Tài liệu Quan điểm của Ấn Độ về chính sách xoay trục sang châu Á – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ trong đầu thế kỷ XXI: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 59 - Thaùng 7/2018
147
Quan điểm của Ấn Độ về chính sách xoay trục sang châu Á
– Thái Bình Dương của Hoa Kỳ trong đầu thế kỷ XXI
India’s Viewpoints on the American Pivot to the Asia
– Pacific in the Early 21st Century
Hà Thị Nga,
Nhà xuất bản Giáo dục tại TP.HCM
Ha Thi Nga,
Ho Chi Minh City Education Publishing House Limited Company
Tóm tắt
Trong quá trình triển khai những chiến lược lớn tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Ấn Độ và Hoa
Kỳ có sự tương đồng và khác biệt về mặt lợi ích chiến lược. Từ phía Hoa Kỳ, quốc gia này ủng hộ
Chính sách hướng Đông và hành động hướng Đông của Ấn Độ, mong muốn Ấn Độ sẽ trở thành đồng
minh giống như Nhật Bản hay Hàn Quốc. Từ phía Ấn Độ, vì nhiều lí do, quốc gia này vẫn chưa lên
tiếng ủng hộ hay phản đối chính sách xoay trục của Hoa Kỳ.
Từ khoá: Ấn Độ, Hoa Kỳ, chính sách xoay trục, châu Á – Thái Bình Dương.
Abstract
During the process of implementing ambitious strategies i...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 414 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan điểm của Ấn Độ về chính sách xoay trục sang châu Á – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ trong đầu thế kỷ XXI, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 59 - Thaùng 7/2018
147
Quan điểm của Ấn Độ về chính sách xoay trục sang châu Á
– Thái Bình Dương của Hoa Kỳ trong đầu thế kỷ XXI
India’s Viewpoints on the American Pivot to the Asia
– Pacific in the Early 21st Century
Hà Thị Nga,
Nhà xuất bản Giáo dục tại TP.HCM
Ha Thi Nga,
Ho Chi Minh City Education Publishing House Limited Company
Tóm tắt
Trong quá trình triển khai những chiến lược lớn tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Ấn Độ và Hoa
Kỳ có sự tương đồng và khác biệt về mặt lợi ích chiến lược. Từ phía Hoa Kỳ, quốc gia này ủng hộ
Chính sách hướng Đông và hành động hướng Đông của Ấn Độ, mong muốn Ấn Độ sẽ trở thành đồng
minh giống như Nhật Bản hay Hàn Quốc. Từ phía Ấn Độ, vì nhiều lí do, quốc gia này vẫn chưa lên
tiếng ủng hộ hay phản đối chính sách xoay trục của Hoa Kỳ.
Từ khoá: Ấn Độ, Hoa Kỳ, chính sách xoay trục, châu Á – Thái Bình Dương.
Abstract
During the process of implementing ambitious strategies in the Asia-Pacific region, both India and the
United States share similar and adverse aspects in terms of strategic interests. On The United States’
part, this country supports India's “Look East” and “Act East” policies. The United States has been in
favor of India’s becoming its ally like Japan or Korea. Meanwhile, for many reasons, India has not yet
voiced its assertion of support or opposition to the U.S. pivot to Asia policy.
Keywords: India, the United States, pivot policy, the Asia – Pacific region.
1. Chính sách xoay trục sang châu Á
- Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đầu thế
kỷ XXI
Sau Chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ đã đề ra
những chính sách cụ thể đối với khu vực
châu Á - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, do
sự tác động của bối cảnh quốc tế và trong
nước, chính quyền của Tổng thống Bush
(cha), Clinton hay Bush (con) vẫn chưa
triển khai mạnh mẽ những chính sách đó ở
khu vực này mà tập trung vào châu Âu
hoặc Trung Đông. Qua từng thời kỳ, khu
vực châu Á - Thái Bình Dương càng được
chú ý đến nhiều hơn, đó cũng là cơ sở để
đến Tổng thống Obama chính sách này
được triển khai một cách mạnh mẽ.
Tháng 10/2011, trên tạp chí Foreign
Policy (Hoa Kỳ) có đăng bài viết “Thế kỷ
Thái Bình Dương của Mỹ” [1] của Ngoại
trưởng Hillary Clinton. Bài báo nổi tiếng
QUAN ĐIỂM CỦA ẤN ĐỘ VỀ CHÍNH SÁCH XOAY TRỤC SANG CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG
148
này được coi là “giấy khai sinh” cho chiến
lược “Xoay trục” (Pivot) của Hoa Kỳ sang
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Về
sau, nó còn được gọi là chiến lược Tái cân
bằng quyền lực hay Tái bố trí lực lượng.
Về cơ bản, chiến lược xoay trục đề ra
mục tiêu duy trì vị trí lãnh đạo toàn cầu của
Hoa Kỳ. Trong đó, hướng đến những mục
tiêu cụ thể trong các lĩnh vực về kinh tế,
phát triển một nền kinh tế thịnh vượng và
châu Á - Thái Bình Dương là nơi mang đến
sự thịnh vượng cho Hoa Kỳ; về chính trị,
tăng cường sự hiện diện và vai trò lãnh đạo
của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, tạo ra đối trọng trước một Trung
Quốc đang trỗi dậy; về quân sự, tinh giản
quân đội theo hướng chuyên nghiệp và
hiện diện quân sự trọng tâm ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương; về ngoại giao,
tăng cường quan hệ với các đồng minh; về
văn hoá, đẩy mạnh dân chủ và nhân quyền.
Để thực hiện được những mục tiêu
này, Hoa Kỳ cũng đề ra những biện pháp
cụ thể. Trên lĩnh vực kinh tế, Hoa Kỳ tạo ra
mạng lưới quan hệ song phương và đa
phương với tất cả các nước trong khu vực
châu Á - Thái Bình Dương; trong đó, Hiệp
định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái
Bình Dương (TPP) được coi là cơ chế mới
để phục vụ cho những mục đích của Hoa
Kỳ. Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao,
Hoa Kỳ không chỉ gia cố quan hệ với
những đồng minh truyền thống như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Australia.., mà còn tăng
cường hệ thống đồng minh mới gồm những
quốc gia mới nổi trong khu vực hoặc đang
định hình trật tự khu vực như Ấn Độ,
Indonesia, Singapore, New Zealand,
Malaysia, Mông Cổ, Việt Nam, Brunei và
các quốc đảo Thái Bình Dương. Trên lĩnh
vực an ninh - quân sự, Hoa Kỳ đã tiến hành
điều chỉnh, bố trí lại nguồn lực quân sự
theo hướng gọn nhẹ, tập trung hơn, củng
cố quan hệ với các nước đồng minh để tạo
ra trụ cột về an ninh - quân sự và xây dựng
hoặc gia cố các căn cứ quân sự ở châu Á -
Thái Bình Dương.
2. Quan điểm của Ấn Độ về chính
sách xoay trục sang châu Á - Thái Bình
Dương của Hoa Kỳ
2.1. Cơ sở để Ấn Độ nhận thức về
chính sách xoay trục
Theo lý thuyết quan hệ quốc tế, mọi
chính sách, chiến lược của một nước hay
những động thái quan hệ quốc tế giữa các
nước đều bắt nguồn từ lợi ích quốc gia. Do
đó, quan điểm của Ấn Độ về chính sách
xoay trục sang châu Á - Thái Bình Dương
cũng bắt đầu từ việc Ấn Độ nhận thức về
lợi ích cũng như bất lợi mà nước này sẽ đạt
được hay gặp phải khi Hoa Kỳ xoay trục.
Lợi ích của Ấn Độ khi Hoa Kỳ xoay
trục sang châu Á - Thái Bình Dương
Về chính trị:
Mở rộng dân chủ, tạo ra đối trọng với
Trung Quốc, hỗ trợ Ấn Độ tham gia hiện
diện ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Hoa Kỳ và Ấn Độ dễ dàng gặp gỡ nhau về
lợi ích khi cả hai bên đều là quốc gia dân
chủ. Hai bên đều muốn mở rộng nền dân
chủ trên toàn thế giới. Các giá trị dân chủ
mà họ ủng hộ là đa nguyên, khoan dung,
cởi mở và tôn trọng nhân quyền. Các giá trị
dân chủ cũng sẽ là nền tảng và mục tiêu
chung trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Ấn
Độ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương,
khu vực mà cả hai quốc gia đang cùng triển
khai những chiến lược lớn. Bên cạnh đó,
Ấn Độ là một quốc gia mới trỗi dậy, nước
này muốn tìm kiếm một vị trí chính trị
vững chắc trên trường quốc tế mà trước
tiên là trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Do đó, việc Hoa Kỳ ủng hộ Ấn Độ
trở thành một cường quốc là điều vô cùng
HÀ THỊ NGA
149
quan trọng. Trong khuôn khổ của chính
sách xoay trục, Ấn Độ sẽ khai thác triệt để
sự ủng hộ này nhằm đạt được những mục
tiêu của mình.
Triển khai Chính sách hướng Đông
gặp lúc Hoa Kỳ xoay trục sang châu Á -
Thái Bình Dương, Ấn Độ đã có thêm lực
lượng để tạo đối trọng với Trung Quốc.
Trong quá trình triển khai Chính sách
hướng Đông, Ấn Độ đặt trọng tâm là tăng
cường liên kết với các nước Đông Á và do
đó, nước này sẽ rất cần các mối liên kết với
Trung Quốc. Thế nhưng, cùng là hai quốc
gia đang trỗi dậy, song Ấn Độ muốn hiện
diện nhiều hơn ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, còn Trung Quốc chỉ muốn
biến vùng này trở thành nơi thực hiện
những tham vọng riêng của mình. Muốn
hiện diện ở châu Á - Thái Bình Dương,
song Ấn Độ sẽ rất khó hoá giải vấn đề này.
Giữa lúc đó, việc Hoa Kỳ xoay trục sang
châu Á - Thái Bình Dương, có thể nói đối
với Ấn Độ là “ngư ông đắc lợi”. Bởi Trung
Quốc lúc này phải đồng thời đối phó với
hai nước lớn, việc Hoa Kỳ chia sẻ gánh
nặng để đối phó với Trung Quốc đã giúp
Ấn Độ “rảnh tay” thực thi nhiều chính
sách của mình ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương.
Ngoài những vấn đề trên, đối với Ấn
Độ, sự xoay trục sang châu Á - Thái Bình
Dương của Hoa Kỳ sẽ giúp nước này có cơ
hội trong việc gia tăng địa vị và ảnh hưởng
chính trị ở khu vực này.
Về kinh tế:
Thúc đẩy thương mại và đầu tư để gia
tăng sự thịnh vượng và hiện diện sâu hơn ở
châu Á - Thái Bình Dương, lợi ích của
Ấn Độ trên lĩnh vực kinh tế khi Hoa Kỳ
xoay trục sang khu vực này thể hiện ở hai
khía cạnh.
Thứ nhất, thúc đẩy phát triển thương
mại song phương và đầu tư. Khi Hoa Kỳ
xoay trục sang châu Á - Thái Bình Dương,
quốc gia này muốn tìm kiếm những đối tác
trong và rìa khu vực để ủng hộ chính sách
của mình. Do đó, Hoa Kỳ tìm đến Ấn Độ,
mong muốn quốc gia này trở thành đồng
minh mới và ủng hộ Hoa Kỳ trên nhiều
mặt. Để đạt được điều đó, Hoa Kỳ đã chủ
động thúc đẩy hợp tác với Ấn Độ. Ở khía
cạnh này, Ấn Độ sẽ tận dụng được những
hợp đồng kinh tế, những điều khoản ưu đãi
trong xuất, nhập khẩu cũng như những
khoản đầu tư của Hoa Kỳ vào Ấn Độ.
Thứ hai, thông qua những hoạt động
kinh tế chung và sáng lập những tổ chức
kinh tế khu vực sẽ giúp vai trò Ấn Độ ngày
càng tăng ở châu Á - Thái Bình Dương.
Dưới sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, Ấn Độ đã tích
cực tham gia vào cấu trúc kinh tế tại khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Việc Ấn
Độ tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương đã giúp nước này có
một vai trò nhất định trong khu vực. Ấn Độ
cũng muốn trở thành thành viên APEC.
Tuy nhiên, những rào cản thương mại
khiến cho Ấn Độ không được đa số thành
viên của APEC chấp nhận. Vì vậy, Ấn Độ
rất cần sự giúp sức của Hoa Kỳ. Bên cạnh
đó, trong khuôn khổ của chính sách xoay
trục, Hoa Kỳ đã đưa ra sáng kiến về Chiến
lược Hành lang kinh tế Thái Bình Dương
(IPEC) nhằm hoàn tất việc bổ sung cho
Hành động hướng Đông của Ấn Độ. Từ
đây, Hoa Kỳ đã tạo ra hành lang kinh tế Ấn
Độ - Thái Bình Dương để nối kết Nam Á
và Đông Nam Á - nơi Ấn Độ và khu vực
Thái Bình Dương hội tụ những lợi ích và
cũng là nơi thương mại phát triển mạnh mẽ
nhất thế giới. Việc vận hành chương trình
này không chỉ giúp Hoa Kỳ tạo ra một cấu
trúc thương mại liên kết từ Trung Á đến
Đông Nam Á qua Nam Á nhằm nâng cao
QUAN ĐIỂM CỦA ẤN ĐỘ VỀ CHÍNH SÁCH XOAY TRỤC SANG CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG
150
lợi ích về kinh tế và vai trò của mình trong
khu vực, mà đây còn là cơ hội để Ấn Độ
gặt hái được nhiều lợi ích kinh tế và tham
gia sâu hơn vào khu vực.
Về an ninh - quân sự:
Gia tăng năng lực và lực lượng khi
hiện diện ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, tương tự như kinh tế, lợi ích an
ninh - quân sự của Ấn Độ cũng đạt được
khi Hoa Kỳ xoay trục và điều này thể hiện
ở hai khía cạnh:
Một là, thúc đẩy hợp tác an ninh trong
khuôn khổ hai nước để gia tăng năng lực
quân sự cho Ấn Độ. Hợp tác an ninh không
chỉ giúp Hoa Kỳ tăng cường quan hệ với
Ấn Độ khi tìm kiếm một đồng minh ủng hộ
chính sách xoay trục của mình, mà còn
giúp Ấn Độ hưởng được nhiều lợi ích như
nhận chuyển giao kỹ thuật quân sự, các
hợp đồng quân sự với những thiết bị tân
tiến nhất từ Hoa Kỳ. Sự gặp gỡ lợi ích này
sẽ giúp cho mối quan hệ của Ấn Độ với
Hoa Kỳ ngày càng chặt chẽ hơn.
Hai là, các hoạt động chung về quân
sự ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và
việc cùng Hoa Kỳ sáng lập những tổ chức
an ninh - quân sự trong khu vực giúp Ấn
Độ hiện diện nhiều hơn ở châu Á - Thái
Bình Dương.
Bất lợi của Ấn Độ khi Hoa Kỳ xoay
trục sang châu Á - Thái Bình Dương
Thứ nhất, trên phạm vi toàn cầu, Ấn
Độ theo đuổi giấc mộng nước lớn, muốn
thiết lập trật tự đa cực, còn Hoa Kỳ lại chủ
trương bá quyền và muốn thiết lập một trật
tự đơn cực do mình lãnh đạo.
Không chỉ muốn kiềm chế sức mạnh
của Trung Quốc để đảm bảo an ninh quốc
gia, hạn chế quốc gia này ảnh hưởng đến
Nam Á và Ấn Độ Dương, Ấn Độ còn
muốn kiềm chế sức mạnh bá quyền toàn
cầu của Hoa Kỳ. Ấn Độ mong muốn trở
thành một cường quốc về kinh tế và quân
sự không chỉ trong khu vực mà còn trên
toàn thế giới. Do vậy, dù có những lợi ích
mật thiết gắn với Hoa Kỳ, Ấn Độ vẫn
không chấp nhận một thế giới với sự bá
quyền của bất kỳ quốc gia nào. Môi trường
mà Ấn Độ muốn vẫn là một môi trường đa
cực. Thế kỷ XXI là thế kỷ của biển và Ấn
Độ đã có chiến lược để trở thành một
cường quốc biển. Từ việc xác lập vị trí chủ
đạo ở Ấn Độ Dương, Ấn Độ đã tích cực
Hướng Đông để mở rộng phạm vi ảnh
hưởng sang Biển Đông và rìa Thái Bình
Dương. Có thể nói, để hoàn thành giấc
mộng nước lớn, Ấn Độ phải hoàn thành
chiến lược “hai đại dương”. Tức là vừa
thực hiện được việc giữ quyền chủ đạo ở
Ấn Độ Dương vừa tiến sang Thái Bình
Dương. Tuy nhiên, cả hai khu vực biển
được coi là sôi động hàng đầu của thế kỷ
XXI đều có sự hiện diện và chịu sự chi
phối lớn từ Hoa Kỳ. Trên thực tế, Hoa Kỳ
đã có chiến lược Ấn Độ Dương và đang
nắm quyền kiểm soát khu vực này. Sang
đến Thái Bình Dương, Hoa Kỳ cũng đang
thực hiện chiến lược xoay trục và muốn
hiện diện ngày càng sâu hơn, mạnh hơn
thậm chí là dẫn dắt khu vực này. Điều đó
đã ít nhiều ảnh hưởng đến tham vọng của
Ấn Độ. Như vậy, mặc dù gặp gỡ nhau ở
nhiều mặt lợi ích nhưng Hoa Kỳ và Ấn Độ
vẫn có sự đối lập trong tư duy nước lớn.
Thứ hai, trên phạm vi khu vực, Ấn Độ
không muốn Hoa Kỳ kiểm soát Biển Đông
và khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Châu Á - Thái Bình Dương mà cụ thể
là khu vực Biển Đông được xem là trọng
tâm trong chính sách đối ngoại và ưu tiên
hàng đầu của Ấn Độ. Bước sang thế kỷ
XXI, Ấn Độ tiếp tục tăng cường hội nhập
và phát triển mối quan hệ trên nhiều lĩnh
vực tại khu vực này. Ấn Độ là một quốc
HÀ THỊ NGA
151
gia đang phát triển mạnh mẽ với nhu cầu
thông thương hàng hoá rất cao. Ấn Độ
ngày càng ý thức được ý nghĩa của việc
xác lập ảnh hưởng ở châu Á - Thái Bình
Dương, trước hết ở Biển Đông, không chỉ
để bảo đảm cho sự phát triển kinh tế mà
còn xem đây là nơi tốt nhất để vươn ra thế
giới. Tuy nhiên, với một khu vực được
xem là trung tâm phát triển kinh tế, nơi để
các nước lớn thể hiện vai trò của mình
trong trật tự thế giới như châu Á - Thái
Bình Dương hiện nay, thì không chỉ riêng
Ấn Độ mà rất nhiều quốc gia khác cũng
muốn hiện diện ở đây. Địa bàn tranh giành
của các nước ở khu vực này đầu tiên là
Biển Đông. Tính đến thời điểm này, Hoa
Kỳ vẫn là siêu cường duy nhất với nhiều
cường quốc xung quanh. Hoa Kỳ có lợi ích
trực tiếp tại Biển Đông trên nhiều khía
cạnh: duy trì trật tự trên biển do Hoa Kỳ
làm chủ đạo, đặc biệt là về tự do hàng hải;
hỗ trợ, bảo vệ lợi ích của các đồng minh và
quyền lợi của các tập đoàn dầu khí Hoa Kỳ
trong khu vực; kiểm soát sự lớn mạnh của
hải quân Trung Quốc Trong mục tiêu lâu
dài của chiến lược toàn cầu, Hoa Kỳ luôn
muốn trở thành quốc gia dẫn dắt các quốc
gia khác và với khu vực Biển Đông cũng
không ngoại lệ. Thế nhưng, Ấn Độ không
muốn Hoa Kỳ trở thành quốc gia đơn
phương dẫn dắt các quốc gia khác ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung
và khu vực Biển Đông nói riêng. Quốc gia
này muốn xác lập trật tự đa cực và trở
thành một cực quan trọng ở trong đó, và tất
nhiên cũng muốn cùng là nước dẫn dắt khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Phát biểu
trong chuyến thăm Hoa Kỳ vào năm 2016,
Thủ tướng Ấn Độ Modi đã đề cập đến vai
trò lãnh đạo toàn cầu, nhưng không chỉ có
Hoa Kỳ mà còn có cả Ấn Độ “chúng tôi
đã làm việc hết mình để đạt được những
kết quả có lợi cho toàn thế giới và tôi cảm
thấy tự hào rằng chúng tôi không chỉ là hai
người bạn và hai quốc gia đang làm việc
cùng nhau, mà còn là vai trò lãnh đạo mà
chúng tôi đã thực hiện”[6].
Khi Hoa Kỳ thực hiện chính sách xoay
trục sang khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, Ấn Độ có những lợi ích và bất lợi.
Tuy nhiên, những bất lợi này của Ấn Độ là
vấn đề cố hữu trong quan hệ quốc tế đặc
biệt là giữa các cường quốc. Trong khuôn
khổ hai nước, ta thấy rằng, bất lợi dẫu có
nhưng không quá lớn và không hoàn toàn
đối lập với lợi ích của Ấn Độ. Chẳng hạn,
có những vùng hoạt động quân sự chồng
lấn nhưng lợi ích quốc gia của hai bên chưa
bị ảnh hưởng. Thêm vào đó, Trung Quốc
vẫn đang trỗi dậy rất mạnh mẽ, Ấn Độ còn
phải đối phó với những vấn đề tranh chấp
biên giới với Trung Quốc. Đây chính là cơ
sở để lý giải quan điểm của Ấn Độ đối với
chính sách xoay trục của Hoa Kỳ.
2.2. Quan điểm của Ấn Độ về chính
sách xoay trục
Trên cơ sở lợi ích đạt được và bất lợi
gặp phải, Ấn Độ có những quan điểm cụ
thể đối từng lĩnh vực như chính trị, kinh tế,
an ninh đối với chính sách xoay trục sang
châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ.
Về chính trị
Ấn Độ hoan nghênh chính sách xoay
trục với mong muốn có được sự ủng hộ của
Hoa Kỳ trong việc trở thành thành viên
thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc. Ngoài ra, trên những vấn đề quốc tế
khác, Ấn Độ cũng muốn dựa vào vị thế
siêu cường của Hoa Kỳ để nâng cao vị thế
của mình. Bên cạnh đó, nước này còn tranh
thủ sự ủng hộ của Hoa Kỳ để tạo ưu thế
trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ và ảnh
hưởng với Trung Quốc. Trên thực tế, Ấn
Độ đã tận dụng tốt cơ hội này trong tiến
QUAN ĐIỂM CỦA ẤN ĐỘ VỀ CHÍNH SÁCH XOAY TRỤC SANG CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG
152
trình hợp tác với Hoa Kỳ khi giới chính
khách ở đây liên tục công bố việc ủng hộ
Chính sách hướng Đông, ủng hộ Ấn Độ trở
thành một thành viên thường trực của Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc và trở thành
cường quốc trong khu vực cũng như thế
giới. Trong cuộc họp báo chung năm 2010,
Tổng thống Obama cũng đã phát biểu:
“Hoa Kỳ không chỉ hoan nghênh Ấn Độ
như một cường quốc toàn cầu đang tăng
lên, chúng tôi nhiệt tình ủng hộ nó và đã nỗ
lực để làm cho nó thành hiện thực”;
“chúng tôi muốn Ấn Độ không chỉ “Hướng
Đông” mà còn muốn Ấn Độ “Hành động
hướng Đông” - bởi vì nó sẽ làm tăng an
ninh và thịnh vượng của tất cả các quốc
gia của chúng tôi”; “tôi mong muốn một
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc được cải
cách với sự tham gia của Ấn Độ như một
thành viên thường trực” [10]. Đây chính là
lý do để Thủ tướng Modi nêu quan điểm
của mình đối với quan hệ của Hoa Kỳ tại
châu Á - Thái Bình Dương: “Có sự hội tụ
lớn lao đối với phát triển quốc tế quan
trọng, bao gồm hòa bình và ổn định ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Hoa Kỳ là
nội tại của chính sách Hướng Đông và
chính sách Liên kết hướng Tây” (Look
East and Link West policies) [5]. Ấn Độ
với mục tiêu mở rộng ảnh hưởng ở khu vực
châu Á – Thái Bình Dương và đối trọng
với Trung Quốc thì sự ủng hộ của một siêu
cường như Hoa Kỳ là một nhân tố vô cùng
quan trọng. Ở khía cạnh này, Ấn Độ sẽ
dễ dàng ủng hộ chính sách xoay trục của
Hoa Kỳ.
Về kinh tế
Hoa Kỳ là một trong những đối tác
kinh tế lớn nhất của Ấn Độ; hợp tác với
Hoa Kỳ, Ấn Độ sẽ tạo được thịnh vượng và
tiếp thu được khoa học công nghệ cao. Tuy
nhiên, ngoài việc tận dụng ưu tiên từ Hoa
Kỳ, Ấn Độ cũng không muốn bỏ qua
những hợp đồng kinh tế khổng lồ với
Trung Quốc.
Năm 2014, nhân chuyến thăm đến Hoa
Kỳ, Thủ tướng Ấn Độ Modi thể hiện quan
điểm của mình về quan hệ kinh tế với Hoa
Kỳ trong Thông cáo báo chí chung giữa hai
lãnh đạo: “Hoa Kỳ là đối tác thương mại
lớn nhất của Ấn Độ. Hai bên đang tìm kiếm
phương án tăng cán cân thương mại song
phương lên năm lần, đạt 500 tỷ USD” [5].
Phát biểu tại Quốc hội Hoa Kỳ nhân
chuyến thăm năm 2016, Thủ tướng Ấn Độ
Modi khẳng định: “Mối quan hệ thương
mại và đầu tư của hai nước đang phát triển
mạnh mẽ. Chúng tôi buôn bán nhiều với
Hoa Kỳ hơn bất kỳ quốc gia nào khác”.
Trong quan hệ kinh tế, vấn đề được Ấn Độ
đặc biệt quan tâm là sự di chuyển của các
chuyên gia, đặc biệt là các công ty công
nghệ thông tin của Ấn Độ và những quan
điểm bảo hộ ở Hoa Kỳ liên quan đến chuỗi
cung ứng toàn cầu trong ngành dịch vụ
cũng như việc “hỗ trợ công nghệ, ngành
năng lượng, về tài chính cho năng lượng
sạch và an ninh mạng” [8]. Trên thực tế,
Ấn Độ cũng đã tận dụng tốt cơ hội kinh tế
từ trong bối cảnh Hoa Kỳ xoay trục. Ấn Độ
không chỉ được Hoa Kỳ chuyển giao công
nghệ điện hạt nhân mà nước này luôn
giành ưu thế trong quan hệ thương mại với
Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn
thứ 2 của Ấn Độ (sau Trung Quốc). Ngược
lại, Ấn Độ là đối tác thương mại lớn thứ 9
của Hoa Kỳ. Nhưng trong mối quan hệ
này, Hoa Kỳ luôn rơi vào tình trạng thâm
hụt thương mại. Dữ liệu từ Văn phòng
Phân tích Kinh tế Hoa Kỳ cho thấy, trong
giai đoạn 2009 - 2016, thương mại (hàng
hoá và dịch vụ) song phương đã tăng gần
90%, nhưng thâm hụt thương mại của Hoa
Kỳ cũng liên tục tăng qua các năm, từ 7 tỷ
HÀ THỊ NGA
153
USD vào năm 2009 lên gần 25 tỷ USD vào
năm 2012 và đạt gần 30 tỷ USD vào năm
2016. Cũng cần lưu ý rằng, những nhượng
bộ này của Hoa Kỳ đều phục vụ cho những
mục tiêu đẩy mạnh chính sách xoay trục.
Mục tiêu của Chính sách Hành động
hướng Đông là tạo liên kết chặt chẽ ở khu
vực Đông Á. Do đó, ngoài ngoài khu vực
Đông Nam Á thì một trong những hướng
ưu tiên của Ấn Độ là tăng cường liên kết
với Trung Quốc. Ấn Độ hướng sang Trung
Quốc như một nước láng giềng lớn, một đối
tác quan trọng về nhiều mặt, một sự hợp tác
và ủng hộ tích cực trên con đường vươn ra
thế giới của mình. Nhưng mục tiêu trọng
tâm của Ấn Độ đối với Trung Quốc là lợi
dụng sự trỗi dậy của quốc gia này để khai
thác lợi ích cho mình. Hiện tại, Trung Quốc
là đối tác thương mại lớn nhất nên Ấn Độ
không thể bỏ qua những hợp đồng kinh tế
lớn. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến
quốc gia này chưa từng tuyên bố trực tiếp
rằng sẽ ủng hộ Chính sách xoay trục - chính
sách mà theo người Trung Quốc đây là
nhằm bao vây, chống lại sự trỗi dậy của
nước này.
Về quân sự
Ủng hộ Chính sách xoay trục, giúp Ấn
Độ gia tăng năng lực quân sự, tận dụng
việc chuyển giao kỹ thuật quốc phòng của
Hoa Kỳ và tạo đối trọng với Trung Quốc.
Để phục vụ cho mục tiêu của Chính sách
xoay trục, Hoa Kỳ đã liên tục mở những
cuộc tập trận chung cũng như dành những
ưu tiên trong lĩnh vực quốc phòng cho Ấn
Độ mà trước kia chỉ có những quốc gia
đồng minh thân cận mới nhận được. Trên
quan điểm của Ấn Độ, đây là một trong
những cơ hội tốt để quốc gia này gia tăng
năng lực quân sự, đặc biệt là hải quân.
Những hạng mục mà Hoa Kỳ chuyển giao
cho Ấn Độ được đánh giá là ngang hàng
với những đồng minh thân cận nhất của
Hoa Kỳ như Anh. Ấn Độ trong vài năm
qua đã ký nhiều hợp đồng quốc phòng với
Hoa Kỳ, bao gồm việc mua tua bin biển
của Lockheed Martin LM2500 để cấp năng
lượng cho các tàu chiến, máy bay C-130J
Super Hercules, máy bay chở hàng nặng
Globemaster-III C-17, máy bay chiến đấu
LRMR và ASW của P-8I Poseidon Long
Range. Ngoài ra, hai nước còn đang đàm
phán để hiện thực hoá các hợp đồng
thương mại liên quan đến những sản phẩm
quốc phòng tiên tiến như trực thăng tấn
công AH-64 Apache, CH47 Chinook - máy
bay trực thăng hạng nặng và pháo hạng nhẹ
M-777. Gần đây nhất, vào năm 2016,
Washington và New Delhi đã thảo luận về
việc phát triển chung một dự án tàu sân bay
cho Ấn Độ. Công nghệ đắt giá mà Hoa Kỳ
chuyển giao cho Ấn Độ trong dự án lần
này là công nghệ phóng điện, cho phép các
máy bay hạng nặng cất cánh khỏi sân bay.
Chính quyền Obama cũng đã xếp Ấn Độ
vào nhóm G8 để nhận được những công
nghệ tốt nhất từ Hoa Kỳ mà không cần
kiểm soát xuất khẩu. Qua đó, Hoa Kỳ tạo
ưu thế cho Ấn Độ trong khi giải quyết
những vấn đề tranh chấp với Trung Quốc
như trong Tuyên bố chung năm 2009 có
viết: “Hai nhà lãnh đạo cam kết tiếp tục
theo đuổi hợp tác quốc phòng có lợi, cùng
nhau thông qua đối thoại an ninh, trao đổi
cung cấp dịch vụ, tập trận chung, chuyển
giao và hợp tác về thương mại, công nghệ
quốc phòng” [4].
Như vậy, do sự chồng chéo trong quan
hệ quốc tế nên, một mặt Ấn Độ vẫn tăng
cường hợp tác với Hoa Kỳ trong khuôn
khổ của Chính sách xoay trục, mặt khác Ấn
Độ vẫn chưa đưa ra một văn bản chính
thức nào nói về việc ủng hộ Chính sách
xoay trục của Hoa Kỳ, như quốc gia này đã
QUAN ĐIỂM CỦA ẤN ĐỘ VỀ CHÍNH SÁCH XOAY TRỤC SANG CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG
154
ủng hộ chính sách hướng Đông của Ấn Độ.
3. Đánh giá quan điểm của Ấn Độ
Xuất phát từ lợi ích, Ấn Độ có cái nhìn
thiện chí đối với Chính sách xoay trục của
Hoa Kỳ. Tuy nhiên, do sự chồng chéo
trong quan hệ quốc tế đặc biệt là với Trung
Quốc, nên dù cơ bản ủng hộ chính sách
xoay trục của Hoa Kỳ song Ấn Độ chưa
bao giờ thể hiện rõ quan điểm của mình
qua văn bản chính thức. Thế nhưng, thông
qua một số phát biểu của giới lãnh đạo Ấn
Độ như “Mỗi bước đi trong mọi lĩnh vực
phát triển của Ấn Độ, tôi thấy Hoa Kỳ là
một đối tác không thể thiếu. [] Mối quan
hệ đối tác Ấn Độ - Hoa Kỳ có thể củng cố
hòa bình, thịnh vượng và ổn định từ châu Á
đến châu Phi và từ Ấn Độ Dương đến Thái
Bình Dương”[5], chúng ta thấy việc Ấn Độ
hoan nghênh, ủng hộ Chính sách xoay trục
sang châu Á - Thái Bình Dương của Hoa
Kỳ là sự thật.
Quan điểm ủng hộ Chính sách xoay
trục của Ấn Độ đối với Hoa Kỳ còn thể
hiện thông qua việc tăng cường hợp tác
song trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính
trị, quân sự.
Về kinh tế: từ con số khiêm tốn là 5,6
tỷ USD vào năm 1990, tổng kim ngạch
thương mại song phương (hàng hoá và dịch
vụ) giữa hai nước đã tăng lên 20 tỷ USD
trong năm 2000, đến năm 2016 đạt hơn
114,9 tỷ USD; tốc độ tăng trưởng thương
mại hàng năm trong giai đoạn 2000 - 2016
trung bình là 11,6%. Bên cạnh kim ngạch
thương mại là dòng đầu tư hai chiều, theo
số liệu thống kê FDI do DIPP công bố,
Hoa Kỳ là nguồn đầu tư trực tiếp nước
ngoài lớn thứ năm vào Ấn Độ. Dòng FDI
từ Hoa Kỳ trong tháng 4/2000 đến tháng
12/2016 lên tới 19,88 tỷ USD, chiếm 6%
tổng lượng FDI đổ vào Ấn Độ. Theo báo
cáo khảo sát của CII được công bố vào
tháng 8/2015, 100 công ty Ấn Độ đã đầu tư
15 tỷ USD ở 35 tiểu bang, tạo ra hơn
91.000 việc làm cho công dân Mỹ. Các tập
đoàn lớn của Ấn Độ đầu tư vào Hoa Kỳ
là Reliance Industries Limited, Tata
Consultancy Services, Wipro, Essar
America, Piramal, Mahindra, Lupin,
SunPharma[2].
Về chính trị: mức độ gặp gỡ thường
xuyên giữa lãnh đạo cấp cao Hoa Kỳ và Ấn
Độ giai đoạn 2009 – 2016 tăng lên.
Về quân sự: những cuộc tập trận
chung như Malabar, RIMPAC được tổ
chức hai năm một lần, cho phép hai nước
cùng nhau hiện diện nhiều hơn ở châu Á –
Thái Bình Dương. Mức độ hợp tác trong
lĩnh vực quân sự còn thể hiện qua kim
ngạch thương mại quốc phòng giữa Hoa
Kỳ và Ấn Độ đã tăng từ khoảng 1 tỷ USD
lên hơn 15 tỷ USD
Như vậy, trong bối cảnh Hoa Kỳ xoay
trục sang châu Á - Thái Bình Dương, Ấn
Độ cũng đẩy nhanh Chiến lược Hành động
hướng Đông. Trong quá trình triển khai
những chiến lược lớn tại khu vực châu Á -
Thái Bình Dương, Ấn Độ đã có những lợi
ích và bất lợi về chiến lược. Đây cũng
chính là những cơ sở để thấy được quan
điểm của Ấn Độ đối Chính sách xoay trục
của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Ấn Độ về cơ bản ủng hộ chính
sách này của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, do sự
chồng lấn về lợi ích trong quan hệ quốc tế,
nước này không hợp thức hoá việc ủng hộ
đó bằng những tuyên bố trực tiếp chính
thức như Hoa Kỳ từng làm, mà thông qua
những tuyên bố gián tiếp nêu vai trò quan
trọng của Hoa Kỳ trong quan hệ hợp tác
giữa hai nước. Việc làm này của Ấn Độ là
một phương án tối ưu trong bối cảnh quan
hệ quốc tế phức tạp và đang xen, chồng
chéo nhau về lợi ích quốc gia như hiện nay.
HÀ THỊ NGA
155
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hillary Clinton, America’s Pacific Century.
pacific-century/ (Truy cập ngày 10/04/2017).
2. Embassy of India in Washington, U.S India -
US Bilateral Trade.
3. Trần Xuân Hiệp, Trần Như Bắc (2016), “Ấn
Độ trong chính sách “Tái cân bằng” của Mỹ”,
Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á.
4. Ministry of External Affair Government of
India, (November 24, 2009), Joint Statement
between Prime Minister Dr. Manmohan Singh
and President Barack Obama.
5. Ministry of External Affair Government of
India (September 30, 2014), Remarks by
Prime Minister at the Joint Press Briefing
with US President Barack Obama.
6. Ministry of External Affair Government of
India (June 07, 2016), Statement by Prime
Minister during his visit to USA.
7. Ministry of External Affair Government of
India (June 07, 2016), India-US Joint
Statement during the visit of Prime Minister
to USA (The United States and India:
Enduring Global Partners in the 21st
Century).
8. Ministry of External Affair Government of
India (June 08, 2016), Prime Minister's
remarks at the U.S. Congress.
9. Nguyễn Nhâm (2014), “Bàn về khả năng
thích ứng với “trục xoay” của Mỹ”, Tạp chí
Nghiên cứu quốc tế.
10. The White House, President Barack Obama
(November 11, 2010), Remarks by the
President to U.S.-India Business Council and
Entrepreneurship Summit.
Ngày nhận bài: 01/8/2017 Biên tập xong: 15/7/2018 Duyệt đăng: 20/7/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 98_9854_2215003.pdf