Quản lý rừng bền vững và tiến trình chứng chỉ rừng ở Việt Nam

Tài liệu Quản lý rừng bền vững và tiến trình chứng chỉ rừng ở Việt Nam: 1 QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG VÀ TIẾN TRÌNH CHỨNG CHỈ RỪNG Ở VIỆT NAM 2 QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG VÀ TIẾN TRÌNH CHỨNG CHỈ RỪNG Ở VIỆT NAM TS. Đào Công Khanh1 P. Viện trưởng Viện QLRBV và CCR Hệ thống quản lý lâm nghiệp bao gồm hệ thống quản lý Nhà nước về rừng, đất rừng và hoạt động lâm nghiệp, ngoài nhiệm vụ tạo ra một vùng sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến của ngành phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, các Công ty lâm nghiệp, các chủ rừng thuộc các thành phần kinh tế còn có trách nhiệm xây dựng những khu vực rừng phòng hộ, đặc dụng, cải thiện môi trường sinh thái, tạo ra nguồn thu nhập kinh tế, nâng cao đời sống của cộng đồng dân cư sống trong vùng rừng. Trong những thập niên gần đây, nhân loại đứng trước thảm họa suy thoái môi trường trên toàn cầu nên đã đề ra nhiều giải pháp quản lý bảo vệ rừng và phục hồi môi trường. Chứng chỉ rừng (CCR) được coi là công cụ mềm để thiết lập Quản lý rừng bền vững nhằm vừa đảm bảo đạt được các m...

pdf24 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 318 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Quản lý rừng bền vững và tiến trình chứng chỉ rừng ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG VÀ TIẾN TRÌNH CHỨNG CHỈ RỪNG Ở VIỆT NAM 2 QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG VÀ TIẾN TRÌNH CHỨNG CHỈ RỪNG Ở VIỆT NAM TS. Đào Công Khanh1 P. Viện trưởng Viện QLRBV và CCR Hệ thống quản lý lâm nghiệp bao gồm hệ thống quản lý Nhà nước về rừng, đất rừng và hoạt động lâm nghiệp, ngoài nhiệm vụ tạo ra một vùng sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến của ngành phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, các Công ty lâm nghiệp, các chủ rừng thuộc các thành phần kinh tế còn có trách nhiệm xây dựng những khu vực rừng phòng hộ, đặc dụng, cải thiện môi trường sinh thái, tạo ra nguồn thu nhập kinh tế, nâng cao đời sống của cộng đồng dân cư sống trong vùng rừng. Trong những thập niên gần đây, nhân loại đứng trước thảm họa suy thoái môi trường trên toàn cầu nên đã đề ra nhiều giải pháp quản lý bảo vệ rừng và phục hồi môi trường. Chứng chỉ rừng (CCR) được coi là công cụ mềm để thiết lập Quản lý rừng bền vững nhằm vừa đảm bảo đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, vừa đảm bảo các mục tiêu về môi trường và xã hội. Để đảm bảo rừng sản xuất được quản lý bền vững, trước hết các cơ sở sản xuất kinh doanh rừng phải đạt "Tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững". Để xác nhận Quản lý rừng bền vững, phải tổ chức đánh giá và cấp Chứng chỉ rừng. Lợi ích của cấp chứng chỉ là sản phẩm từ rừng có tính cạnh tranh cao trên những thị trường và đặc biệt là coi trọng bảo vệ rừng và môi trường. Một trong những mục tiêu của Chiến lược lâm nghiệp Quốc gia đến năm 2020 là: phải có 30% rừng sản xuất được cấp chứng chỉ và xuất khẩu đạt 7,8 tỷ USD trong đó có 7 tỷ USD là đồ gỗ. Vì vậy vấn đề Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng tại Việt Nam là vấn đề cấp thiết cần giải quyết hơn bao giờ hết. Quản lý rừng bền vững (QLRBV) là chương trình của cộng đồng quốc tế do những tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân chế biến, tiêu thụ gỗ cam kết chỉ sử dụng và lưu thông trên mọi thị trường thế giới những sản phẩm gỗ nào được khai thác hợp pháp từ các khu rừng đã được quản lý bền vững. Muốn vậy, chứng chỉ rừng và chứng chỉ gỗ được áp dụng như là một công cụ hữu hiệu để buộc mọi chủ rừng/đơn vị quản lý rừng đảm bảo quản lý rừng bền vững về cả 3 phạm trù: kinh tế, môi trường và xã hội. Những năm vừa qua, hợp tác về lâm nghiệp trong khối ASEAN tập trung chủ yếu vào quá trình Quản lý rừng bền vững, đây là động lực kích thích các chủ rừng phấn đấu để đạt được chứng chỉ rừng với quyền xuất khẩu vào mọi thị trường quốc tế, đồng thời được hưởng giá trị kinh tế cao hơn so với gỗ bán trong nước. Có thể coi Chứng chỉ rừng như là chứng chỉ ISO-9000, ISO-1400 nhưng đặc thù cho các doanh nghiệp quản lý kinh doanh rừng, sản xuất gỗ và lâm sản. Chính vì vậy tổ chức cấp Chứng chỉ rừng phải là các 1 Bài viết có sử dụng tư liệu, bài giảng, bài viết của Viện QLRBV và Chứng chỉ rừng, của một số tác giả: Nguyễn Ngọc Lung, ... và một số tác giả khác. 3 tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận quốc tế mới đảm bảo tính khách quan, công bằng và các tổ chức cấp chứng chỉ phải dựa trên bộ tiêu chuẩn có đủ các tiêu chí Quản lý rừng bền vững tương đương nhau ở mọi vùng cả về kinh tế, môi trường và xã hội. Hiện nay Việt Nam là một trong số các quốc gia đã có hệ thống quản lý rừng khá hoàn chỉnh về chính sách, thể chế, tổ chức quản lý và phân cấp quản lý. Song, cũng là giai đoạn chuyển mạnh từ lâm nghiệp Nhà nước sang lâm nghiệp xã hội; chuyển lâm nghiệp khai thác lâm sản là chính, sang sử dụng tổng hợp rừng với cả 3 chức năng kinh tế, môi trường, xã hội theo các tiêu chuẩn Quản lý rừng bền vững của Hội đồng Quản trị rừng thế giới (FSC) hay Chương trình Chứng chỉ rừng châu Âu (PEFC) đang được sự ủng hộ mạnh mẽ trên thế giới. Quản lý rừng bền vững là sự đóng góp của ngành lâm nghiệp đối với sự phát triển, và sự phát triển đó đã mang lại lợi ích kinh tế, môi trường và xã hội, đồng thời cân bằng giữa nhu cầu hiện tại và tương lai. 1. Các khái niệm 1.1. Quản lý rừng Khoa học về quản lý rừng đã được hình thành từ cuối thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ 19. Ban đầu chỉ chú trọng đến khai thác, sử dụng gỗ được lâu dài, liên tục; khi gỗ có giá trị thương mại trao đổi lớn. Chủ rừng muốn có nhiều lãi suất bằng cách nâng cao năng suất, sản lượng gỗ trên một đơn vị diện tích; trên cơ sở các giải pháp kỹ thuật tạo rừng, nuôi dưỡng, khai thác, thương mại dần dần trở thành các môn khoa học được nghiên cứu áp dụng. Suốt thế kỷ XIX và gần hết thế kỷ XX, khoa học quản lý rừng luôn nhằm mục tiêu sản lượng ổn định, nghĩa là năm sau không ít hơn năm trước; từ đó các lý thuyết về điều chỉnh sản lượng theo diện tích, theo cấp năng suất để hàng năm có thu hoạch gỗ, thu nhập đồng đều đã được xây dựng, phát triển cho môn quản lý /quy hoạch rừng2 (Forest management). Việt Nam, sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Đảng và Chính phủ đã chỉ đạo ngành lâm nghiệp tăng cường nghiên cứu và áp dụng các thành tựu của khoa học quản lý rừng nhằm giữ vững sản lượng khai thác ổn định và không lạm dụng vào nguồn tài nguyên rừng. 1.2. Quản lý rừng bền vững Nửa cuối của thế kỷ XX, trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, môi trường, con người chờ đợi ở rừng nhiều hơn nữa các khả năng cung ứng không chỉ về gỗ, lâm sản ngoài gỗ mà còn các chức năng bảo vệ môi trường như: phòng hộ nguồn nước, chống thiên tai, bảo tồn đa dạng sinh học, giáo dục thẩm mỹ, môi trường v.v.. môn quản lý rừng đã giao thoa với nhiều môn khoa học khác và cũng do vậy mang nhiều tên khác nhau như: quản lý rừng, điều chế rừng, quy hoạch rừng, thiết kế kinh doanh rừng. Ở Việt Nam, những năm 80 – 90 của thế kỷ 20, các đơn vị quản lý rừng tự nhiên (Lâm trường, các đơn vị làm kinh tế lâm nghiệp...) đều phải xây dựng Phương án điều chế rừng (Kế hoạch quản lý). Tuy nhiên các phương án điều chế rừng hay quy hoạch 2 Phạm Hoài Đức, Nguyễn Ngọc Lung – 2012. Bài giảng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng 4 rừng vẫn tập trung vào mục tiêu lợi dụng tài nguyên rừng là chính, tất cả các hoạt động quản lý rừng đều xoay quanh mục tiêu khai thác gỗ, phát triển kinh tế đất nước nói chung và của đơn vị nói riêng. Cùng với sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và phát triển kinh tế - xã hội, quản lý rừng đã chuyển từ quản lý kinh doanh gỗ sang quản lý kinh doanh nhiều mặt tài nguyên rừng, quản lý hệ sinh thái rừng và cuối cùng là Quản lý rừng bền vững trên cơ sở các tiêu chuẩn, tiêu chí được xác lập chặt chẽ, toàn diện về các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. Quản lý rừng bền vững đòi hỏi chủ rừng phải lập Kế hoạch quản lý rừng chi tiết, rõ ràng và giám sát chặt chẽ các hoạt động lâm nghiệp. Tất cả các hoạt động từ xây dựng, phát triển rừng đều tuân theo kế hoạch được lập, trong đó kế hoạch khai thác gỗ và bảo vệ môi trường giữ vai trò quan trọng. Đã có một thời gian dài các Công ty lâm nghiệp chỉ tập trung vào mục tiêu kinh tế, đạt được khối lượng khai thác đã đặt ra, ít hoặc không quan tâm tới vai trò của rừng trong phát triển xã hội và đặc biệt là bảo vệ môi trường của địa phương. Để đảm bảo rừng sản xuất được quản lý bền vững, trước hết các cơ sở sản xuất kinh doanh rừng phải đạt "Tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững". Mục tiêu chính của Quản lý rừng bền vững là “Quản lý những lâm phần (khu rừng) ổn định, nhằm đạt được những mục tiêu quản lý đã đề ra, đảm bảo sản xuất liên tục được những sản phẩm và dịch vụ của rừng như mong muốn, mà không làm giảm đáng kể những giá trị và năng suất trong tương lai của rừng và không gây ra những tác động không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội”3. Hiện tại, việc chuyển đổi từ quản lý rừng truyền thống sang Quản lý rừng bền vững đang được thúc đẩy một cách mạnh mẽ. Về lý luận cũng như thực tiễn, Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng ở Việt Nam vẫn còn khá mới mẻ, còn có nhiều khoảng trống chưa được đề cập. Mặc dù, đã có khoảng xấp xỉ 140.000 ha rừng được cấp chứng chỉ FSC, nhưng hầu như diện tích được cấp chứng chỉ là rừng trồng và được triển khai một cách tự phát từ một số doanh nghiệp có tiềm năng. Về quản lý rừng tự nhiên ở Việt Nam cho đến nay mới chỉ xây dựng được 10 mô hình thí điểm về Quản lý rừng bền vững rừng tự nhiên là rừng sản xuất. Đến tháng 5 năm 2015, mới có 2 mô hình QLRBV của Công ty Lâm nghiệp Đắc Tô, tỉnh Kon Tum (16.300 ha) và Công ty lâm nghiệp Nam Trường Sơn thuộc Tổng công ty Lâm Nông Công nghiệp Long Đại, tỉnh Quảng Bình (34.000 ha) được cấp chứng chỉ FSC. Vậy Quản lý rừng bền vững là gì? Định nghĩa quản lý rừng bền vững: Với chủ rừng có được các điều kiện thuận lợi: rừng sinh trưởng tốt, năng suất cao, ít bị sâu bệnh hại hay cháy rừng, cây rừng không bị chặt trộm, đất rừng không bị xói mòn hay thoái hóa v.v; bên cạnh đó lại có kế hoạch quản lý khoa học biết phát huy những lợi thế do thiên nhiên mang lại, tuân thủ pháp luật, do đó đạt hiệu quả kinh tế cao và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước và cộng đồng địa phương; việc duy trì nghề 3 Theo ITTO 5 rừng hoàn toàn thuận lợi. Nhưng ngược lại, có chủ rừng khác lại không đạt được như vậy vì rừng xấu, hiệu quả kinh tế kém, đất rừng ngày càng bị thoái hóa hoặc khô cằn, không có một kế hoạch quản lý hiệu quả, công việc sản xuất kinh doanh rừng gặp nhiều trở ngại, thậm chí có thể phải ngừng lại. Chủ rừng thứ nhất quản lý rừng tốt hơn, việc sản xuất kinh doanh được duy trì “bền vững” hơn chủ rừng thứ hai, từ đó mà xuất hiện cách gọi “Quản lý rừng bền vững” (QLRBV); ngược lại với cách quản lý kém hiệu quả, được gọi là “Quản lý rừng không bền vững”. Khó có thể có một định nghĩa chung về Quản lý rừng bền vững được mọi người nhất trí, nhưng chung quy các định nghĩa đều thống nhất là Quản lý rừng bền vững phải đảm bảo ba mục tiêu cơ bản là: a) Giữ vững sản xuất lâm nghiệp ổn định và phát triển lâu dài, đạt hiệu quả kinh tế cao; b) Bảo vệ và duy trì được diện tích và năng suất của rừng, không gây ô nhiễm môi trường sống; c) Góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội của địa phương như tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập v.v.. Theo định nghĩa của Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO) thì “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý những lâm phần (khu rừng) ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu quản lý đã được đề ra một cách rõ ràng như đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất của rừng trong tương lai và không gây ra những tác động xấu đối với môi trường tự nhiên và xã hội. Còn Tiến trình Helsinki của EU có định nghĩa như sau: “Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và đất rừng theo cách thức và cường độ phù hợp để duy trì đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái sinh và sức sống của rừng, và duy trì tiềm năng của rừng trong việc thực hiện, hiện tại và trong tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa phương, quốc gia, và toàn cầu, và không gây ra những tác động xấu đối với các hệ sinh thái khác”. Như vậy, có thể hiểu Quản lý rừng bền vững là cách quản lý đảm bảo được các lợi ích lâu dài, bền vững về kinh tế, xã hội, và môi trường cho con người cả ở thế hệ hiện tại và các thế hệ của con cháu trong tương lai. 1.3. Chứng chỉ rừng là gì? Cộng đồng quốc tế, Chính phủ và các cơ quan chính phủ, các tổ chức môi trường, xã hội v.v. đòi hỏi các chủ sản xuất kinh doanh rừng phải chứng minh rằng rừng của họ đã được quản lý bền vững. Người tiêu dùng sản phẩm rừng đòi hỏi các sản phẩm lưu thông trên thị trường phải được khai thác từ rừng đã được quản lý bền vững. Người sản xuất muốn chứng minh rằng các sản phẩm rừng của mình đặc biệt là gỗ, được khai thác từ rừng đã được quản lý một cách bền vững. Chứng chỉ rừng được coi là công cụ mềm để thiết lập quản lý rừng bền vững nhằm vừa đảm bảo đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, vừa đảm bảo các mục tiêu về môi trường và xã hội. Để xác nhận Quản lý rừng bền vững thì phải tổ chức đánh giá và cấp chứng chỉ rừng. 6 Vì vậy: Chứng chỉ rừng là sự xác nhận bằng giấy chứng chỉ rằng đơn vị quản lý rừng được chứng chỉ đã đạt những tiêu chuẩn về Quản lý rừng bền vững do tổ chức chứng chỉ hoặc tổ chức được uỷ quyền chứng chỉ cấp. Như vậy Quản lý rừng bền vững là mục tiêu, còn Chứng chỉ rừng như là một trong những công cụ hay biện pháp chủ yếu để đạt mục tiêu đó. Có hai loại chứng chỉ chính áp dụng cho các khu rừng đạt tiêu chuẩn Quản lý rừng bền vững và các sản phẩm lâm nghiệp được chế biến, hình thành từ nguồn nguyên liệu gỗ có chứng chỉ, đó là: i) Chứng chỉ FM/CoC (Forest Management Certificate) – Chứng nhận Quản lý rừng: là chứng nhận cấp cho một hoặc các khu rừng xác định đã tuân thủ, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu liên quan đến các tiêu chuẩn bền vững về môi trường, kinh tế và xã hội từ lúc trồng, quản lý đến khâu khai thác. ii) Chứng chỉ CoC (Chain of Custody Certificate) – Chứng nhận “Chuỗi hành trình sản phẩm”: là giấy chứng nhận cấp cho các tổ chức đã chứng minh được các sản phẩm chế biến từ gỗ được giao dịch từ các nguồn gốc đã được cấp chứng nhận, các sản phẩm này có thể sử dụng nhãn FSC và dấu chứng nhận của tổ chức Chứng nhận. Bên cạnh đó còn có chứng chỉ gỗ có kiểm soát (CW – Controlled Wood). Là chứng chỉ xác nhận gỗ hoặc vật liệu gỗ có một xác suất thấp đối với các loại gỗ từ các nguồn không thể chấp nhận bao gồm: i) Gỗ khai thác trái phép; ii) Gỗ khai thác trong phạm vi các quyền của truyền thống và dân sự; iii) Gỗ khai thác từ các khu rừng trong đó các giá trị bảo tồn cao đang bị đe dọa bởi các hoạt động quản lý; iv) Gỗ khai thác trong các khu rừng được chuyển đổi từ rừng tự nhiên và bán tự nhiên thành rừng trồng hoặc đất không có rừng; v) Gỗ từ rừng, trong đó có loài biến đổi di truyền mới được trồng. Gỗ có kiểm soát dùng để trộn với gỗ có chứng chỉ FM (FM Mix) khi chế biến thành sản phẩm. Tính đến cuối năm 2014, các chủ rừng, các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu nước ta mới chỉ được cấp 374 chứng chỉ CoC và 136.706 ha rừng được cấp chứng chỉ FM. Con số này thực sự là quá ít ỏi so với diện tích rừng hiện có ở nước ta. Phần lớn các hoạt động quản lý rừng của các đơn vị kinh doanh lâm nghiệp vẫn chưa đạt được các tiêu chuẩn tối thiểu theo quy định để được FSC cấp chứng chỉ. Cơ sở để FSC (Hội đồng quản trị rừng thế giới – Forest Stewardship Coucil) chứng nhận quản lý rừng cho chủ rừng là Bộ tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững gồm 10 nguyên tắc (P – Principle) và 56 tiêu chí (C – Criteria). Trong đó các tiêu chí liên quan đến xã hội bao gồm: 1.2, 1.4, 1.5 (Nguyên tắc 1); 2.1, 2.2, 2.3 (Nguyên tắc 2); 3.1, 3.2, 3.4 (Nguyên tắc 3) và 4.1, 4.2, 4.3, 4.5 (Nguyên tắc 4). Các tiêu chí liên quan đến môi trường gồm: 6.1, 6.2, 6.5, 6.6, 6.7, 6.9, 6.10 (Nguyên tắc 6); 9.1, 9.2, 9.3 (Nguyên tắc 9); 10.2, 10.3, 10.4, 10.5, 10.6, 10.7, 10.9 (Nguyên tắc 10). Các tiêu chí còn lại là phức hợp của 3 nhóm Kinh tế, Xã hội và Môi trường. Người tiêu dùng thể hiện thái độ tích cực với rừng thông qua việc sử dụng các sản phẩm từ gỗ có chứng chỉ rừng và tẩy chay các mặt hàng không có nguồn gốc xuất xứ. Quá trình sản xuất các sản phẩm trên từ khâu khai thác đến sản phẩm và tiêu thụ cần trải qua nhiều bước bao gồm khai thác, chế biến, phân phối và tiêu thụ được gọi là chuỗi hành trình sản phẩm (Chain of Custody - CoC). Bằng cách kiểm định từng bước trong 7 quá trình này, chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm đảm bảo với khách hàng rằng các sản phẩm đã được chứng chỉ mà họ mua thực sự có nguồn gốc từ khu rừng đã được chứng chỉ. Sản phẩm của các công ty đã được chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm cũng được mang nhãn FSC. 2. Nội dung quản lý rừng bền vững. Các bộ tiêu chuẩn QLRBV khác nhau thường có sự khác nhau về những nội dung cụ thể, nhưng nhìn chung đều bao gồm những phần sau đây: a) Tuân thủ luật pháp.  Quyền sử dụng đất hợp pháp trên diện tích mà chủ rừng đang quản lý;  Tuân thủ đầy đủ luật pháp hiện hành và các quy định dưới luật của Nhà nước về các lĩnh vực liên quan đến sản xuất kinh doanh rừng. b) Đảm bảo duy trì sản xuất tối ưu, hiệu quả kinh tế cao.  Có kế hoạch quản lý phù hợp, hiệu quả;  Năng suất, chất lượng sản phẩm rừng bền vững;  Rừng được bảo vệ tốt, an toàn;  Kiểm tra, giám sát hiệu quả; quản lý và điều chỉnh kế hoạch phù hợp;  Đa dạng hóa sản phẩm rừng, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh rừng. c) Tôn trọng lợi ích của công nhân, người dân và cộng đồng địa phương.  Đảm bảo lợi ích hợp pháp của người lao động;  Thực hiện lấy ý kiến đóng góp của các bên liên quan nhằm cải thiện chất lượng các hoạt động quản lý của đơn vị;  Có đánh giá tác động kinh tế, xã hội và có biện pháp khắc phục những tác động tiêu cực trong quá trình quản lý rừng và đất rừng;  Tôn trọng tập tục, văn hóa và các quyền theo phong tục tập quán truyền thống của cộng đồng địa phương;  Có đóng góp cho phúc lợi, an sinh xã hội trong khu vực. d) Bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học.  Đánh giá tác động môi trường được thực hiện và khắc phục những tác động xấu có thể có do các hoạt động quản lý rừng gây ra;  Bảo vệ các loài cây, con quý hiếm;  Bảo vệ các hệ sinh thái trong khu vực;  Sử dụng phân bón, hóa chất an toàn với môi trường;  Có quy chế xử lý chất thải. e) Những nội dung liên quan đến rừng trồng.  Không chuyển rừng tự nhiên thành rừng trồng;  Chọn loài cây trồng phù hợp, an toàn sinh thái;  Có quy chế bảo vệ đất chống xói mòn, thoái hóa;  Có biện pháp phòng trừ sâu bệnh, cháy rừng;  Dành một phần diện tích đang quản lý cho phục hồi rừng tự nhiên. 8 3. Tại sao phải quản lý rừng bền vững? Quản lý rừng bền vững là một bộ phận của phát triển bền vững, nghĩa là sự phát triển có hiệu quả về kinh tế, không gây tác hại đến môi trường sống (kẻ cả của người và các loài sinh vật) và có đóng góp thiết thực cho giải quyết các vấn đề xã hội cả cho hiện nay và mãi mãi về sau. Phát triển bền vững là một yêu cầu cấp bách hiện nay của toàn thế giới, vì trong quá khứ và hiện tại, sự phát triển không bền vững đã và đang làm suy giảm nghiêm trọng tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường sống, đe dọa sự sống còn của chính con người. Hiện nay, trên phạm vi toàn thế giới cũng như từng quốc gia, quản lý rừng không bền vững đã và đang là nguyên nhân chủ yếu làm cho diện tích rừng ngày một giảm, năng suất chất lượng rừng ngày càng kém, nhiều loài cây rừng và động vật hoang dã ngày càng ít hoặc tuỵệt chủng; môi trường sống bị đe dọa nghiêm trọng như lũ lụt, khô hạn, xói mòn đất ngày một gia tăng; đời sống của người dân nhất là ở các cộng đồng địa phương sống trong và gần rừng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Với quản lý rừng trồng, nếu chọn loài cây trồng không phù hợp có thể làm xói mòn đất, rừng bị sâu bệnh, năng suất kém; không giải quyết tốt các vấn đề xã hội trong quản lý rừng sẽ dẫn đến khai thác trộm hoặc lấn chiếm đất rừng, cường độ khai thác không hợp lý dẫn đến làm mất khả năng tái sinh của rừng, v.v. Cần thực hiện quản lý rừng bền vững vì: a) Động lực nội bộ. Cần giữ vững và phát triển sản xuất lâm nghiệp lâu dài, tăng thu nhập từ rừng, hiệu quả kinh tế cao là mong muốn của các chủ rừng. Tuy nhiên, nghề rừng có rất nhiều khó khăn như các chủ rừng ở nông thôn miền núi thường là nghèo, thiếu vốn đầu tư và kỹ thuật, đất trồng rừng thường là loại xấu, đòi hỏi đầu tư cao, cây rừng lại lâu năm mới cho thu nhập, thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định, môi trường xã hội phức tạp đòi hỏi chi phí bảo vệ cao, thiên tai dịch bệnh nhiều v.v. Nhưng đối với các hộ chỉ có thể sống được bằng nghề rừng thì không có con đường nào khác ngoài việc phải duy trì và phát triển nghề rừng để có thu nhập cao, ổn định và có đủ nguồn lực tái đầu tư . Thực hiện tiêu chuẩn Quản lý rừng bền vững là điều kiện chủ yếu giúp chủ rừng đạt được mục tiêu này. b) Nguyên nhân bên ngoài. Chủ rừng thực hiện Quản lý rừng bền vững sẽ được cấp chứng chỉ, nên được bán sản phẩm ở các thị trường đòi hỏi có chứng chỉ và được giá cao hơn. Ở nhiều thị trường quốc gia và quốc tế người ta từ chối mua các sản phẩm rừng không có chứng chỉ QLRBV ngay cả khi bán với giá rẻ. Đây là “áp lực thị trường”, buộc các nhà sản xuất gỗ và sản phẩm từ gỗ phải thực hiện QLRBV nếu muốn tiếp tục sản xuất kinh doanh. Mặc dù xu hướng này chỉ mới xuất hiện vào đầu những năm 1990, nhưng nay đã lan rộng ra nhiều khu vực rộng lớn, nhất là những thị trường tiêu thụ gỗ chủ yếu như Tây Âu, Bắc Mỹ và các nước công nghiệp phát triển. 4. Tại sao cần chứng chỉ rừng? Ngày nay toàn thế giới ngày càng quan tâm đến tình trạng diện tích và chất lượng rừng ngày một suy giảm, ảnh hưởng lớn đến môi trường sống và khả năng cung cấp sản phẩm rừng cho phát triển bền vững cũng như nhu cầu hàng ngày của người dân. Vấn đề 9 cần được giải quyết là làm thế nào quản lý kinh doanh rừng phải vừa đảm bảo lợi ích kinh tế, đem lại lợi ích thiết thực cho các cộng đồng dân cư sống trong rừng, vừa không gây tác động xấu đến môi trường sống, tức là thực hiện được quản lý rừng bền vững. Như đã trình bày ở trên, có thể nói Chứng chỉ rừng là cần thiết vì:  Cộng đồng quốc tế, chính phủ và các cơ quan chính phủ, các tổ chức môi trường, xã hội v.v. đòi hỏi các chủ sản xuất kinh doanh rừng phải chứng minh rằng rừng của họ đã được quản lý bền vững.  Người tiêu dùng sản phẩm rừng đòi hỏi các sản phẩm lưu thông trên thị trường phải được khai thác từ rừng đã được quản lý bền vững.  Người sản xuất muốn chứng minh rằng các sản phẩm rừng của mình, đặc biệt là gỗ được khai thác từ rừng được quản lý một cách bền vững. Ngay từ thập kỷ 1990 Tổ chức gỗ nhiệt đới (International Tropical Timber Organization –ITTO) đã đề ra mục tiêu đến năm 2000 tất cả các sản phẩm rừng của nhóm các nước sản xuất thành viên phải có nguồn gốc từ rừng được quản lý bền vững. Năm 1998 Liên kết Ngân hàng thế giới – Quỹ Bảo tồn thiên nhiên (WB –WWF) đề ra mục tiêu đến năm 2005 toàn thế giới có 200 triệu ha rừng, gồm 100 triệu ha rừng nhiệt đới và 100 triệu ha rừng ôn đới, được chứng chỉ. Tính đến năm 2014, diện tích rừng được chứng chỉ bởi các quy trình chủ yếu trên toàn thế giới đã xấp xỉ 449,3 triệu ha cho 83 nước4. Như vậy là tổng số diện tích rừng được chứng chỉ đã vượt chỉ tiêu của Liên kết WB - WWF, nhưng diện tích rừng nhiệt đới được chứng chỉ còn rất nhỏ bé, còn rất xa so với mục tiêu. Chứng chỉ rừng bổ sung cho chính sách lâm nghiệp. Quản lý rừng thường chịu các tác động của:  Luật pháp và chính sách về lâm nghiệp thông qua các quyết định, nghị định, thông tư, chỉ thị, hướng dẫn v.v. của Nhà nước và các hiệp định, công ước quốc tế, gọi chung là những công cụ cứng.  Cơ chế thị trường, các hình thức khuyến khích vật chất, tuyên truyền vận động, khen thưởng v.v., gọi chung là những công cụ mềm. Chứng chỉ rừng, bao gồm cả gắn nhãn sản phẩm, dựa vào động lực thị trường là một công cụ mềm có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý rừng. Với Việt Nam, các cơ quan Nhà nước vừa đóng vai trò tạo điều kiện cho Chứng chỉ rừng vừa là đối tượng tác động của Chứng chỉ rừng. Các chủ rừng lớn là các công ty lâm nghiệp và Chứng chỉ rừng trước hết nhằm vào các đối tượng này. Vì vậy nếu Chính phủ không “bật đèn xanh” thì Chứng chỉ rừng sẽ không thể phát triển. Chính phủ có vai trò đặc biệt quan trọng về các mặt sau đây: 4 Joern Struwe, Ban Chính sách và Tiêu chuẩn (FSC), 4/2015. Bài giảng chuyển đổi Bộ tiêu chuẩn FSC V 5.0 10 Hình 1. Các nhân tố tác động vào quản lý rừng5  Ban hành các chính sách phù hợp để chủ rừng có thể thực hiện tiêu chuẩn;  Hỗ trợ kỹ thuật và kinh phí cho cải thiện quản lý rừng, nhất là việc xây dựng kế hoạch quản lý dài hạn theo yêu cầu của tiêu chuẩn;  Tăng cường truyền thông nâng cao hiểu biết về QLRBV và CCR;  Tạo điều kiện xâm nhập thị trường gỗ quốc tế yêu cầu chứng chỉ;  Hỗ trợ nâng cao năng lực cho Tổ công tác quốc gia (National Working Group) và các cơ quan chức năng trong việc xây dựng bộ tiêu chuẩn Chứng chỉ rừng Việt Nam và các hoạt động khuyến khích Chứng chỉ rừng. Chứng chỉ rừng làm cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Thực tế đã chứng minh có thể sản xuất các sản phẩm rừng, đặc biệt là gỗ và các sản phẩm từ gỗ, mà không làm suy giảm tài nguyên rừng và gây tác hại đến môi trường sống nếu thực hiện Quản lý rừng bền vững. Khái niệm thương mại và phát triển bền vững được hình thành trên cơ sở cho rằng có thể sử dụng các biện pháp thương mại để kiểm soát một cách có hiệu quả các tác hại về môi trường: Phát triển một hệ thống thị trường chỉ chấp nhận tiêu thụ các sản phẩm có chứng chỉ an toàn môi trường. Cuối những năm 1980 nhiều tổ chức phi chính phủ vận động tẩy chay gỗ rừng nhiệt đới để giảm nhu cầu trên thị trường thế giới. Sau đó chính quyền nhiều thành phố lớn ở Hà Lan, Đức, Hoa Kỳ 5 Nguồn: Cẩm Nang Ngành Lâm Nghiệp. Chương Chứng Chỉ Rừng, FSSP & GTZ 2006 Cam kết quốc tế Mục tiêu phát triển Chính sách lâm nghiệp Quản lý rừng Phong trào môi trường Thị trường 11 cũng có lệnh cấm sử dụng gỗ rừng nhiệt đới trong những công trình xây dựng bằng vốn ngân sách do lo ngại làm suy kiệt rừng nhiệt đới. Đến năm 1990 Quốc hội Australia ban hành luật hạn chế nhập khẩu gỗ từ những nước không thực hiện QLRBV. Biện pháp cấm và tẩy chay thương mại và sử dụng gỗ rừng nhiệt đới cũng thường xuyên được thảo luận ở Hội đồng gỗ nhiệt đới quốc tế (International Tropical Timber Council - ITTC) trong suốt những năm 1988-1992. Nhiều thị trường rộng lớn Châu Âu và Bắc Mỹ bắt đầu thực hiện chính sách chỉ cho phép gỗ có chứng chỉ được tham gia. Đến đầu những năm 2000 Nhóm G8 (các nước giầu nhất) tuyên bố các chính phủ thành viên cam kết tìm biện pháp đáp ứng những nhu cầu về gỗ và nguyên liệu giấy của mình chỉ từ những nguồn hợp pháp và bền vững. Những cam kết này sau đó đã trở thành chính sách của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và Liên minh Châu Âu (EU)6. Gần đây EU đã đề ra Kế hoạch hành động thi hành Luật lâm nghiệp, Quản trị và Thương mại, trong đó công cụ thương mại được coi là chìa khoá để thực hiện cam kết của các nước thành viên. Ở Việt Nam những doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ và giấy hiện đang chịu áp lực rất lớn của thị trường đòi hỏi phải có Chứng chỉ rừng FSC. Trên thị trường nảy sinh vấn đề người tiêu dùng sản phẩm rừng đòi hỏi sản phẩm mà họ mua phải có nguồn gốc từ rừng đã được quản lý bền vững và người sản xuất muốn và phải chứng minh rừng của mình đã được quản lý bền vững. Chứng chỉ rừng độc lập cung cấp thông tin tin cậy cho người tiêu dùng về những yêu cầu mà họ quan tâm, tức là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Vì vậy, đối với chứng chỉ rừng vấn đề quan trọng bậc nhất chính là độ tin cậy về đảm bảo tiêu chuẩn, tính độc lập và khách quan của tổ chức chứng chỉ7. Chứng chỉ CoC Hình 2. Mối quan hệ giữa Chứng chỉ rừng và thị trường8 6 Phạm Hoài Đức, Nguyễn Ngọc Lung-2012; Bài giảng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng. 7 Phạm Hoài Đức, Nguyễn Ngọc Lung – 2012; Bài giảng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng 8 Cẩm nang ngành Lâm nghiệp. Chương Chứng chỉ rừng. FSSP & GTZ 2006 Rừng có chứng chỉ Gắn nhãn sản phẩm Thị trường 12 Để thúc đẩy thương mại sản phẩm rừng có chứng chỉ, cần phải tăng cường chứng chỉ rừng và chứng chỉ CoC. Do nhu cầu về sản phẩm có chứng chỉ trên thị trường đang tăng nhanh, thế giới ngày càng tăng cường tẩy chay sản phẩm khai thác bất hợp pháp hay không an toàn môi trường, trong khi đó chứng chỉ rừng tiến triển rất chậm chạp ở nhiều nước đang phát triển nhiệt đới trong đó có Việt Nam, do trình độ quản lý rừng ở các nước này hãy còn rất thấp kém, chưa đạt tiêu chuẩn Chứng chỉ rừng. Đây cũng là tồn tại lớn nhất hiện nay của tất cả các quy trình Chứng chỉ rừng trên thế giới. Chứng chỉ rừng mang lại lợi ích gì? Những lợi ích chủ yếu do chứng chỉ rừng mang lại gồm: - Lợi ích kinh tế: Thực tế đã chứng minh, gỗ khai thác từ một khu rừng được cấp chứng chỉ Quản lý rừng (Chứng chỉ FM) có thể mang lại giá trị kinh tế cao hơn hẳn gỗ khai thác từ rừng không hoặc chưa được cấp chứng chỉ. Nghiên cứu về mô hình Chứng chỉ rừng của nhóm hộ nông dân tại xã Trung Sơn, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng trị cho thấy: Gỗ bán từ rừng đã có chứng chỉ FSC/FM cao hơn giá gỗ từ rừng không có chứng chỉ là 24%/1 ha 9. Tại vùng dự án Phát triển ngành lâm nghiệp (WB3) do Ngân hàng thế giới tài trợ ở xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, tỉnh TT Huế cũng cho thấy các Nhóm hộ trồng rừng ở đây khi bán gỗ từ rừng có chứng chỉ FSC/FM thu nhập kinh tế cao hơn từ 28% đến 30% so với gỗ từ rừng không có chứng chỉ10. - Nâng cao lòng tin của người tiêu dùng: Người tiêu dùng sản phẩm rừng đòi hỏi các sản phẩm lưu thông trên thị trường phải được khai thác từ rừng đã được quản lý bền vững. Vì vậy Chứng chỉ rừng giúp củng cố lòng tin của người mua hàng; - Đảm bảo khả năng thâm nhập thị trường tốt hơn thông qua sự khác biệt do chứng chỉ rừng mang lại; Đặc biệt trong những năm gần đây các thị trường quan trọng như Hoa Kỳ và châu Âu luôn đòi hỏi gỗ và sản phẩm từ gỗ khi thâm nhập thị trường này phải có Chứng chỉ. Đối với Việt Nam, hai thị trường này là đầu ra cực kỳ quan trọng đối với ngành chế biến khi hàng năm chúng ta xuất khẩu khoảng 75% sản phẩm lâm nghiệp vào hai thị trường nói trên; - Bảo vệ nguồn tài nguyên rừng: Chứng chỉ rừng yêu cầu các chủ rừng phải tuân thủ các nguyên tắc, tiêu chí về Quản lý rừng bền vững. Bảo vệ tài nguyên rừng, đa dạng sinh học, phục hồi, các giá trị bảo tồn cao, nước, giảm phát thải carbon; giám sát hoạt động sử dụng hóa chất, sinh vật biến đổi gen, chuyển đổi rừng trong các hoạt động quản lý của mình. - Xã hội: Bảo đảm sức khỏe và an ninh xã hội, phát triển quyền các dân tộc bản địa, quyền cộng đồng và người lao động. 9 Dương Duy Khánh, 2011. Nghiên cứu đánh giá mô hình chứng chỉ rừng theo nhóm các hộ gia đình trồng rừng sản xuất tại xã Trung Sơn, huyện Gio Linh, tỉnh Quẩng Trị. 10 Đào Công Khanh, 2014 (GFA Mission). Kết quả điều tra, đánh giá định kỳ Chứng chỉ rừng theo nhóm hộ tại dự án WB3. 13 - Hệ thống cấp chứng chỉ được thừa nhận để giám sát việc tuân thủ các tiêu chuẩn về quản lý rừng có trách nhiệm và định giá các dịch vụ hệ sinh thái . Điều này giúp cho nguồn tài nguyên xanh sẽ không bị lạm dụng bởi con người; - Nâng cao hình ảnh thương hiệu của chủ rừng: Chứng minh rằng các sản phẩm từ rừng của mình đặc biệt là gỗ, được khai thác từ các khu rừng đã được quản lý một cách bền vững. Một hệ thống dán nhãn sản phẩm mang lại lợi ích cho đơn vị quản lý rừng có trách nhiệm. 5. Hiện trạng và quá trình phát triển của Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng. 5.1. Trên thế giới Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, nhân loại đứng trước thảm hoạ suy thoái môi trường trên toàn cầu nên đã đề ra nhiều giải pháp bảo vệ và phục hồi môi trường, trong đó có phong trào quản lý rừng bền vững. QLRBV là sáng kiến của cộng đồng quốc tế do những người chế biến, tiêu thụ gỗ cam kết chỉ sử dụng và lưu thông trên mọi thị trường thế giới những sản phẩm gỗ nào được khai thác hợp pháp từ các khu rừng đã được quản lý bền vững. Muốn vậy, chứng chỉ rừng và chứng chỉ gỗ được áp dụng như là một công cụ hữu hiệu để buộc mọi chủ rừng đảm bảo quản lý rừng bền vững về cả 3 phạm trù: kinh tế, môi trường, xã hội. Tính đến đầu năm 2015, toàn thế giới đã có 449,9 ha rừng đạt tiêu chuẩn Quản lý rừng bền vững và được cấp chứng chỉ bởi mọi hệ thống. Chủ yếu là hệ thống Chứng chỉ FSC và PEFC. Trong đó riêng chứng chỉ FSC đã cấp cho 83 nước với 1,292 triệu chứng chỉ FM/CoC và 28.964 chứng chỉ CoC. Nước đứng đầu về diện tích rừng được cấp chứng chỉ Quản lý rừng bền vững là Canada với 23 triệu ha và đứng thứ hai là Nga với diện tích được cấp chứng chỉ là 21 triệu ha. Các quy trình Chứng chỉ rừng gồm quy trình Quốc tế như: FSC, PEFC, SFI...và các quy trình Quốc gia như: MTCC (của Malaysia), LEI (của Indonesia). Vùng châu Á – Thái Bình Dương có 12.329.519 ha được cấp chứng chỉ; hiếm 6.75 % diện tích chứng chỉ toàn cầu với 18 nước tham gia. Trong đó đứng đầu là Trung Quốc với 3.413.857 ha và thứ hai là Thổ Nhĩ Kỳ (phần lãnh thổ châu Á) với 2.346.799 ha. Về chứng chỉ CoC: Có 28.640 chứng chỉ cho toàn cầu, khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã được cấp 8.004 chứng chỉ chiếm 28% số chứng chỉ toàn cầu với số nước tham gia là 34 nước. Đứng đầu là Trung Quốc với 3.527 chứng chỉ và thứ hai là Nhật Bản với 1.114 chứng chỉ. 14 Biểu đồ biểu diễn sự gia tăng Chứng chỉ CoC vùng châu Á – Thái Bình Dương Các hệ thống Chứng chỉ rừng Quốc tế đều tập trung xây dựng, phát triển và hoàn thiện các nguyên tắc, tiêu chí, chỉ số nhằm nâng cao trách nhiệm của các chủ rừng trong hoạt động bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường đặc biệt đối với rừng tự nhiên; đảm bảo sự công bằng và phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó cũng khuyến khích phát triển và sử dụng các sản phẩm từ rừng trồng, nhằm giảm sức ép đối với rừng tự nhiên trên cơ sở các tiêu chuẩn giám sát kỹ thuật (Nguyên tắc 10 – Rừng trồng). Xây dựng và phát triển các Bộ tiêu chuẩn Chứng chỉ rừng làm tăng lợi ích cấp chứng chỉ và phù hợp với các tiến trình quốc tế. Tăng cường khả năng áp dụng cho các đối tượng sử dụng tiêu chuẩn (Cơ quan cấp chứng chỉ/đối tượng có chứng chỉ). Việc cấp Chứng chỉ rừng có thể đóng góp cho các chương trình REDD+ quốc gia và chỉ ra cách thức thực hiện đảm bảo an toàn môi trường và xã hội. Xây dựng và phát triển các Bộ tiêu chuẩn Chứng chỉ rừng giúp giảm thiểu rủi ro từ các hoạt động của đơn vị quản lý rừng; vì:  „Rủi ro‟ là khả năng một tác động tiêu cực không thể chấp nhận đuợc phát sinh từ bất kỳ hoạt dộng nào của Ðơn vị quản lý kết hợp dẫn tới mức độ nghiêm trọng của hậu quả.  “Rủi ro” là chức năng của các tác động tiêu cực tiềm năng từ các hoạt động quản lý dối với giá trị xã hội, kinh tế và môi truờng trong và xung quanh Ðơn vị quản lý.  Mức độ “rủi ro” phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội quốc gia và trong khu vực, loại rừng, loại thiên tai, mức dộ tham nhũng, các biện pháp lâm sinh, sự hiện diện của nguời dân bản dịa ở cấp độ trong nuớc và khu vực và tính dễ bị tổn thuơng của các giá trị môi truờng. 5.2. Tại Việt Nam 15 Bối cảnh và tiến trình Việt Nam tham gia quá trình QLRBV từ năm 1998 tới nay, tuy diện tích rừng được cấp chứng chỉ FM và chứng chỉ Chuỗi hành trình sản phẩm chưa nhiều; nhưng được sự hưởng ứng của các từ Chính phủ, Bộ NN & PTNT và các Bộ chuyên ngành, các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương, sự hăng hái tự nguyện của các chủ rừng, tiến trình Quản lý rừng bền vững đã đạt được một số tiến bộ đáng kể, đặc biệt là tại các vùng trồng và khai thác gỗ nguyên liệu, chế biến gỗ xuất khẩu. Song, nhiều trở ngại đặc thù của Việt Nam cũng xuất hiện, đó là quá trình chuyển đổi các chủ rừng quản lý theo cơ chế bao cấp nhà nước như một đơn vị sự nghiệp công ích lâm nghiệp sang hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo pháp luật. Trước đây, đơn vị quản lý rừng đều thuộc Nhà nước, gọi là lâm trường quốc doanh (LTQD) và được thành lập theo kết cấu tổ chức hành chính với đa chức năng tại các vùng miền núi, dân tộc ít người, dân trí thấp, hạ tầng chưa mở mang. Ngoài việc quản lý rừng, khai thác gỗ còn được cấp kinh phí để giữ gìn an ninh, vận động nhân dân thực hiện mọi chính sách xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục, khuyến nông, khuyến lâm, xây dựng làng bản và cơ sở hạ tầng. Các chính sách tổ chức kinh doanh quản lý đều do Nhà nước chỉ đạo, cho phép, mà chính sách lại thay đổi quá nhiều, quá nhanh; từ một doanh nghiệp lâm nghiệp được kinh doanh toàn diện, lợi dụng tổng hợp trước 1980 chuyển sang chỉ được trồng rừng, bảo vệ rừng, bán cây đứng cho các doanh nghiệp khai thác vận chuyển và tách hoạt động chế biến xuất khẩu riêng ra thành công ty riêng, các kế hoạch trồng rừng, khai thác gỗ đều do Nhà nước cấp chỉ tiêu, rất nhiều khi lâm trường không được tự làm mà bắt buộc phải thuê khoán cho dân hoặc các doanh nghiệp khác tới làm. Từ đó lợi ích và động lực để chủ rừng quản lý rừng bền vững nhằm xin cấp chứng chỉ bị loại trừ. Giai đoạn này, nhiều lâm trường và cơ quan quản lý cấp tỉnh xây dựng lại cơ chế chính sách, giao quyền tự chủ kế hoạch, tự chủ tài chính cho lâm trường và quyết tâm đổi mới lâm trường thành doanh nghiệp lâm nghiệp sản xuất lâm sản theo Quyết định 187/TTg (1999) của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới tổ chức và quản lý Lâm trường quốc doanh, và nghị quyết số 28/NQTƯ của Bộ chính trị Trung ương Đảng về tiếp tục sắp xếp đổi mới và phát triển nông lâm trường quốc doanh. Sau nhiều năm thực hiện và đánh giá các chính sách đổi mới, chuyển đổi cơ chế quản lý11; Chính phủ đã ban hành các văn bản quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình Quản lý rừng bền vững ở nước ta như: Quyết định về Quy chế Quản lý rừng (Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg); Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2020 (Quyết định 18/2007/QĐ-TTg); Quyết định phê duyệt Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 – 2020 (Quyết định số 18/2012/QĐ-TTg); Nghị định về “Sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty nông, lâm nghiệp (Nghị định số 118/2014/NĐ – CP). Các văn bản của Chính phủ đều nhấn mạng đến tầm quan trọng của Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng. Trên cơ sở định hướng và chỉ đạo của Chính phủ, bộ NN & PTNT cũng đã ban hành các văn bản chỉ đạo 11 Nguyễn Ngọc Lung, Ngô Đình Thọ - Quản lý rừng bền vững ở Việt Nam 16 các cơ quan trực thuộc thực hiện tiến trình Quản lý rừng bền vững hướng tới Chứng chỉ rừng. Đặc biệt, Quyết định số 2242/2014/QĐ-TTg ngày 11 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt đề án tăng cường quản lý khai thác gỗ rừng tự nhiên giai đoạn 2014-2020” và ngày 03 tháng 11 năm 2014, trên cơ sở các kinh nghiệm thực tế, bộ NN&PTNT đã ban hành Thông tư số 38/2014/TT-BNNPTNT “Hướng dẫn về Phương án Quản lý rừng bền vững”. Đây bắt đầu một giai đoạn “chuyển mình” thực sự về QLRBV và Chứng chỉ rừng đối với các chủ rừng thuộc mọi thành phần kinh tế. Tháng 2 năm 1998 Tổ công tác quốc gia (National Working Group - NWG) về Quản lý rừng bền vững thuộc Cục Lâm nghiệp ra đời và hoạt động, đến năm 2000 được chuyển thành tổ chức NGO thuộc Hội KHKT LN VN theo quy chế thành viên FSC. NWG đã hoạt động theo hướng:  Nâng cao nhận thức cho các cơ quan Nhà nước, chủ rừng và cộng đồng dân cư về Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng.  Dự thảo tiêu chuẩn quốc gia tuân theo các nguyên tắc do FSC hướng dẫn và phê duyệt phù hợp chính sách tập quán quản lý rừng của Việt Nam.  Hỗ trợ chủ rừng và cộng đồng dân cư thực thi Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng thông qua các mô hình thử nghiệm tại các chủ thể chủ rừng là lâm trường quốc doanh, Công ty lâm nghiệp, hộ gia đình trồng rừng, liên doanh liên kết v.v..  Hiện nay mục tiêu và hiệu quả của Quản lý rừng bền vững và đảm bảo rừng ổn định về diện tích lâm phận, cải thiện tốt nhất và bền vững về sản lượng và năng suất, đây chính là cải thiện khả năng hấp thụ và lưu trữ CO2 trong cây và rừng. Vì vậy cần có sự liên kết giữa hai hoạt động có một số mục tiêu, hiệu quả giao nhau để tăng tốc độ và sức mạnh. Việt Nam đã đưa Quản lý rừng bền vững – Chứng chỉ rừng thành chương trình trọng điểm của Chiến lược phát triển lâm nghiệp và thực thi 2 năm đầu. Tháng 5 năm 2006, Viện nghiên cứu Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ (SFMI) được thành lập theo quyết định ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Trung ương Hội khoa học và kỹ thuật Lâm nghiệp (Liên hiệp Hội KHKT Việt Nam) trên cơ sở Tổ công tác Quốc gia và hoạt động theo điều lệ và Đăng ký hoạt động Khoa học và Công nghệ được Bộ KH và Công nghệ phê duyệt. SFMI là một tổ chức phi chính phủ (NGO) phi lợi nhuận đầu tiên ở Việt Nam có hoạt động nghiên cứu Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng (100% nhân viên không hưởng lương từ ngân sách của Chính phủ, chỉ hưởng thù lao từ các dự án, công trình được thực hiện bởi SFMI). SFMI được Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC) coi là “Sáng kiến quốc gia” của Việt Nam. Với đội ngũ cán bộ khoa học đã và đang làm công tác quản lý, nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực và cơ quan khác nhau. Viện có mối quan hệ rộng rãi với các tổ chức quốc tế như WWF, IUCN, GEF, FSC, GIZ, SNV, FAO, IUFRO, NEPCon Đặc biệt là với Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC), 8 cán bộ của Viện là thành viên chính thức của FSC từ năm 1998. Viện cũng có các hoạt động phối kết hợp chặt chẽ với các cơ quan nghiên cứu và quản lý của Việt Nam: Học viện Khoa học lâm nghiệp (VAFS), Đại học Lâm nghiệp (VFU), Tổng cục Lâm nghiệp (VNFOREST), Đại học Tây Nguyên (HU), Viện Điều tra Quy hoạch rừng 17 (FIPI), Đại học Nông nghiệp, Trung tâm phát triển Nông thôn bền vững (SDR)....Trên 40% thành viên của Viện được đào tạo và được cấp chứng chỉ “Người đánh giá rừng - Forest Auditor” của Trường quốc tế SSC Forestry Sweeden Svensk Scogs Certifiering AB tại Thụy Điển. Mặc dù không phải là tổ chức trực tiếp cấp chứng chỉ do FSC ủy quyền, nhưng với hoạt động tư vấn của mình Viện đã góp phần không nhỏ cho tiến trình Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng ở Việt Nam trong những năm qua và trong tương lại. Đặc biệt, với tư cách tư vấn Viện đã trực tiếp cùng với Tổng cục lâm nghiệp (VNFOREST) xây dựng lộ trình QLRBV & CCR cho ngành lâm nghiệp, đồng thời tư vấn và xây dựng Bộ tiêu chuẩn Quản lý rừng bền vững Việt Nam (Kèm theo thông tư 38/2014/TT-BNNPTNT). Các hoạt động của SFMI tập trung vào: 1) Hỗ trợ nâng cao nhận thức về Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng cho các chủ rừng; cung cấp các thông tin và tài liệu liên quan đến QLRBV và Chứng chỉ rừng; khảo sát đánh giá, xác định năng lực hiện tại của các chủ rừng và đưa ra những ý kiến tư vấn giúp chủ rừng lựa chọn, quyết định trong tiến trình hoạt động quản lý và 2) Cung cấp dịch vụ nâng cao năng lực quản lý cho các chủ rừng về kỹ thuật và quản lý; tư vấn hỗ trợ xây dựng Kế hoạch quản lý rừng/Phương án quản lý rừng; hỗ trợ đánh giá nội bộ, khắc phục lỗi không tuân thủ theo tiêu chuẩn Chứng chỉ rừng; tư vấn lựa chọn đơn vị cấp chứng chỉ Quốc tế; hỗ trợ quản lý Chứng chỉ và giám sát định kỳ. Lộ trình Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng Ngay từ năm 2006, Cục lâm nghiệp và Viện Quản lý rừng bền vững đã xây dựng và đưa ra lộ trình cho tiến trình QLRBV và CCR của Việt Nam. Lộ trình này được chia thành 6 bước: Bước 1. Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia (theo ASEAN, theo FSC), xây dựng chính sách, văn bản Quản lý rừng và Chứng chỉ rừng phù hợp FSC và VN; Bước 2. Nâng cao nhận thức cho chủ rừng, cộng đồng, cơ quan quản lý, các bên liên quan; Bước 3. Nâng cao năng lực quản lý cho chủ rừng, cộng đồng, cơ quan quản lý, các bên liên quan, thử nghiệm thử nghiệm rừng;. Bước 4. Đánh giá chất lượng Quản lý rừng, phân loại đối tượng chủ rừng; Bước 5. Tổ chức các mạng lưới tự nguyện; Bước 6. Nâng cao chất lượng Quản lý rừng. Mời tổ chức Chứng chỉ rừng đánh giá. Sáu bước nêu trên được chia thành 3 giai đoạn: 1) 2006-2010: Chuẩn bị, xây dựng tiêu chuẩn Việt Nam, nâng cao nhận thức; 2) 2011-2015: Nâng cao năng lực, chính sách, chứng chỉ rừng thử nghiệm ... và 3) 2016-2020: Tổ chức mạng lưới chứng chỉ rừng tự nguyện, mở rộng Chứng chỉ rừng. Tuy nhiên, cho đến nay vì nhiều lý do chủ quan và khách quan lộ trình này cho vẫn chưa thực hiện được theo đúng tiến độ mong muốn. Năm 2013 – 2014 Tổng cục lâm nghiệp với sự tài trợ của quỹ TFF đã thực hiện dự án “Xây dựng chính sách Quản lý rừng bền vững và thúc đẩy Chứng chỉ rừng tại Việt Nam”. Cùng với sự tư vấn của Viện Quản lý rừng bền vững & Chứng chỉ rừng và trường Đại học lâm nghiệp đã xây dựng được bộ Nguyên tắc Quản lý rừng bền vững Việt Nam 18 (Thông tư 38/2014/TT-BNNPTNT). Đây có thể coi là một trong những bước đột phá về QLRBV đối với ngành lâm nghiệp. Bộ tiêu chuẩn này tuân theo các Nguyên tắc và tiêu chí của FSC, là kết quả hài hòa hóa 5 bộ tiêu chuẩn tạm thời của 5 tổ chức Quốc tế áp dụng cho Việt Nam kết hợp với tiêu chuẩn 9c Việt Nam. Những kết quả đã đạt được Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, nhưng với sự quyết tâm của một số chủ rừng và sự hỗ trợ của các đơn vị tư vấn như SFMI đồng thời với sự tài trợ của các tổ chức Quốc tế như GIZ, JICA, WWF, SNV...thời gian qua, tiến trình Quản lý rừng bền vững cũng đã đạt được một số kết quả quan trọng. Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng bằng trách nhiệm và nỗ lực của mình đã xây dựng phiên bản 9c – Tiêu chuẩn FSC Việt Nam, đây chính là cơ sở để các chủ rừng căn cứ nâng cao năng lực của mình và cũng là cơ sở để các tổ chức Quốc tế vào cấp Chứng chỉ tham khảo trong quá trình đánh giá và ra quyết định. 5 tổ chức Quốc tế gồm SGS, SW/RA, GFA, CU, WM12 đã mang các bộ tiêu chuẩn tạm thời vào đánh giá và cấp Chứng chỉ ở Việt Nam trong thời gian qua. Trong thời gian đánh giá, SGS đã tham khảo Nguyên tắc 8 và SW đã sử dụng 23 chỉ số của tiêu chuẩn 9c Việt Nam. Năm 2006, đơn vị được cấp Chứng chỉ rừng đầu tiên ở Việt Nam là Công ty trồng rừng Quy Nhơn (QPFL) liên doanh với công ty New Oji (Nhật Bản) với tổng diện tích 9.762,61 ha rừng trồng với loài cây chính là Bạc đàn Urophylla. Nguồn kinh phí hoàn toàn do công ty New Oji và đơn vị cấp chứng chỉ là tổ chức Quốc tế SGS (Thụy Sỹ). Đơn vị đầu tiên dùng 100% kinh phí cũng như tiềm năng tài nguyên của mình làm Chứng chỉ rừng là các Công ty trực thuộc Tổng công ty giấy Việt Nam (VINAPACO) vào năm 2010. Với tổng diện tích được cấp chứng chỉ FSC FM/CoC là 12.201,30 với loài cây chủ yếu là các loài Keo. Đơn vị cấp chứng chỉ là tổ chức Quốc tế SW/RA (Hoa Kỳ), SFMI là đơn vị tư vấn. Hiện nay VINAPACO đã sang giai đoạn chứng chỉ 5 năm lần thứ 2 với chứng chỉ do Tập đoàn tư vấn GFA (CHLB Đức) cấp. Danh sách các chủ rừng đã được cấp chứng chỉ tại Việt Nam (12/2014)13 TT Chủ rừng Diện tích (ha) Rừng TN (ha) Rừng trồng (ha) Tổ chức cấp CC 1 Công ty trồng rừng Quy Nhơn (QPFL)– New Oji 9.762,61 0 9.762,61 SGS 2 Tổng công ty giấy Việt Nam (VINAPACO) 12.201,30 338,9 11.862,10 SW 12 Các tổ chức Quốc tế gồm: Tổ chức Chứng nhận SGS (Thụy Sỹ), tổ chức SW/RA (Hoa Kỳ), GFA (CHLB Đức), WM (Anh) và CU (Nam Phi). 13 Số liệu cập nhật của Viện QLRBV & CCR 19 3 Nhóm ND Quảng Trị 861,83 0 861,83 GFA 4 Tổng công ty Cao su 11.784,10 0 11.784,83 CU 5 Công ty cổ phần XK Lâm sản Quảng Nam 1.475,46 0 1.475,46 WM 6 Dự án PT ngành LN 783,49 0 783,49 GFA 7 Công ty LN Bến Hải 9.463,00 0 9.463,00 GFA 8 Công ty TNHH Bình Nam, Quảng Nam 2.969.19 0 2.969,19 WM 9 Tổng công ty LN Việt Nam (VINAFOR) 38.185,73 17.549,00 20.636,67 WM 10 Công ty LN Đắk Tô (Kon Tum) 15.755,40 15.755,40 0 GFA 11 Công ty LN Trường Sơn (Quảng Bình) 33.149,20 31.813,50 1.336,7 GFA Tổng 136.706,00 33.304,00 103.088,30 Chứng chỉ CoC: 374 giấy chứng nhận trên toàn quốc. Mặc dù kết quả còn hết sức khiêm tốn, nhưng cũng đã có thể thấy rõ đã có sự chuyển biến tích cực về hoạt động Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng ở Việt Nam. Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội thì những rào cản, khó khăn, thách thức vẫn còn trước mắt. 6. Cơ hội, thách thức, khó khăn. Cơ hội. a/ Sự hòa nhập và áp lực của Quốc tế: Trong xu thế hội nhập, việc tuân theo “Luật chơi” của Quốc tế là điều không thể tránh khỏi. Thị trường thế giới đã từ xu hướng cần đáp ứng nhu cầu gỗ và sản phẩm từ gỗ nói chung chuyển sang chỉ sử dụng sản phẩm từ rừng có nguồn gốc hợp pháp hoặc có chứng nhận đã Quản lý bền vững ngày càng gia tăng. Nhất là cả thế giới đang trong bối cảnh nỗ lực chống lại sự biến đổi khí hậu toàn cầu, nếu không đáp ứng đó thì các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam sẽ mất thị trường tiêu thụ gỗ và sản phẩm từ gỗ. Các đạo luật Leicy, FLEGT của Mỹ và Liên minh châu Âu áp dụng đối với gỗ và các sản phẩm chế biến từ gỗ, đã giúp cho tăng cường tính hợp pháp của các mặt hàng này. Đồng thời bắt buộc các chủ rừng, các cơ sở chế biến phải suy nghĩ: Nếu không tuân thủ sẽ không bán được hàng và hàng trăm doanh nghiệp chế biến vừa và nhỏ sẽ có nguy cơ bị giải thể. Bên cạnh đó, Quản lý rừng bền vững được Chính phủ các nước phát triển và các tổ chức Quốc tế rất quan tâm và sẵn sàng hỗ trợ cả về kỹ thuật và tài chính. Đây chính là cơ hội thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động QLRBV và CCR trong hiện tại và cả tương lai. b/ Nhu cầu trong nước: Trong 10 năm trở lại đây, ngành đồ gỗ của Việt Nam đạt được nhiều thành quả to lớn, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao và đóng góp một phần vào sự phát triển chung của kinh tế Việt Nam. Việt Nam trở thành nước xuất khẩu đồ gỗ lớn 20 nhất Đông Nam Á và đồ gỗ là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Tuy nhiên, hàng năm chúng ta phải nhập 80% gỗ nguyên liệu, chiếm tới 37% giá thành sản phẩm (Số liệu từ hải quan cho thấy, hiện Việt Nam nhập khẩu gỗ nguyên liệu là 1,639 tỷ USD). Hơn nữa 90% gỗ nhập khẩu từ Lào và Campuchia thì nguồn này đang cạn kiệt. Kể từ năm 2005 đến nay, 2 nước Malaysia và Indonesia đã đóng cửa mặt hàng gỗ xẻ, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Giá nhiều loại gỗ đã tăng bình quân từ 5% - 7% làm cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng có đơn hàng nhưng không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận rất thấp. Đối với nguồn gỗ trong nước, công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, các dự án phát triển rừng nguyên liệu chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến sản lượng gỗ phục vụ cho chế biến xuất khẩu không được cải thiện. Chiến lược lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006 - 2020 đặt mục tiêu phát triển 825.000 ha rừng nguyên liệu cho ngành gỗ Việt Nam, trong đó có sự kết hợp giữa các loại cây có chu kỳ kinh doanh ngắn 7-10 năm và chu kỳ kinh doanh dài từ 15 năm trở lên. Tuy nhiên, nguyên liệu gỗ dành cho chế biến xuất khẩu cũng phải được khai thác từ các khu rừng đã Quản lý bền vững và có Chứng chỉ. Đây cũng chính là một động lực quan trọng để các chủ rừng phải quan tâm tới QLRBV & CCR. c/ Vai trò của Nhà nước: Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006- 2020 đã xác định một trong những chương trình trọng điểm của ngành là đẩy mạnh Quản lý rừng bền vững và hướng tới mục tiêu 30% diện tích rừng sản xuất phải có chứng chỉ. Cụ thể hóa Chiến lược, trong những năm gần đây, Chính phủ và các cơ quan trực thuộc Chính phủ đặc biệt là Bộ NN&PTNT đã ban hành các chính sách và hướng dẫn phù hợp nhằm tăng cường hoạt động quản lý rừng theo xu thế bền vững, thúc đẩy quá trình Chứng chỉ rừng ở Việt Nam, kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc gỗ và sản phẩm từ gỗ bất hợp pháp. Đây cũng chính là những điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng ở nước ta. d/ Thị trường thông thoáng: Dung lượng thị trường các nước đối tác rất lớn trong khi tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trong cơ cấu nhập khẩu của các nước còn thấp. Việt Nam vừa công bố kết thúc đàm phán 2 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan (Nga, Belarus, Kazakhstan) và Việt Nam - Hàn Quốc. Dự kiến trong thời gian tới sớm công bố kết thúc đàm phán FTA với Liên minh châu Âu (EU). Việt Nam cũng đang tích cực tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Gỗ và sản phẩm gỗ là một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang thị trường TPP và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch sang TPP; năm 2013, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các quốc gia TPP đạt 51,6 tỷ USD, trong đó xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ chiếm 6,2%. FTA tạo ra sự cạnh tranh cho hàng hóa sản xuất tại Việt Nam thông qua việc giảm thuế trong đó có gỗ và đồ gỗ. FTA là động lực thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước mở rộng sản xuất, chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ14. 14 Nguyễn Tường Vân, Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gỗ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. HN tháng 2 năm 2015. 21 Các thách thức a/ Thị trường: Từ bên ngoài: Kinh tế thế giới đang trong giai đoạn phục hồi chậm, chính trị bất ổn tại nhiều nơi trên thế giới. Nguy cơ về những cú sốc từ bên ngoài vẫn đang tiềm ẩn, có thể tác động xấu đến kinh tế nước ta nói chung và ngành sản xuất đồ gỗ nói riêng. Xu hướng bảo hộ gia tăng: Chính phủ các quốc gia sẽ tiếp tục đưa ra nhiều biện pháp nhằm bảo vệ doanh nghiệp trong nước, thông qua chính sách tỷ giá, các biện pháp kỹ thuật, các biện pháp chống bán phá giá. Từ nội tại: Phải đảm bảo đầu vào gỗ nguyên liệu có số lượng và có chất lượng, nghĩa là không những cung ứng cho chế biến nguồn nguyên liệu đủ về khối lượng mà phải đảm bảo nguồn gốc gỗ minh bạch (Hợp pháp, có chứng chỉ quản lý rừng bền vững). b/ Hành lang pháp luật về đất đai: Tình trạng quyền “Sử dụng đất” của một số các chủ rừng vẫn còn chưa rõ ràng, vấn đề “lấn chiếm, tranh chấp rừng và đất rừng” giữa chủ rừng và các bên liên quan, đặc biệt với cộng đồng địa phương vẫn còn diễn ra phổ biến. Tình trạng này gây khó khăn không nhỏ đối với tiến trình Quản lý rừng bền vững ở nước ta. Vì ngay từ nguyên tắc 1 của bộ Tiêu chuẩn FSC hay của các hệ thống Chứng chỉ khác đã yêu cầu “Quyền sử dụng đất” phải minh bạch, rõ ràng. c/ Mặt bằng về kinh tế, xã hội và chính sách của Việt Nam chưa cân bằng với các nước phát triển. Vì vậy khi thực hiện tuân thủ các tiêu chuẩn của Chứng chỉ rừng vẫn gặp phải những khó khăn cần giải quyết. d/ Khoa học, công nghệ: Chậm đổi mới cũng gây khó khăn trong quá trình tuân thủ các nguyên tắc và tiêu chí của Chứng chỉ rừng. Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng yêu cầu khoa học công nghệ phải đáp ứng được những tiêu chí, chỉ số về giống, quản lý tài nguyên, quản lý và bảo vệ môi trường.... Khó khăn a/ Về chính sách: Các chính sách tạo hành lang pháp lý và điều kiện cho các chủ rừng tiếp cận với QLRBV và Chứng chỉ rừng còn thiếu, bất cập chưa theo kịp với yêu cầu của thực tế: Các chính sách về đất đai chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các chủ rưng; chính sách mua bán gỗ nguyên liệu từ rừng sản xuất của các chủ rừng chưa thực sự khuyến khích họ đầu tư vào Quản lý rừng bền vững.... b/ Về Khoa học công nghệ: Hiện tại chưa đáp ứng được hoàn toàn. Các chủ rừng còn yếu về năng lực tiếp cận khoa học công nghệ mới. c/ Về nhân lực: Thiếu nguồn nhân lực có chất lượng, có kiến thức kinh tế và kỹ thuật về tổ chức quản lý rừng bền vững. d/ Về kinh tế: Thiếu nguồn kinh phí đầu tư cho Quản lý rừng bền vững. e/ Về xã hội: Nhận thức của các cơ quan quản lý, chủ rừng và cộng đồng về Quản lý rừng bền vững còn rất hạn chế. Vẫn còn khá nhiều chủ rừng theo tư duy cũ: Chỉ chú trọng đến mặt kinh tế trong kinh doanh rừng. f/ Về sinh thái: Có một nền lâm nghiệp nhiệt đới, được thiên nhiên ưu đãi với những kiểu rừng đa dạng dẫn tới những mục đích kinh doanh khác nhau. Đây cũng chính là thuận lợi nhưng đồng thời cũng sẽ gặp nhiều khó khăn trong qúa trình Quản lý rừng bền 22 vững và Chứng chỉ rừng khi mà bộ tiêu chuẩn đòi hỏi rất khắt khe về sự tuân thủ. Thời gian thực hiện sẽ dài hơn, kinh phí và nguồn lực huy động sẽ đòi hỏi cao hơn. KẾT LUẬN Bước vào thế kỷ 21, ngành lâm nghiệp khẳng định 3 chức năng chính của rừng là: i) Kinh tế; ii) Xã hội và iii) Môi trường. Trong đó chức năng môi trường không một ngành nào có thể thay thế được. Vì vậy, toàn thế giới trong đó có Việt Nam đang cố gắng hướng tới Quản lý rừng bền vững. Đây là một xu thế bắt buộc vì sự phát triển bền vững của xã hội loài người. Để đạt được mục tiêu này, ngành lâm nghiệp Việt Nam phải vượt qua được 3 rào cản lớn: Tốn kém về kinh phí; khó khăn về kỹ thuật và thời gian thực hiện còn phải kéo dài. Vì vậy tiếp tục rất cần sự ủng hộ của Chính phủ, Bộ NN&PTNT và các cơ quan trực thuộc Chính phủ; cần sự quyết tâm của các chủ rừng cũng như các cơ quan quản lý ở địa phương trong hoạt động Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng, nhằm đạt được mục tiêu của “Chiến lược ngành lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020”./. 23 Tài liệu tham khảo 1. Bộ NN&PTNT- Thông tư 38/2014/TT-BNNPTNT ngày 3 tháng 11 năm 2014 về “Hướng dẫn Quản lý rừng bền vững”. 2. Phạm Hoài Đức, Nguyễn Ngọc Lung (2012 và 2015); Bài giảng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng. 3. Tập đoàn tư vấn GFA (2009); Tiêu chuẩn tạm thời FSC V 1.0 áp dụng cho Việt Nam. 4. Nguyễn Tuấn Hưng (2014); Luận án Tiến sỹ khoa học nông nghiệp. 5. Dương Duy Khánh (2011); Luận văn Thạc sỹ khoa học lâm nghiệp. 6. Đào Công Khanh (2015); Quy trình Chứng chỉ rừng – Bài giảng tập huấn cho 5 công ty lâm nghiệp, tỉnh Tuyên Quang. 7. Đào Công Khanh (2015); Tham luận “Các chính sách liên quan đến QLRBV và Chứng chỉ rừng ở Việt Nam” (Dự án FAO UN_REDD tổ chức) (Dự án FAO UN_REDD tổ chức tại Huế) 8. Nguyễn Ngọc Lung, Ngô Đình Thọ (2013); Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng ở Việt Nam. 9. Nguyễn Ngọc Lung (2015); Tham luận về “Chứng chỉ rừng” tại Huế (Dự án FAO UN_REDD tổ chức). 10. Thủ tướng Chính phủ-Quyết định 2242/2014/QĐ-TTg ngày 11 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt đề án tăng cường quản lý khai thác gỗ rừng tự nhiên giai đoạn 2014-2020”. 24 MỤC LỤC 1. Các khái niệm 1.1. Quản lý rừng 1.2. Quản lý rừng bền vững 1.3. Chứng chỉ rừng là gì? 2. Nội dung quản lý rừng bền vững. 3. Tại sao phải quản lý rừng bền vững? 4. Tại sao cần chứng chỉ rừng? 5. Hiện trạng và quá trình phát triển của Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng 5.1. Trên thế giới 5.2. Tại Việt Nam 6. Cơ hội, thách thức, khó khăn. KẾT LUẬN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf299291_1803_2205844.pdf
Tài liệu liên quan