Tài liệu Quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế: 1QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ1
Nguyễn Vũ Tùng, TS2
Mục tiêu độc lập tự chủ luôn là căn cứ quan trọng nhất để hoạch định và triển khai
chính sách đối ngoại của Việt Nam. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại của Việt Nam
cũng luôn coi đoàn kết quốc tế là một trong những nguyên tắc lớn nhất. Do đó, một
trong những nguyên nhân thành công của cách mạng Việt Nam là đã xác lập được
mối quan hệ đúng đắn giữa phấn đấu giữ độc lập tự chủ với đẩy mạnh sự tham gia
và hội nhập vào đời sống quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay tiếp tục xử lý thành công
mối quan hệ này ngày càng trở thành một yêu cầu lớn. Nhưng mối quan hệ này đã
trở nên phức tạp hơn nhiều do quá trình mở rộng quan hệ quốc tế đã đưa tới những
cách hiểu và nội hàm mới trong nội dung của độc lập/tự chủ và hội nhập quốc tế
cũng như nhìn nhận mới đối với quan hệ giữa hai thành tố trên. Bài viết này góp
thêm ý kiến vào cuộc thảo luận về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc
tế trong giai đoạn hiện nay.
...
12 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ1
Nguyễn Vũ Tùng, TS2
Mục tiêu độc lập tự chủ luôn là căn cứ quan trọng nhất để hoạch định và triển khai
chính sách đối ngoại của Việt Nam. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại của Việt Nam
cũng luôn coi đoàn kết quốc tế là một trong những nguyên tắc lớn nhất. Do đó, một
trong những nguyên nhân thành công của cách mạng Việt Nam là đã xác lập được
mối quan hệ đúng đắn giữa phấn đấu giữ độc lập tự chủ với đẩy mạnh sự tham gia
và hội nhập vào đời sống quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay tiếp tục xử lý thành công
mối quan hệ này ngày càng trở thành một yêu cầu lớn. Nhưng mối quan hệ này đã
trở nên phức tạp hơn nhiều do quá trình mở rộng quan hệ quốc tế đã đưa tới những
cách hiểu và nội hàm mới trong nội dung của độc lập/tự chủ và hội nhập quốc tế
cũng như nhìn nhận mới đối với quan hệ giữa hai thành tố trên. Bài viết này góp
thêm ý kiến vào cuộc thảo luận về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc
tế trong giai đoạn hiện nay.
Độc lập - Tự chủ
Độc lập/Tự chủ tuy là hai khái niệm riêng biệt nhưng có liên quan tới nhau.
Độc lập dùng để chỉ trạng thái một nước không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào bên ngoài
cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ không bị nước ngoài đe doạ. Trong khi đó, Tự chủ thể
hiện khả năng một nước tự kiểm soát được các tiến trình, nhất là tiến trình chính
sách, trong phạm vi quản lý của mình, không bị nước ngoài can thiệp. Như vậy, có
độc lập thì có điều kiện tự chủ, (muốn tự chủ thì phải độc lập); hoặc ngược lại, có tự
chủ thể hiện có độc lập, (tự chủ nhiều chứng tỏ độc lập nhiều và ngược lại; giữ
quyền tự chủ tức là giữ độc lập).
Độc lập và tự chủ còn liên quan tới hai mặt khăng khít của quyền tự quyết
dân tộc. Độc lập tự chủ liên quan tới (a) khía cạnh danh nghĩa của quyền tự quyết:
những quyền và nghĩa vụ của một quốc gia – trong mối quan hệ với các nước khác –
về danh nghĩa đáng được hưởng, và (b) khía cạnh thực chất của việc nắm và sử
dụng quyền lực quốc gia – trong bối cảnh chính trị nội bộ: những khả năng thực tế
mà nước đó có để bảo đảm thực thi những quyền lợi và nghĩa vụ ấy.
Mối quan hệ giữa độc lập và tự chủ là mối quan hệ tương đối phức tạp, vì có
thể có 4 trường hợp sau:
1 Tạp chí Kinh tế và Chính trị thế giới, số 2 (2009)
2 Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao, Học viện Ngoại giao.
2Có độc lập Không có độc lập
Mức độ tự chủ cao trường hợp tốt nhất: nước
độc lập và giàu mạnh
trường hợp hãn hữu: nước
mất độc lập nhưng mạnh
về nhiều mặt
Mức độ tự chủ thấp trường hợp có thể xảy ra:
nước độc lập nhưng nghèo
và yếu, do đó lệ thuộc vào
nước khác
trường hợp mất nước và
suy yếu.
Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, độc lập/tự chủ dùng để chỉ một hiện
tượng trên thực chất liên quan tới chủ quyền của quốc gia trong lĩnh vực quan hệ đối
ngoại và đối nội. Độc lập tự chủ là khả năng một nước giữ được ở mức cao nhất có
thể chủ quyền và sự tự quyết trong các vấn đề liên quan tới hoạch định và triển khai
chính sách đối nội và đối ngoại của mình nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích dân tộc của
mình. Nói cách khác, đó là sự giảm thiểu ở mức tối đa khả năng việc hoạch định và
triển khai chính sách của nước mình bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, nhất là
trong tình huống sự tác động đó ảnh hưởng không thuận tới lợi ích dân tộc của nước
đó.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy một số điểm chính sau:
- Độc lập tự chủ liên quan trực tiếp tới quyền tự quyết dân tộc - quyền cao nhất
trong QHQT: (i) đây là mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam. Độc lập
dân tộc là mục tiêu tối thượng của dân tộc ta vì nó mà nhiều thế hệ người
Việt Nam đã chiến đấu hi sinh. (ii) Đây cũng là nguyên tắc cao nhất của quan
hệ quốc tế hiện đại: các nước tham gia hệ thống QHQT trên tư cách là những
nước độc lập có chủ quyền, các nước không được phép can thiệp vào công
việc nội bộ của nước khác. Nguyên tắc này đã được cụ thể hoá trong tất cả
các hiệp định, hiệp ước quốc tế và khu vực (từ Hiến chương Liên hiệp quốc
cho đến Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Đông nam Á.) Như vậy, có thể thấy
xét về mặt đối ngoại, nếu giữ được độc lập/tự chủ thì mới giữ được mục đích
tồn tại của một quốc gia trong hệ thống QHQT, và khi một nước có độc lập tự
chủ thì nước đó mới giành được sự công nhận và tôn trọng trên trường quốc
tế.
3- Độc lập tự chủ liên quan trực tiếp tới lẽ sống của Đảng cầm quyền trong bối
cảnh chính trị nội bộ. Xét về mặt đối nội, độc lập tự chủ là chỗ dựa cho tính
chính đáng của chính thể cầm quyền: Ai nắm được ngọn cờ độc lập dân tộc,
người đó sẽ nắm được chính nghĩa và có khả năng tập hợp được lực lượng và
huy động các nguồn lực trong và ngoài nước3.
- Độc lập tự chủ là quyền lợi dân tộc cao nhất: do độc lập tự chủ liên quan tới
chủ quyền quốc gia, nên nó là nội dung chính của lợi ích quốc gia. Các nước
trong hệ thống QHQT hiện đại (tính từ 1648 là năm hệ thống Westphalia ra
đời) lấy độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là mục đích cao nhất của chính
sách. Độc lập dân tộc là lợi ích “gốc” để trên cơ sở đó các nước đạt tới các
mục tiêu chính sách là an ninh, phát triển và ảnh hưởng.
- Độc lập tự chủ được thể hiện cụ thể trong các mặt sau: (i) tự lực tự cường và
sáng tạo trong nhận thức và xây dựng chính sách, trên cơ sở bám sát vào
quyền lợi dân tộc và hoàn cảnh cụ thể. Bác Hồ viết: “Tự lực cánh sinh là cái
gốc, điểm mấu chốt về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của
ta”4. (ii) tự lực tự cường không đồng nghĩa với biệt lập, mà đó là sự chủ động
mở rộng hợp tác quốc tế, xử lý đúng đắn các mối quan hệ lợi ích dân tộc và
giai cấp, quốc gia và thời đại, cân đối các mặt và lĩnh vực hợp tác quốc tế phù
hợp với lợi ích dân tộc. (iii) tự lực tự cường và hợp tác quốc tế không đồng
nghĩa với việc lảng tránh thực hiện nghĩa vụ trong QHQT, tức không chỉ
“nhận” mà còn phải “cho.” Bác Hồ căn dặn: “Mình đã hưởng cái hay của người
thì mình cũng phải có cái hay cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà
không trả.”5
Như vậy, độc lập tự chủ là mục tiêu của chính sách quốc gia và là nội dung chủ yếu
của lợi ích dân tộc.
3 Tuy nhiên, điều này có thể đúng hơn trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc
thoát khỏi chế độ thực dân, ngoại xâm và chèn ép của nước ngoài. Bước vào giai đoạn
kiến quốc tính chính đáng của chính thể phụ thuộc nhiều hơn vào thành tích thoả mãn
nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân. Bác Hồ viết: “Nếu nước được độc lập mà dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Đây là mối
quan hệ giữa hai mục tiêu độc lập dân tộc và phát triển đất nước, do đó nằm trong phạm
vi thảo luận khác.
4 Bộ Ngoại giao, Sách Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, (Hà Nội: Nhà xuất bản chính
trị quốc gia, 2002), trang 450.
5 Nguồn đã dẫn, trang 450.
4Tuy nhiên, việc các nước luôn phải đề cao nguyên tắc dân tộc tự quyết cũng
cho thấy độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và tự quyết dân tộc không phải là một
điều tự nhiên do có sự vênh giữa nguyên tắc và thực tiễn, vì các lý do sau:
(i) Nếu phải chấp nhận một thực tế là các nước lớn chi phối trật tự quốc tế thì
điều đó cũng phải chấp nhận một thực tế khác là các nước lớn thường tác
động, gây ảnh hưởng tới các nước nhỏ (từ hình thức gây sức ép gián tiếp
đến can thiệp trực tiếp), hi sinh quyền lợi các nước nhỏ để thoả mãn
quyền lợi của các nước lớn. Ngoài ra, trên thực tế khả năng giữ độc lập, tự
quyết dân tộc đối với nước nhỏ rất khó khăn vì nước nhỏ - trong so sánh
với nước lớn - luôn bị lép vế về thế và lực.
(ii) Thêm vào đó, nếu phải chấp nhận một thực tế nữa là thế giới ngày càng
trở nên lệ thuộc lẫn nhau - dước tác động của toàn cầu hoá - thì khả năng
một nước (bất kể nước lớn hay nước nhỏ) giữ được độc lập, tự chủ dân tộc
càng khó khăn. Các tập đoàn kinh tế, các công ty đa quốc gia lớn đang chi
phối nền kinh tế và phần nào nền chính trị quốc tế. Cuộc tranh luận về
chủ quyền quốc gia trong nền kinh tế đang trở nên toàn cầu hoá cho thấy
các nước đều gặp phải thách thức về quyền tự chủ khi phải đương đầu với
các công ty đa quốc gia. Bên cạnh đó, các phong trào xã hội với những
tiêu chuẩn hành vi mới cũng góp phần hạn chế quyền tự chủ hành động
của các nước: chính sách của một nước (kể cả chính sách đối nội) luôn bị
xăm soi, phê phán nếu mâu thuẫn với một số tiêu chí về hành vi mà các
phong trào xã hội đó chủ trương (dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, đói
nghèo . . . ).
(iii) Tình trạng hợp tác quốc tế tăng cường cũng cản trở khả năng quốc gia thi
hành chính sách tự chủ, độc lập dân tộc. Xét về mặt nội dung, hợp tác là
quá trình phối hợp chính sách trong đó các chủ thể có chủ ý điều chỉnh
hành vi của mình theo những ưu tiên trên thực tế hoặc sẽ phát sinh của
chủ thể khác. Nói cách khác, hợp tác xuất hiện khi các chủ thể chủ động
điều chỉnh hành vi của mình để đáp ứng lợi ích của bên đối tác mà vẫn
đảm bảo được lợi ích của mình. Như vậy, độc lập tự chủ không thể được
đảm bảo 100% trong quá trình hợp tác quốc tế. Ở mức cao nhất như
trong mô hình hợp tác EU, các thành viên tự nguyện bỏ bớt chủ quyền
quốc gia trên một số mặt quan trọng của chính sách như nhập cư, tài
chính, quân sự và ngoại giao. Ở mức thấp hơn, các cam kết của một nước
5với các nước khác (song phương và đa phương) góp phần nâng cao tính
ràng buộc đối với hành vi, từ đó hạn chế hành động của nước đó.
Tóm lại, về mặt nguyên tắc, độc lập tự chủ là mục đích chính sách cao nhất, là nội
dung cơ bản nhất của lợi ích quốc gia vì nó liên quan tới chủ quyền quốc gia - vốn
thuộc phạm trù nguyên tắc trong QHQT và lẽ sinh tồn của từng nước trong hệ thống
QHQT. Tuy nhiên, độc lập tự chủ là một trạng thái “tối ưu” tồn tại trên lý thuyết, bởi
vì trên thực tế quan hệ quốc tế - nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá và lệ thuộc lẫn
nhau - các nước không thể sống biệt lập, tự ý theo đuổi lợi ích quốc gia của mình mà
không tính đến lợi ích của nước khác, và do đó phải điều chỉnh hành vi của mình. Do
đó, độc lập tự chủ có giá trị tương đối và nhận thức về độc lập tự chủ có nội dung
khác nhau tuỳ theo không gian, thời gian và lĩnh vực cụ thể. Việc đề cao độc lập tự
chủ một cách tuyệt đối là không thực tế. Vì vậy, việc xử lý mối quan hệ cân bằng
(trade-off) giữa có thêm ràng buộc bên ngoài đối với độc lập tự chủ và tăng thêm lợi
ích an ninh phát triển phải rất khéo léo nhưng hoàn toàn nằm trong tự chủ chính
sách của quốc gia. Như vậy, mức độ hội nhập và xử lý quan hệ giữa độc lập tự chủ
và hội nhập quốc tế là hai yếu tố tạo nên sự biến thiên giá trị này.
Hội nhập quốc tế
Như trên đã phân tích, độc lập tự chủ không đồng nghĩa với biệt lập. Trái lại, và nhất
là trong hoàn cảnh QHQT đương đại, các nước càng phải tăng cường hợp tác quốc tế.
Tiêu chí để đánh giá độc lập tự chủ không phải là mức độ “tối thiểu hoá” quan hệ với
bên ngoài mà là sự tự quyết trong việc mở rộng, (hoặc thu hẹp) các mối quan hệ
quốc tế theo đòi hỏi của lợi ích quốc gia. Ngày nay, đa số các nước trên thế giới đều
tham gia vào QHQT ở các mức độ khác nhau, và gọi dạng chính sách đó là “mở cửa,
hội nhập.” Như vậy, có thể cho rằng quá trình chủ động tham gia ngày càng sâu
rộng vào đời sống mọi mặt của QHQT là quá trình hội nhập.6
Tham gia mọi mặt vào đời sống QHQT có nghĩa là phải tham gia vào các mặt
kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội, và đây là nội dung chính của quá trình hội nhập.
Cụ thể:
6 Về ngữ nghĩa, thuật ngữ tiếng Anh là integration, với nội hàm là hợp chung các bộ phận
vào một chỉnh thể (nhất thể, hợp nhất) và kết hợp các thành tố khác nhau lại (tụ hội, tụ
nhóm). Ở Việt Nam, đã có một số thử nghiệm về ngôn ngữ liên quan tới khái niệm này.
Lúc đầu từ nhất thể đã được sử dụng, sau đó đến từ hoà nhập. Hai từ này tuy vậy làm nổi
lên sự lo ngại về mất bản sắc và độc lập (từ đó xuất hiện câu cảnh báo hoà nhập nhưng
không được hoà tan). Cuối cùng, thuật ngữ Hội nhập đã được công nhận và trở thành
chính thức.
6- Hội nhập kinh tế: bản chất của hội nhập kinh tế là tham gia vào nền kinh tế
khu vực và thế giới dựa trên lợi thế so sánh và từ đó tham gia vào phân công
lao động khu vực và thế giới, biến nền kinh tế nước ta trở thành một bộ phận
không thể tách rời của nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây còn là sự chấp
nhận quy luật vận động của nền kinh tế theo các nguyên tắc của kinh tế thị
trường. Đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đã nói: “Chúng ta cần và có thể lấy lực
lượng sản xuất phát triển cao của thế giới làm ‘đầu vào’ của ta và lấy thị
trường rộng lớn của thế giới làm ‘đầu ra’ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân
của ta, tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế, kiên quyết
mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, làm cho nền kinh tế nước ta phát triển
mạnh mẽ, phù hợp với xu thế chung của kinh tế thế giới.”7 Về mặt hình thức,
đây là (i) sự tham gia của Việt Nam vào các hiệp định kinh tế song phương
(BTA, FTA . . . ) (ii) sự tham gia của Việt Nam vào các định chế kinh tế khu
vực và quốc tế có tính đa phương (AFTA, Cộng đồng Kinh tế ASEAN, hợp tác
tiểu vùng Mekong, APEC, WTO . . . ). Về mặt nội dung, đây là việc tạo điều
kiện để thu hút FDI và tăng dần đầu tư ra nước ngoài, tăng cường thương mại
(xuất nhập khẩu), qua đó tiếp thu kỹ thuật quản lý và công nghệ cho nền
kinh tế quốc dân.
- Hội nhập chính trị: bản chất của Hội nhập chính trị là tham gia vào đời sống
chính trị khu vực và quốc tế, xây dựng vị thế và tiếng nói trong các vấn đề
quốc tế và khu vực. Về mặt hình thức, đây là sự tham gia của Việt Nam vào
các diễn đàn chính trị, an ninh khu vực và quốc tế, là sự tăng cường hợp tác
song phương với các nước về mặt chính trị - an ninh. Về mặt nội dung, đây là
việc tích cực tham gia vào quá trình hợp tác và đấu tranh trên các vấn đề liên
quan tới an ninh, chủ quyền và vị thế của Việt Nam với các đối tượng/đối tác
trong khu vực và trên thế giới. Đây còn là quá trình Việt Nam khẳng định
mình là một nước có trách nhiệm với các vấn đề trong khu vực và toàn cầu,
qua đó khẳng định vị thế, tiếng nói của ta, và từ đó góp phần vào các nỗ lực
xây dựng lòng tin trong các nước ta có quan hệ.
- Hội nhập văn hoá – xã hội: đây là quá trình tiếp thu các giá trị văn hoá tiên
tiến, đồng thời đóng góp vào sự phát triển văn hoá – xã hội của khu vực và
7 Nguyễn Cơ Thạch, “Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta,”
trong Chính sách đối ngoại Việt Nam, (Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới, 2007), trang 46 –
47.
7thế giới. Về mặt hình thức, đây là sự thúc đẩy các hợp tác song phương, sự
tham gia của Việt Nam vào các diễn đàn đa phương liên quan tới các vấn đề
văn hoá và xã hội. Về mặt nội dung, đây là việc đưa thêm các yếu tố bổ sung
cho hợp tác về mặt chính trị, an ninh, phục vụ gián tiếp các nhu cầu an ninh,
phát triển và vị thế. Đây còn là quá trình tham gia của các lực lượng đối ngoại
dân gian (thông qua trao đổi văn hoá, du lịch, học thuật, giáo dục . . .) bổ
sung cho đối ngoại chính thống.
Ở mức trừu tượng hơn, hội nhập còn mang ý nghĩa là một nước trong mối
QHQT của mình dám chịu chơi, chấp nhận cuộc chơi, và chơi theo luật quốc tế. Cụ
thể hơn, đây là quá trình chấp nhận những quy tắc ứng xử mới đối với hành vi quốc
gia (ghi thành luật hoặc thừa nhận bất thành văn) trong thời kỳ toàn cầu hoá và hậu
chiến tranh lạnh.
Trên lĩnh vực này, đã có một số tranh luận nổi lên. Một số ý kiến cho rằng hội
nhập thời nay chủ yếu là do CNTB chi phối. Do đó, xét về bản chất, đây là sự thắng
thế của mô hình phát triển TBCN dựa trên các nguyên lý của thị trường tự do, theo
đó tất cả các nước phải chơi theo luật chơi TBCN. Hội nhập, xét theo quan điểm này,
là sự hội tụ, theo đó mọi mô hình đều có hướng đi theo quy luật phát triển TBCN.8
Tuy nhiên, đa số ý kiến khác cho rằng đó là một luận điểm không bao quát và toàn
diện, không phản ánh quy luật phát triển của xã hội loài người, vì các lý do sau. Thứ
nhất, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm của CNTB; các nước TBCN đã vận
dụng tốt quy luật kinh tế thị trường mà thôi. Đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đã viết:
“Chúng ta phải coi thành quả ở các nước tư bản cũng như thành quả ở các nước
XHCN tuy là hai chế độ xã hội khác nhau đều là thành quả của nhân dân lao động
trên thế giới, thành quả chung của loài người. Chúng ta không nên thành kiến với
thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong lịch sử loài người suốt mấy nghìn năm qua
cũng như trong 200 qua dưới chế độ tư bản.” Và “Nền kinh tế hàng hoá không phải
là sản phẩm đặc thù của CNTB, nhưng CNTB đã phát huy cao độ nền sản xuất hàng
hoá và cùng với sự phát triển của CNTB, sản xuất hàng hoá cũng phát triển lên một
trình độ cao.”9 Thứ hai, không có một mô hình thống nhất cho sự phát triển ngay
cho cả các nước chấp nhận kinh tế thị trường. Các nước được coi là TBCN cũng theo
8 Xem Fukuyama, “Sự cáo chung của Lịch sử,” Tạp chí Foreign Affairs, số Thu/Đông
năm 1992.
9 Nguyễn Cơ Thạch, “Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta,”
trang 44 – 45 và trang 28.
8các mô hình phát triển khác nhau; các nước XHCN đang xây dựng các mô hình kinh
tế thị trường có định hướng XHCN. Vấn đề then chốt để đánh giá sự thành công của
các nước là nhanh chóng thích nghi với toàn cầu hoá bằng cách tạo dựng được lợi thế
quốc gia chứ không phải là tên gọi của mô hinh phát triển. Thứ ba, và liên quan tới
điểm trên, lợi thế quốc gia không nhất thiết phải là kinh tế thuần tuý. Nó có thể là
chính trị (sự ổn định chính trị, mô hình phát triển tiên tiến) và văn hoá (có nền văn
hoá có sức hấp dẫn, có sản phẩm văn hóa đặc sắc . . .) để từ đó giúp các nước đi
vào hội nhập bằng đôi chân của mình. Tóm lại, hội nhập không phải là đi theo mô
hình CNTB, không phải là sự đầu hàng CNTB. Và hội nhập càng không phải chỉ bó
gọn trong một lĩnh vực nào. Từ góc độ biện chứng và Mác-xít, sự quốc tế hoá đời
sống kinh tế sẽ dẫn tới quốc tế hoá đời sống trên các mặt khác. Như vậy, hội nhập là
một quá trình có tính quy luật khách quan và bao quát mọi mặt đời sống QHQT.
Nhưng chính sách hội nhập lại là một tiến trình chủ quan. Đó là do việc chọn
hội nhập hay không hội nhập là thể hiện sự tính toán chủ quan của từng nước, mặc
dù ngày càng có ít nước chấp nhận chính sách biệt lập. Hội nhập mức nào, trên lĩnh
vực nào lại phụ thuộc vào sự lựa chọn của từng nước dựa trên hoàn cảnh lịch sử,
điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá cụ thể. Do đó, khi tiến hành hội nhập, có hai
điểm thuộc về chính sách nổi lên, đó là phạm vi hội nhập và tính chủ động trong hội
nhập.
Phạm vi hội nhập: tuy theo nhiều cách khác nhau và mô hình khác nhau, sự
hội nhập của từng quốc gia cũng đều diễn ra trên tất cả các mặt. Nói cách khác,
chính sách hội nhập liên quan tới cả ba mặt kinh tế, chính trị, văn hoá/xã hội, với các
điểm nhấn khác nhau trong từng giai đoạn. Khó có thể nói là chỉ tham gia hội nhập
trên một lĩnh vực nào đó mà không tham gia hội nhập trên lĩnh vực khác. Việc tham
gia hội nhập kinh tế sẽ không thể diễn ra nếu không hội nhập về chính trị và văn
hoá. Ngược lại, nếu không hội nhập về văn hoá, kinh tế thì hội nhập chính trị thiếu
chỗ dựa cũng như cơ sở để mở rộng. Như vậy, hội nhập phải mang tính toàn diện và
phải có sự tham gia của tất cả các ngành, các cấp và địa phương. Ở tầm quốc gia,
hội nhập theo mức độ đa phương cao nhất theo mô hình EU là theo hướng gộp chung
chủ quyền, thấp hơn một chút là hợp tác liên chính phủ. Trên mức độ song phương là
9hợp tác toàn diện. Đối với cá nhân, ý thức là “công dân của thế giới” thể hiện sự hội
nhập của từng người.10 Nói cách khác, không thể có “hội nhập bán phần.”
Mức độ chủ động trong hội nhập: trong xây dựng chính sách quốc gia, việc
nắm bắt các xu thế phát triển của tình hình thế giới và chuẩn bị tốt để đón đầu hoặc
hoà vào các xu thế đó là một yêu cầu quan trọng. (Ngược lại, nếu không làm như
vậy, hậu quả sẽ rất trầm trọng cho an ninh và phát triển.) Như vậy, nếu nước nào
tích cực, chủ động hội nhập sẽ không những không đi ngược lại xu thế khách quan
mà còn tận dụng được ở mức tối đa cơ hội, giảm thiểu ở mức cao nhất thiệt hại của
sự hội nhập mang lại. Bằng chứng cụ thể nhất là trong cùng một hoàn cảnh thời đại,
quốc tế và khu vực, thậm chí cùng một điều kiện văn hoá, lịch sử, có nước giàu
mạnh lên và có nước suy yếu đi. Mức độ chủ động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong
đó có tầm nhìn của lãnh đạo, độ chuẩn xác của quá trình hoạch định chính sách, độ
chuyên nghiệp của bộ máy hành chính, độ chính xác của nghiên cứu dự báo và
nghiên cứu chiến lược, độ nhanh nhạy của doanh nghiệp, tính linh hoạt của hệ thống
giáo dục, và sự năng động của người dân . . . Thông thường, sự thành công phụ
thuộc vào việc tập hợp được tất cả các yếu tố đó. Trong khi đó, chỉ thiếu một yếu tố,
thất bại cũng có thể xảy ra. Tác động tổng thể của các yếu tố đó là việc xây dựng và
củng cố lợi thế quốc gia và khả năng cạnh tranh của quốc gia trong nền kinh tế,
chính trị quốc tế. Khi xác định và xây dựng được khả năng cạnh tranh (quốc gia,
doanh nghiệp, cá nhân) thì sự hội nhập dường như tích cực, chủ động hơn. Hoặc
ngược lại, khả năng cạnh tranh kém càng làm tăng sự lo ngại, miễn cưỡng nếu phải
tham gia hội nhập.
Mối quan hệ giữa Độc lập/tự chủ và Hội nhập quốc tế
Giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế có mối quan hệ giữa mục đích và
phương cách. Nói cách khác, hội nhập quốc tế phục vụ cho mục tiêu giữ độc lập tự
chủ. Đó là do hội nhập quốc tế làm tăng tiềm lực, vị thế (thế và lực) của đất nước
trong QHQT: Hội nhập quốc tế là cơ sở để tăng cường khả năng giữ độc lập dân tộc:
hội nhập quốc tế tạo ra các mối ràng buộc và đan xen lợi ích, đồng thời tăng thêm
nguồn lực để bảo vệ đất nước, và nhất là đưa quốc gia vào dòng chảy chính của xu
10 Việc Việt Nam tham gia vào hoạt động của ASEAN trước và sau khi gia nhập ASEAN
là một ví dụ cụ thể: ta đã tham gia hợp tác kinh tế, chính trị/an ninh và chuyên ngành
trước khi gia nhập ASEAN và hiện nay đang tích cực tham gia xây dựng Cộng đồng
ASEAN với 3 Cộng đồng trụ cột là Cộng đồng Kinh tế, Cộng đồng An ninh, và Cộng
đồng Văn hoá – Xã hội.
10
thế phát triển QHQT. Như vậy, hội nhập quốc tế chính là phiên bản mới của phương
châm “kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại” vì mục tiêu bảo vệ và xây
dựng đất nước.
Độc lập tự chủ còn là tiền đề của hội nhập quốc tế. Đó là vì: (i) muốn hội
nhập quốc tế càng sâu rộng thì cái gốc độc lập dân tộc càng phải củng cố: diều bay
cao nhờ có dây diều chắc, có độc lập dân tộc thì hội nhập quốc tế mới có định hướng.
Đồng thời, (ii) tư thế một nước độc lập làm tăng giá trị của đất nước đó khi hội nhập
do cộng đồng thế giới luôn đánh giá cao các nước có tư thế, chính sách, và bản sắc
độc lập. Việt Nam có gia tài lịch sử đấu tranh vì độc lập dân tộc, được thế giới kính
trọng vì kiên quyết giữ độc lập dân tộc, vì thế được nhiều nước coi trọng và muốn
thiết lập quan hệ. Ngược lại, nếu không có độc lập tự chủ, một nước có thể trở thành
“sân chơi” cho các thế lực kinh tế, chính trị quốc tế trong quá trình hội nhập. Cuối
cùng, (iii) độc lập dân tộc là “chiếc neo về bản sắc”: càng hội nhập sâu rộng càng
cần bản sắc, càng có nhu cầu giữ giá trị văn hoá, truyền thống dân tộc trong một
hoàn cảnh quan hệ đã trở nên quốc tế hoá. (Đây chính là bản chất của khẩu hiệu
“hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc”). Bài học của nước Nhật từ thời cải cách Minh
trị cho thấy cách tân và giữ gìn bản sắc là hai quá trình song song, bổ sung cho
nhau, trong đó giữ được “hồn cốt” Nhật đồng thời tiếp thu tinh hoa công nghệ và văn
hoá phương Tây là cơ sở để Nhật tạo nên sự thần kỳ kinh tế. Ngược lại, một số nước
hội nhập không thành công, trở thành lệ thuộc vào nước khác.
Độc lập tự chủ quyết định bước đi hội nhập quốc tế. Điều này thể hiện mối
quan hệ giữa quyết định chủ quan trước xu thế khách quan: trong khi toàn cầu hoá
là xu thế khách quan, việc các nước quyết định mức độ, phạm vi và bước hội nhập là
thuộc yếu tố chủ quan nằm trong chủ quyền của từng nước. Mỗi nước có quyền
hoạch định và triển khai chính sách liên quan đến quá trình hội nhập của mình, căn
cứ vào hoàn cảnh và lợi ích cụ thể của mình. Trong quá trình đàm phám gia nhập
WTO, Campuchia chấp nhận hết các điều kiện mà các bên đàm phám đưa ra để mau
chóng trở thành thành viên của tổ chức này. Trong khi đó, Nga đàm phán với WTO
rất khó khăn. Ở một thái cực khác, Myanmar đóng cửa đất nước, hạn chế ở mức thấp
nhất giao tiếp với thế giới bên ngoài.
Hội nhập quốc tế cũng có tác dụng trở lại đối với độc lập tự chủ. Trước hết,
khi hội nhập trở thành xu thế khách quan, các nước khó có thể đứng ngoài, (dù đứng
ngoài vẫn là một sự lựa chọn chủ quan). Do đó, hội nhập quốc tế làm giảm bớt sự
“tuyệt đối hoá” độc lập tự chủ: Không những đa số các nước phải tăng cường hợp tác
11
quốc tế (tránh chính sách “tự cung tự cấp”) mà trong quá trình hợp tác quốc tế phải
chấp nhận những ràng buộc đối với hành vi của mình do sự hợp tác mang lại. Cụ thể,
các nước đều phải điều chỉnh chính sách trong quá trình hợp tác quốc tế, bị hạn chế
vì các điều khoản quốc tế ràng buộc, do đó không thể tự ý làm điều mình muốn hoặc
không đếm xỉa đển lợi ích của nước khác. Nói cách khác, hội nhập quốc tế đặt ra
những ràng buộc mới, làm các nước phải có những quan niệm mới về độc lập tự chủ.
Thứ hai, và liên quan tới ý trên, hội nhập quốc tế thậm chí còn có thể hạn chế độc
lập tự chủ (hiểu theo cách truyền thống). Ví dụ như tiến trình nhất thể hoá châu Âu
EU cho thấy các nước thành viên từ bỏ một số yếu tố quan trọng của chủ quyền như
tự chủ tài chính - tiền tệ (đồng tiền chung) kiểm soát lãnh thổ (tự do đi lại trong liên
hiệp) và có chính sách đối ngoại, quốc phòng chung. Ở một khía cạnh khác, hội nhập
quốc tế làm tăng sự lệ thuộc của một số nước vào một số nước khác. Đây là quan
điểm của phái Tân Mác-xít với lý thuyết về sự lệ thuộc (dependency) theo đó các
nước nghèo thuộc vùng ngoại vi càng tham gia hệ thống kinh tế thế giới hiện đại
càng nghèo và lệ thuộc vào các nước giàu ở trung tâm hệ thống do mối quan hệ kinh
tế này về bản chất là không bình đẳng, có lợi cho nước giàu. Cuối cùng, hội nhập
quốc tế góp phần phân hoá xã hội của từng nước: lợi ích từ việc hội nhập khác nhau
đối với các nhóm khác nhau trong một xã hội, và từ đó góp phần khoét sâu mâu
thuẫn trong nội bộ các nước, đưa tới việc giảm đồng thuận nội bộ về cách hiểu về lợi
ích quốc gia cũng như phương cách thực hiện lợi ích quốc gia. Lợi ích nhóm dường
như nổi trội hơn, từ đó làm cho quá trình quyết sách trở nên phức tạp và khó khăn
hơn, nhất là trong trường hợp lợi ích nhóm trong một nước lại tìm được đồng minh ở
bên ngoài. Thảo luận trong chuyên ngành kinh tế chính trị học về vai trò của các
công ty đa quốc gia đã đưa ra nhiều ví dụ: không có khái niệm yêu nước trong các
công ty đa quốc gia cũng như ở nhiều nước, các tập đoàn kinh tế đa quốc gia cạnh
tranh gay gắt về chủ quyền với các chính phủ của các nước mà ở đó nó đang hoạt
động. Như vậy, hội nhập quốc tế đem lại những quan niệm mới về độc lập chủ
quyền, đưa đến những yếu tố mới làm giảm cố kết nội bộ, và do đó có thể có tác
động tiêu cực tới việc củng cố độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia.11
11 Thậm chí cả khái niệm về trung thành, yêu nước cũng bị thách thức. Trong các công ty
đa quốc gia, khái niệm về quốc gia đã bị xoá nhoà trước mô hình hệ thống sản xuất toàn
cầu.
12
Thay lời kết luận: Các tình huống kết hợp giữa độc lập tự chủ và hội nhập
quốc tế
Hội nhập nhiều Hội nhập ít
Độc lập tự
chủ cao
Trường hợp tốt nhất: nước độc lập và giàu
mạnh, có quan hệ với nhiều nước và gắn
kết kinh tế với khu vực và thế giới tốt, và
do đó khả năng giữ độc lập tự chủ cao vì
vừa có tiềm lực nội tại và vừa có ràng
buộc và đan xen lợi ích với các nước khác.
Trường hợp hãn hữu: nước giữ được độc
lập tự chủ nhưng ít hội nhập, thường đi
theo hướng biệt lập, tự cung/tự cấp do đó
có độc lập nhưng yếu về nhiều mặt, và vì
thế khả năng giữ độc lập tự chủ không
cao.
Độc lập tự
chủ thấp
Trường hợp đã và có thể xảy ra: nước hội
nhập nhiều nhưng không có lợi thế so
sánh, không có chiến lược xây dựng lợi
thế cạnh tranh, do đó không phát triển,
vẫn nghèo và yếu, do đó luôn lệ thuộc
vào nước khác hoặc vào các tập đoàn đa
quốc gia hoạt động ở nước đó.12
Trường hợp mất nước: mất khả năng
quản lý đất nước do không hội nhập,
không đa dạng quan hệ, do đó bị suy yếu
và lệ thuộc vào một nước khác.
12 Ngoại lệ cho trường hợp này: các nước hội nhập ở mức rất cao và tình nguyện hi sinh
chủ quyền, xây dựng liên hiệp như EU.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_he_doclaptuchu_hoinhapquocte_5962_2167475.pdf