n ớc là trung
thành với lợi ích của quốc ia, với sự
n hiệp xây dựn và bảo vệ ổ Quốc Quan
niệm về chữ trun yêu c u phải có l n
yêu n ớc th ơn n i, tự hào về truyền
thốn vẻ van của dân tộc, đó là bổn phận,
trách nhiệm đối với ổ Quốc Vì thế, con
n i phải có ý thức n hị lực v ơn lên để
v ợt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàn
hy sinh vì ổ Quốc và đặc biệt tron quá
trình xây dựn đất n ớc phải th n xuyên
nân cao tinh th n của chữ trun
ể hi nhớ côn lao chiến đấu chốn
iặc iữ n ớc của các anh hùng, nhân dân
đã xây dựn đền th t ởn niệm các nhân
vật vì trun vì n hĩa Hiện nay tron dân
ian c n l u truyền bài thơ ca n ợi nhữn
con n i trun n hĩa: “Vì nước quên
mình bởi chữ trung/ Thương dân chi sá
chốn sình bùn/ Mấy năm Đồng Tháp danh
vang dội/ Cọp rống ngoài truông, cáo hãi
hùng/ Hai thước im lìm nơi thạch động/
Đồng bào tưởng nhớ đứng thờ chung/ Nỗi
lòng nghĩ đến nhiều năm trước/ Hương lửa
đều không cảnh lạnh lùng” (Khuyết danh).
Với Nho iáo, chữ trun đ ợc đặt ra
tron quan hệ với lý t ởn trun quân, lý
t ởn ái quốc, chữ trun cũn đ ợc đặt ra
với chính bản thân mình để tu thân và trở
thành n i quân tử N oài ra, c n đặt ra
tron quan hệ với n i khác, mỗi n i
thực hiện đún việc, đún phận sự của
mình làm cho xã hội ổn định và phát triển
Nhữn quan niệm này của Nho iáo cho
đến nay vẫn c n n uyên iá trị và có ý
n hĩa xã hội thực sự của nó ron điều
kiện hiện nay, khi mối quan hệ của con
n i với con n i càn đ ợc mở rộn ,
khi xã hội đan có một số biểu hiện xuốn
cấp về mặt lý t ởn , đ o đức thì t t ởn
về trun , về n hĩa tron các mối quan hệ
của Nho iáo l i càn có ý n hĩa quan
trọn , óp ph n điều chỉnh hành vi của mỗi
con n i để xây dựn xã hội n ày càn
tốt đẹp hơn
Dân tộc ta có một l n yêu n ớc nồn
nàn, đó là một truyền thốn quý báu nên
tron tình hình mới d ới sự ảnh h ởn của
nhiều t t ởn nên việc iáo dục l n yêu
n ớc tron điều kiện hội nhập là rất c n
thiết ron bối cảnh đó, côn tác iáo dục
thế hệ trẻ nhất là iáo dục l n yêu n ớc,
l n tự hào dân tộc là vấn đề có ý n hĩa
đặc biệt quan trọn đối với sự phát triển
của đất n ớc Văn học nhà nho yêu n ớc
Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX là một bộ
phận quan trọn của văn học dân tộc,
chiếm vị trí quan trọn tron ch ơn trình
iáo dục phổ thôn , đặc biệt với nhữn tác
phẩm văn học thể hiện l n yêu n ớc,
chốn n o i xâm và thể hiện tính dân tộc
sâu sắc
5 Kết uậ
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm l ợc
thì nhữn t t ởn , quan niệm trun với
dân, với n ớc ở các sĩ phu yêu n ớc đã
từn b ớc đ ợc thể hiện, cho thấy nhữn
biến chuyển lớn tron quan niệm trun của
các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX
Quan niệm trun đ ợc đặt ra và quan niệm
này có sự chuyển biến, thay đổi khi lợi ích
của qu n chún nhân dân khôn đ ợc đảm
bảo trọn vẹn run với vua thì l i mâu
124
thuẫn với tình yêu đối với đất n ớc, quân
đã khôn minh thì th n khó mà có thể iữ
l n trun Nhữn nỗi niềm này đ ợc thể
hiện qua nhữn sán tác thơ văn của các
nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX Bên
c nh đó cũn có nhiều nhà nho n hiên về
t t ởn yêu n ớc nh n họ cũn ch a thể
quên hẳn chữ trun quân N oài một số
n i chấp nhận hợp tác với chính quyền
thực dân, có nhữn nhà nho khôn iúp
đ ợc vua thì tìm cách lui về ở ẩn, chứ
khôn chịu làm tai sai cho iặc Bên c nh
đó, ta thấy một số nhà nho phó mặc cho
th i thế, một số tìm đ n tránh né để iữ
khí tiết và một số thua keo n y y keo
khác để cố chí phục thù Dù yêu n ớc
th ơn dân nh n đứn tr ớc th i cuộc
các nhà nho khôn sao làm trái đ ợc với t
t ởn trun quân của đ o nho Nỗi l n
day dứt của họ đã đ ợc phản chiếu tron
các án thơ văn, đến bây i vẫn c n làm
lay độn tâm hồn n i đọc
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo ịnh Gian (1995), Những ngôi sao sáng
trên bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ
XIX, iểu luận - In l n thứ 2 có bổ sun , Nxb
Văn học
2. Bảo ịnh Gian , Ca Văn hỉnh (1977), Thơ
văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX,
Nxb Văn học, Hà Nội
3. Cau Huy Giu dịch (1971), Đại Việt sử ký toàn
thư, ập 2, Nxb Văn hóa hôn tin, Hà Nội
4. N uy n Văn H u (2012), Văn học miền Nam
lục tỉnh - Văn học Hán Nôm thời kháng Pháp và
thuộc Pháp, ập 3, NXB rẻ, P Hồ Chí Minh.
5. Phan hị Minh L , Ch ơn hâu (2005), Thơ
văn Phan Thanh Giản, Nxb Hội Nhà văn
6. N uy n Lộc (1976), Lịch sử văn học Việt
Nam nửa cuối thế kỷ XIX ( ái bản có bổ sun
và sửa chữa), Nxb i học và run học
chuyên n hiệp, Hà Nội
7. N uy n Duy Oanh (1974), Chân dung Phan
Thanh Giản, ủ sách Sử học, Nxb Bộ Văn
hóa - Giáo dục và hanh niên (miền Nam)
8. N uy n hị Kim Ph ợn (2013), “Chữ run
tron ca dao dân ca n i Việt”, p chí
Khoa học Xã hội hành phố Hồ Chí Minh, (7),
tr.43.
9. Ca Văn hỉnh, N uy n Sĩ Lâm, N uy n
h ch Gian (1982), Nguyễn Đình Chiểu toàn
tập, ập 1, Nxb i học và run học chuyên
n hiệp, Hà Nội
10. Ca Văn hỉnh, N uy n Sĩ Lâm, N uy n
h ch Gian (1982), Nguyễn Đình Chiểu toàn
tập, ập 2, Nxb i học và run học chuyên
n hiệp, Hà Nội
11. Pham hiều (chủ biên), Cao ự hanh, Lê
Minh ức (1986), Nguyễn Hữu Huân nhà yêu
nước kiên cường, nhà thơ bất khuất, Nxb
hành phố Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài: 04/10/2016 Biên tập xong: 15/11/2016 Duyệt đăn : 20/11/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 177_886_2215228.pdf