Tài liệu Quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất ở Việt Nam từ khi cải cách kinh tế cho tới nay: Chương II
Quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất ở Việt Nam từ khi cải cách kinh tế cho tới nay
Với việc nghiên cứu ở chương 1 chúng ta có thể thấy rõ được bản chất và vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có thể đạt được những hiệu quả mong muốn trong việc điều hành chính sách lãi suất. Điều này được thể hiện rõ qua quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua. Do đó chúng ta cần phải đi tìm hiểu thực trạng quá trình điều hành chính sách lãi suất tại Việt Nam trong thời gian qua để đánh giá được vai trò thực của lãi suất đối với việc phát triển kinh tế Việt Nam và cũng thấy được những điểm còn hạn chế để từ đó đưa ra những kiến nghị cho việc hoàn thiện chính sách lãi suất trong thời gian tới. Đây chính là nội dung chủ yếu được nghiên cứu trong chương này.
1.Quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất của Việt Nam trong giai đoạn từ cải cách kinh tế cho tới nay.
Năm 1986 có thể coi là dấu mốc quan trọng trong quá trìn...
31 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1102 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất ở Việt Nam từ khi cải cách kinh tế cho tới nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương II
Quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất ở Việt Nam từ khi cải cách kinh tế cho tới nay
Với việc nghiên cứu ở chương 1 chúng ta có thể thấy rõ được bản chất và vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có thể đạt được những hiệu quả mong muốn trong việc điều hành chính sách lãi suất. Điều này được thể hiện rõ qua quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua. Do đó chúng ta cần phải đi tìm hiểu thực trạng quá trình điều hành chính sách lãi suất tại Việt Nam trong thời gian qua để đánh giá được vai trò thực của lãi suất đối với việc phát triển kinh tế Việt Nam và cũng thấy được những điểm còn hạn chế để từ đó đưa ra những kiến nghị cho việc hoàn thiện chính sách lãi suất trong thời gian tới. Đây chính là nội dung chủ yếu được nghiên cứu trong chương này.
1.Quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất của Việt Nam trong giai đoạn từ cải cách kinh tế cho tới nay.
Năm 1986 có thể coi là dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế có những cải cách toàn diện, đặc biệt là việc xoá bỏ chế độ tập trung bao cấp. Cùng với quá trình cải cách kinh tế thì chính sách tiền tệ của NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng cũng có những thay đổi để phù hợp với chế độ kinh tế mới. Vì vậy chúng ta có thể coi năm 1986 như là một dấu mốc cho công cuộc chuyển đổi chính sách chính sách kinh tế nói chung và chính sách lãi suất nói riêng. Trải qua hơn một thập kỷ, NHNN đã điều hành chính sách lãi suất trong từng thời kỳ ra sao, sau đây chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất trong từng giai đoạn để từ đó thấy được yêu cầu cần phải hoàn thiện chính sách lãi suất trong thời gian tới.
1.1. Giai đoạn 1986-1988.
Bước vào năm 1986 nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn đổi mới, nền kinh tế có nhiều biến động. Giá cả hàng hoá tăng liên tục, tốc độ tăng cao nhất là đạt 73,2%/ tháng vào năm 1986. Hơn nữa giai đoạn này được đánh dấu bởi hệ thống ngân hàng cấp một nên mọi quyết định đều do NHNN đưa ra.
Do ảnh hưởng của tư tưởng nền kinh tế tập trung bao cấp và cơ chế xin cho nên mục tiêu điều hành chính sách lãi suất trong giai đoạn này là thể hiện sự bao cấp của chính phủ đối với nền kinh tế.
Thực tế trong thời gian này NHNN điều hành lãi suất cho vay luôn nhỏ hơn lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay luôn ở mức thấp, thấp hơn tỉ lệ lạm phát rất nhiều (xem bảng 1).
Bảng1: Diễn biến lãi suất và lạm phát giai đoạn 1986- 1988
Năm
1986
1987
1988
Lãi suất tiền gửi cao nhất (%/ tháng)
6
6
6
Lãi suất cho vay cao nhất (%/ tháng)
5,4
5,4
5,4
Lạm phát (%/ tháng)
73,12
17,54
26,04
Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Giá cả hàng hoá tăng vọt nhưng lãi suất ở mức quá thấp cộng với cơ chế cho vay theo chỉ định “gần như tự động hoá” nên đã khích lệ chủ nghĩa cơ hội trong kinh doanh, đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh, họ đổ xô vào vay vốn ngân hàng, vay đến mức tối đa để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc vay vốn thì các doanh nghiệp cũng thực hiện chiến lược “găm hàng” để chờ ăn chênh lệch giá (do giá cả tăng hàng ngày). Điều đó đã tạo ra nhu cầu vốn và hàng hoá giả tạo. Cơ chế tài chính buộc các ngân hàng phải cho vay với lãi suất thấp, sau đó nhà nước bù lỗ đã dồn gánh nặng tài chính lên hệ thống ngân hàng. Cả hệ thống ngân hàng cũng không thể đáp ứng đủ vốn cho các doanh nghiệp.
Như vậy trong thời kì này chính sách lãi suất của ngân hàng quá kém. Ngân hàng vô hình chung đã trở thành thủ quỹ của nền kinh tế, cấp phát tài chính cho các doanh nghiệp, còn lãi suất là một công cụ điều tiết quan hệ cung cầu vốn, điều tiết lưu thông tiền tệ lại trở thành công cụ kích thích gia tăng lạm phát, gây mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu vốn, nuôi dưỡng tư tưởng bao cấp, dồn ngân hàng vào thế bị động. Lãi suất ngân hàng không thực hiện được chức năng kích thích tiết kiệm cho nền kinh tế và qua thời kì này chúng ta cũng thấy được một chính sách lãi suất thấp không phải bao giờ cũng tốt cho nền kinh tế.
1.2. Giai đoạn 1989-1991
Trong giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam chưa thoát khỏi khủng hoảng, lạm phát vẫn ở mức 2 con số, ngân sách nhà nước thâm hụt lớn. Hệ thống ngân hàng đã được cải tiến thành hệ thống ngân hàng cấp hai theo nghị định 53- HĐBT của hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ) vào tháng 6 năm 1988, song về cơ bản hệ thống ngân hàng vẫn là cấp một .
Nhận rõ được vai trò của lãi suất là công cụ quan trọng trong việc chống lạm phát và với yêu cầu cấp bách là phải ổn định, phát triển kinh tế, NHNN đã đưa ra mục tiêu là phải thực hiện chính sách lãi suất cao, lãi suất tiền gửi lớn hơn tỉ lệ lạm phát.
Thực hiện mục tiêu trên, NHNN đã thực thi giải pháp tình thế là thực hiện chính sách lãi suất tiền gửi cao hơn chỉ số lạm phát để thu hút mạnh mẽ lương tiền trong lưu thông, tăng nguồn vốn kinh doanh cho các ngân hàng thương mại. Thực tế chính sách lãi suất này được thực hiện cho tới hết năm 1991.Tuy nhiên, lãi suất huy động bình quân vẫn cao hơn lãi suất cho vay bình quân. Điều này được thể hiện rõ qua bảng sau:
Bảng 2: Diễn biến lãi suất tiền gửi và cho vay giai đoạn 1989-1991
Năm
1990
1991
%/ tháng
%/ năm
%/ tháng
%/ năm
Lãi suất huy động bình quân
4,5
54
2,8
33,6
Lãi suất cho vay bình quân
3,2
38,4
2,6
31,2
Nguồn: Tạp chí ngân hàng năm 1994
Qua bảng trên ta thấy mức lãi suất huy động cao hơn mức lãi suất cho vay nên đã khuyến khích dân chúng, doanh nghiệp vay vốn để gửi vào ngân hàng và ăn chênh lệch lãi suất. Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp quốc doanh, không thể vay vốn để sản xuất vì họ không thể thu được lợi nhuận trong tình hình lạm phát vẫn còn cao, rủi ro nhiều nên họ đã gửi tiền vào ngân hàng an toàn hơn mà vẫn thu được lãi. Do vậy, tổng lượng vốn huy động đã tăng thêm 4042 tỷ đồng trong năm 1991 nhưng tốc độ đã giảm đi 4,48% so với năm 1990 và tổng tín dụng tăng cả về số lượng và tốc độ: số lượng tăng thêm 4341 tỷ đồng, tốc độ tăng 32,6% (IMF Report on Viet nam1998)
Bên cạnh đó, NHNN còn điều hành thị trường thông qua Thể lệ tín dụng của NHNN đối với các tổ chức tín dụng (QĐ số 2- QĐ/ NH1 ngày 8-1-1991) nhằm bù đắp thiếu hụt khả năng thanh toán và bổ sung vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng. Theo thể lệ này, để bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán thì các tổ chức tín dụng được vay bù trừ vốn thiếu hụt trong thanh toán và được chiết khấu các chứng từ (trái phiếu kho bạc mà các TCTD đã mua và các khế ước cho vay chưa đến hạn thu nợ nhưng có khả năng chắc chắn thu nợ đúng hạn). NHNN khi tái cấp vốn cho các Ngân hàng thương mại không cần thế chấp các chứng từ. Đồng thời NHNN cũng qui định lãi suất cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán gù trừ (gọi tắt là cho vay bù trừ) đối với các NHTM.
Kết quả là chính sách lãi suất cao trong thời kì này đã góp phần chống lạm phát phi mã, đưa nền kinh tế dần vào ổn định. Những lợi ích đó có được xuất phát từ một chính sách lãi suất cao trong bối cảnh nền kinh tế lúc bấy giờ là: thu hút khối lượng tiền rất lớn trong lưu thông, tiền nhàn rỗi của dân cư chuyển từ việc mua hàng hoá sang gửi tiết kiệm, làm cho giá vàng giảm 50%, đồng tiền từ chỗ mất giá sang có giá. Hơn nữa do tác động của lãi suất cao đã có tác động dây chuyền làm giải toả một khối lượng vật tư hàng hoá dự trữ trong kho của các đơn vị sản xuất kinh doanh, phá bỏ sự khan hiếm hàng hoá giả tạo, kéo giá hàng hoá vật tư hàng hoá giảm xuống. Đồng thời áp dụng lãi suất cao cũng làm cho NHNN không phải phát hành tiền vào lưu thông, góp phần làm giảm lạm phát.
Bên cạnh những lợi ích trên thì việc thực hiện chính sách lãi suất cao đã gây ra những khó khăn đối với một số ngành nghề kinh tế, đó chính là “thòng lọng” để thắt cổ các đơn vị kinh tế có tỷ suất lợi nhuận thấp. Do đó, chính sách lãi suất cao không thể duy trì được trong một thời gian dài do những tác động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế. Và sau một thời gian gần 1 năm thực hiện cơ chế lãi suất cao hơn lạm phát, đến đầu năm 1990 tỷ lệ lãi suất lại dần thu hẹp lại. Quý III/ 1990 lãi suất bắt đầu nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát và lãi suất thực âm bắt đầu quay trở lại
Giai đoạn 1991-1995
Có thể nói đây là giai đoạn đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam nói riêng và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Hệ thống ngân hàng có những cải cách tích cực với sự ra đời của luật NHNN năm 1992. Tỷ lệ lạm phát đã giảm dần song vẫn ở mức 2 con số. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng dần qua các năm. (xem bảng dưới đây)
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát trong giai đoạn 1992-1995
Năm
1992
(%/ năm)
1993
(%/ năm)
1994
(%/ năm)
1995
(%/ năm)
Tỷ lệ lạm phát
17,5
5,2
14,4
12,7
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
8,6
8,1
8,8
9,5
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 1/ 1997
Cùng với cải cách kinh tế là quyết tâm xoá bỏ bao cấp và hỗ trợ cho các doanh nghiệp về lãi suất cho nên mục tiêu điều hành chính sách lãi suất trong giai đoạn này là thực hiện chính sách lãi suất thực dương, xoá bỏ bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước, nâng cao quyền tự quyết của các tổ chức tín dụng.
Thực hiện quyết tâm trên, từ tháng 6 năm 1992 Ngân hàng nhà nước đã không trực tiếp ấn định mức lãi suất cụ thể mà chỉ qui định trần lãi suất cho vay tối đa và lãi suất tiền gửi tối thiểu. Trong giai đoạn này, lãi suất đã có những chuyển biến tích cực sang dương tuyệt đối: Tỷ lệ lạm phát< lãi suất huy động bình quân< lãi suất cho vay bình quân. Có thể thấy rõ điều này qua bảng sau:
Bảng 4: Lãi suất ngân hàng thương mại và tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1992-1995
Năm
1992
(%/năm
1993
(%/ năm)
1994
(%/ năm)
1995
(%/ năm)
Tỷ lệ lạm phát
17,5
5,2
14,4
12,7
Lãi suất huy động bình quân
22,8
16,8
15,6
16,8
Lãi suất cho vay bình quân
30
21,6
19,2
20,4
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 1/1997
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy lãi suất huy động đã giảm so với giai đoạn trước, song vẫn cao hơn tỷ lệ lạm phát nên vẫn đảm bảo lãi suất huy động thực dương. Do đó, những người gửi tiền vào ngân hàng sau một thời gian sẽ thu được lãi chứ không phải mất dần vốn, làm cho lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng tăng lên (xem bảng sau)
Bảng 5: Tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm / M2 giai đoạn 1992-1995
Năm
1992
1993
1994
1995
Số lượng tiền gửi vào NHTM (tỷ đồng)
16565
18070
24383
33539
Tỷ trọng tiền gửi/M2 (%)
61
56
56,7
63,6
Nguồn : Báo cáo ngân hàng nhà nước 1997
Mặc dù lãi suất huy động giảm song tốc độ giảm thấp hơn tốc đô tăng của lượng vốn huy động nên tiền lãi phải trả cho người gửi tiền vào ngân hàng tăng lên làm cho chi phí huy động vốn tăng theo do tiền lãi mà ngân hàng phải trả cho người gửi tiền vào ngân hàng chiếm phần lớn trong tổng cho phí huy động vốn. Tuy nhiên, tốc độ tăng của chi phí huy động vốn vẫn thấp hơn tốc độ tăng của lượng vốn huy động, nên có thể nói ở một khía cạnh nào đó các ngân hàng thương mại đã bắt đầu huy động vốn có hiệu quả hơn.
Lãi suất huy động giảm giúp cho các ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay mà không ảnh hưởng đến lợi nhuận của đơn vị mình. Mức lãi suất cho vay giảm qua các năm đã khuyến khích các doanh nghiệp đi vay vốn ngân hàng để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Điều này thể hiện rõ qua nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng từ 19% năm 1992 lên 42% năm 1995 (IMF Report on Viet Nam 1998).
Trong giai đoạn này, chúng ta còn thấy một vấn đề nữa là lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn, có nghĩa là các doanh nghiệp chỉ phải trả một khoản lợi tức nhỏ hơn cho ngân hàng nhưng lại được sử dụng vốn đó trong một khoảng thời gian dài hơn. Có thể thấy rõ điều này qua bảng 6:
Việc qui định lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn như vậy làm méo mó cấu trúc kỳ hạn của lãi suất, gây mạo hiểm đối với các ngân hàng thương mại đặc biệt là các ngân hàng nhỏ. Bởi trên thực tế các ngân hàng thương mại sẽ không đi vay vốn dài hạn mà tập trung vào loại vốn ngắn hạn, rồi dùng vốn ngắn hạn cho vay cả trung và dài hạn. Tiền gửi ngắn hạn có tính thanh khoản cao trong khi cho vay trung và dài hạn thì thu hồi vốn chậm nên những lúc có nhiều người rút tiền ra, ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc thanh toán.
Bảng 6: Lãi suất tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn giai đoạn 1992-1995
Đơn vị: %/ năm, %/ tổng vốn tín dụng
Năm
1992
1993
1994
1995
Lãi suất huy động ngắn hạn bình quân
21,2
16
16,8
16,8
Lãi suất huy động trung và dài hạn bình quân
23
17,5
18
19,2
Lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân
40,8
28,2
25,2
25,2
Lãi suất cho vay trung và dài hạn bình quân
21,2
18
16,9
14,4
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 2 năm 1996
Nhận thấy chính sách không phù hợp này, đến năm 1994, NHNN đã tiến một bước dài trong quá trình điều hành lãi suất khi qui định trần lãi suất ngắn hạn thấp hơn trần lãi suất dài hạn. Đây là chính sách phù hợp với qui luật hình thành lãi suất thị trường.
Bên cạnh đó, NHNN còn điều hành chính sách lãi suất ngắn hạn đối với các TCTD theo quyết định số 285-QĐ/ NH14 năm 1995 qui định tái cấp vốn đối với các TCTD, qui định này thay cho qui định số 02- NH/ QĐ ngày 8-1-1991. Theo quyết định này, NHNN chỉ tái cấp vốn cho nền kinh tế dưới hình thức chiết khấu chứng từ (gồm trái phiếu kho bạc và khế ước cho vay ngắn hạn) và cho vay theo chỉ định. Ngay từ đầu năm 1995, NHNN đã thống nhất lãi suất tái cấp vốn (suất chiết khấu) là 100% lãi suất cho vay theo khế ước của các ngân hàng. Mức lãi suất này không phụ thuộc vào chứng từ chiết khấu mà do NHNN qui định theo mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Như vậy, chính sách lãi suất trong giai đoạn này đã có những bước tiến đáng kể, lãi suất đã từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với qui luật thị trường hơn. NHNN cũng đã chú ý đến việc sử dụng các công cụ gián tiếp trong việc điều hành chính sách lãi suất, đó là bước tiến mới trong quá tình thực hiện tự do hoá lãi suất.
1.4. Giai đoạn từ tháng 10/ 1995 đến 1997.
Nền kinh tế dần đi vào ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, năm 1995 đạt 9,5%. Tỷ lệ lạm phát ở mức thấp (xem bảng 7), đó là dấu hiệu tốt để các NHTM hạ lãi suất huy động, từ đó vừa tăng được lượng vốn cho vay mà không lànm giảm đi lượng vốn huy động. Bảng 7: Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1996-1997
Thời kỳ
Lạm phát(%/tháng)
T1-15/7/96
0,55
16/7-T8/96
-0,55
T9/96
0,3
T10/96-T6/97
0,34
T7/97-T12/97
0,42
Nguồn: Thời báo ngân hàng 12/1997
Mục tiêu điều hành lãi suất trong giai đoạn này là NHNN phải luôn bám theo diễn biến kinh tế trong nước và thế giới để điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay đối với tất cả các loại, các thành phần kinh tế. Tiếp tục qui định trần, sàn lãi suất nhưng theo hướng tự do hơn nữa. Bên cạnh đó là phải tiến tới xoá bỏ chênh lệch quá lớn giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, xoá bỏ nghịch lí giữa lãi suất cho vay trung và dài hạn.
Thực hiện chủ trương trên tháng 10 năm 1995 NHNN đã ra nghị quyết khống chế chênh lệch lãi suất cho vay và huy động là 0,35%/ tháng. Đồng thời cũng giảm trần tất cả các loại lãi suất cho vay và huy động, điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn thấp hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn (xem bảng 8)
Bảng 8: Lãi suất cho vay và huy động của các NHTM giai đoạn 96-97
Thời kì
LS cho vay ngắn hạn
LS cho vay trung và dài hạn
LS cho vay trung và dài hạn
LS huy động ngắn hạn
T1-15/7/96
1,7-1,75
1,65-1,7
1,35-1,4
1,3-1,35
T6/7-T8/96
1,55-1,6
1,6-1,65
1,2-1,25
1,25-1,3
T9/96
1,45-1,5
1,5-1,55
1,1-1,15
1,15-1,2
T10/96-T6/97
1,2-1,25
1,3-1,35
0,85-0,9
0,9-1,0
T7-T12/97
0,95-1,0
1,0-1,1
0,65-0,75
0,8-0,85
Nguồn: Thời báo ngân hàng T12/1997
Đây là một chuyển biến tích cực giúp cho các NHTM mạnh dạn hơn trong việc sử dụng công cụ lãi suất để huy động vốn cho vay trung và dài hạn, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Kết quả của việc điều chỉnh hợp lý này là tổng nguồn vốn tín dụng qua hệ thống ngân hàng đã tăng thêm 12266 tỷ đồng và tốc độ tăng thêm 3% từ năm 1996 đến 1997 (WB Report on Viet Nam 1998)
Một dấu mốc quan trọng khác là vào 15/71996, NHNN đã tiến hành tự do hoá lãi suất tiền gửi, cho phép các TCTD tự quyết định các mức lãi suất tiền gửi. Đây là bước đi phu hợp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của các TCTD. Tốc độ huy động vốn đã tăng từ 25,3% năm 1996 lên 34,3% năm 1997 (IMF Report on Viet Nam 1998).
Như vậy chính sách lãi suất trong giai đoạn này đã có những bước đi thích hợp hơn trong việc điều chỉnh mối tương quan giữa lãi suất ngắn hạn, trung và dài hạn. Tuy nhiên, chính sách lãi suất vẫn còn cứng nhắc, NHNN vẫn còn qui định nhiều trần và sàn lãi suất, điều đó gây khó khăn cho các TCTD trong quá trình thực hiện nghiệp vụ của mình.
Giai đoạn từ năm 1997 đến tháng 8 /2000
Từ cuối năm 1997 do ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ ở châu á, tỷ giá hối đoái của VND bị biến động, sức mua của VND đến cuối năm đã giảm so với đầu năm khoảng 10%. Hơn nữa giai đoạn này cũng được đánh dấu bằng sự suy thoái kinh tế chung của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam cũng không tránh khỏi sự suy thoái đó. Đặc biệt là trong năm 1999, nền kinh tế Việt Nam không phải đối mặt với tình trạng lạm phát mà là tình trạng giảm phát kéo dài. Nguồn vốn ứ đọng trong các ngân hàng, các doanh nghiệp thì ứ đọng hàng hoá. Điều này không phải là do nền kinh tế đã bão hoà về hàng hoá mà theo các nhà kinh tế thì đó là do cuộc khủng hoảng thừa: thừa ở một số mặt hàng được sản xuất ra với chi phí cao, tính cạnh tranh thấp, trong khi đó vẫn thiếu ở một số ngành trọng điểm có vốn đầu tư lớn nhưng tỷ suất lợi nhuận không cao. Bước sang năm 2000 tình trạnh trên vẫn tiếp diễn, các ngân hàng vẫn ứ đọng vốn trong khi đó các doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Đứng trước thực trạng kinh tế trên, mục tiêu điều hành chính sách lãi suất trong giai đoạn này là phải nhằm “kích cầu” nền kinh tế, chấm dứt tình trạng thiểu phát kéo dài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thực hiện chủ trương trên ngay từ khi triển khai thực hiện hai luật ngân hàng (luật NHNN 12/12/1997 và luật các tổ chức tín dụng 31/12/1997) trong năm 1998 NHNN đã thực hiện kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng việc qui định trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng, duy trì chính sách tự do hoá lãi suất tiền gửi, bỏ qui định về khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng là 0,35/ tháng, đồng thời thống nhất trần lãi suất cho vay trên địa bàn thành thị và nông thôn. Đồng thời để thực hiện chủ trương kích cầu nền kinh tế trong năm 1999 NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay từ mức 1,25%/ tháng đối vớiwnvay trung và dài hạn và 1,2%/ tháng đối với cho vay ngắn hạn xuống còn một mức thống nhất là 0,8%/ tháng đối với khu vực thành thị và 1%/ tháng đối với khu vực nông thôn (Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 2 năm 2000).
Tuy nhiên, lãi suất cho vay thực tế vẫn còn cao so với tỷ suất lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc (khoảng 7-8%), làm cho nhiều doanh nghiệp không dám đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh. Hậu quả là tình trạng ứ đọng vốn trong ngân hàng vẫn tiếp tục diễn ra do tốc độ cho vay luôn thấp hơn so với tốc độ tăng tiền gửi. Điều này được thể hiện rõ qua bảng sau:
Bảng 9: Tốc độ huy động và cho vay của hệ thống NHTM năm 1999
Quí
I
II
III
IIII
Tốc độ huy động vốn
3,52
9,3
19,3
2,6
Tốc độ cho vay
âm
6
8,5
12
Nguồn: Tạp chí thị trường 12/1999 và 2/2000
Đứng trước khó khăn của năm 1999, sang năm 2000 các ngân hàng vẫn tiếp tục giảm cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay bằng VND để khắc phục tình trạng ứ đọng vốn trong ngân hàng và tăng cầu tín dụng cũng như cầu hàng hoá cho nền kinh tế.
Bảng 10: Mặt bằng lãi suất tiền gửi của các NHTM từ T1-T8/2000
Lãi suất tiền gửi
VND
USD
Không kỳ hạn
1,2-3,0
1,5-2,0
Kỳ hạn 3 tháng
3,24-6,6
4,0-5,0
Kỳ hạn 6 tháng
4,2-7,2
4,5-5,3
Kỳ hạn 9 tháng
4,8-6,84
5,25-5,6
Kỳ hạn 12 tháng
5,4-7,8
5,0-5,8
Nguồn: Thời báo ngân hàng 1-8/2000
Nhìn vào bảng trên ta nhận thấy các ngân hàng thương mại đã hạ mức lãi suất huy động danh nghĩa xuống song vẫn đảm bảo mức lãi suất huy động thực dương (tỷ lệ giảm phát 8 tháng đầu năm là -0,5%) và lãi suất huy động trung và dài hạn cao hơn lãi suất huy động ngắn hạn. Trong khi đó, lãi suất huy động USD tăng lên gần tương đương với lãi suất huy động VND. Sở dĩ lãi suất huy động USD tăng lên là do xu hướng gia tăng của lãi suất USD trên thị trường quốc tế. Cụ thể là tháng 6/ 1999, lãi suất LIBOR liên tục tăng, tính đến tháng 6 đã tăng lên 6,8%/ năm. Nếu so sánh mức lãi suất 6,8%/ năm với lãi suất huy động VND kỳ hạn 12 tháng cao nhất của hệ thống ngân hàng thương mại là 5,7%/ năm thì có thể thấy ngay là các ngân hàng sau khi huy động được USD trong nước sẽ đầu tư ra nước ngoài để hưởng lãi suất cao hơn. Đây cũng chính là lý do khiến các NHTM chạy đua nâng lãi suất huy động USD, đô la hóa tài sản của mình.
Nếu như trong khâu huy động vốn, các NHTM đua nhau nâng lãi suất huy động USD thì trong khâu cho vay các NH lại cạnh tranh nhau trong việc giảm lãi suất cho vay VND để giảm ứ đọng tiền đồng trong ngân hàng mình. Lãi suất cho vay trong những tháng đầu năm 2000 giảm mạnh so với trần lãi suất của NHNN. Đặc biệt càng gay gắt hơn khi các NTMQD phá vỡ cam kết sàn lãi suất cho vay từ giữa tháng 3 năm 2000. Những khách hàng truyền thống, có lượng vay lớn sẽ được hưởng lãi suất khoảng từ 0,6-0,65%/ tháng hoặc thấp hơn 0,6%/ tháng khi có nguồn ngoại tệ lớn từ huy động xuất khẩu và bán lại cho ngân hàng. Trong khi đó, lãi suất cho vay bằng ngoại tệ khoảng từ 6,5-7%/ năm, thậm chí với một số khách hàng đặc biệt còn được hưởng ưu đãi dưới 6,5%/ năm (Tạp chí ngân hàng tháng 10/ 2000).
Tuy nhiên, việc thực hiện giảm trần lãi suất cho vay trong giai đoạn này với chủ trương kích cầu nền kinh tế không mang lại hiệu quả như mong đợi. Việc hạ lãi suất cũng không kích thích được đầu tư. Lãi suất huy động thực tế vẫn còn cao khiến cho nhiều người chọn giải pháp gửi tiền vào ngân hàng. Chính vì thế, lượng vốn huy động vào ngân hàng tăng lên, phản ánh tình trạng trì trệ trong sản xuất, các doanh nghiệp không tái đầu tư vào sản xuất mà lại gửi tiền vào ngân hàng. Kết quả là dòng vốn đổ dồn vào hệ thống ngân hàng bất chấp tình trạng giảm lãi suất đầu vào, gây ra hiện tượng nghịch lí “ngân hàng thừa vốn, doanh nghiệp thiếu vốn” (nhưng thực tế là doanh nghiệp không hấp thụ được vốn, vốn ứ đọng vào ngân hàng). Hơn nữa, nếu xét trong mối tương quan giữa lãi suất danh nghĩa, lạm phát và tăng trưởng GDP thì lãi suất cho vay thực vẫn còn cao so với các nước, điều này làm cho hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn. Do đó cơ chế điều hành lãi suất cần phải có sự điều chỉnh theo hướng thích hợp hơn.
Bên cạnh việc điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay, NHNN cũng điều chỉnh chính sách lãi suất thông qua nghiệp vụ tái cấp vốn nhằm cung cấp vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng bằng việc ra quyết định số 356/1999/QĐ-NHNN14 ngày 6-10-1999 về việc ban hành qui chế về nghiệp vụ tái cấp vốn, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu được NHNN ấn định trên cơ sở tham khảo lãi suất của tín phiếu NHNN và lãi suất trúng thầu trái phiếu kho bạc ở phiên gần nhất.
Như vậy trải qua hơn một thập kỷ, công cụ tái cấp vốn đã nhanh chóng trở thành công cụ chủ yếu để cung cấp vốn khả dụng cho các NHTM và cũng là kênh quan trọng để NHNN cung ứng tiền. Dư nợ cho vay bình quân/ năm của các NHTM nhỏ hơn 7000 tỷ đồng trong thời kì 1991-1998 đã tăng lên 10312 tỷ trong năm 1999 (Tạp chí ngân hàng tháng 12 năm 2001).
Giai đoạn từ T8/2000-T5/2002
Nhận rõ nhu cầu phải đổi mới chính sách theo hướng tự do hoá, phù hợp với qui định của luật Ngân hàng và định hướng chuyển sang cơ chế thị trường, cơ chế lãi suất đã có bước chuyển đổi căn bản. Việc kiểm soát lãi suất theo cơ chế qui định tràn lãi suất cho vay đã được thay thế bằng cơ chế lãi suất cơ bản (quyết định số 241/ 2000/QĐ- NHNN1 ngày 2/8/2000).
Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trường nhưng vẫn có sự khống chế của NHNN bằng việc qui định biên độ nhất định để các NHTM cho vay. Lãi suất cơ bản được NHNN công bố hàng ngày dựa trên các nhân tố chủ yếu: tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường áp dụng đối với khách hàng có uy tín của 9 ngân hàng thương mại lớn và hoạt động kinh doanh bình thường; diễn biến về lãi suất và tiền tệ; diễn biến kinh tế vĩ mô, quan hệ với tỉ giá và chính sách tiền tệ. Cơ chế này cũng tạo ra khả năng chủ động cho các NHTM trong việc ấn định mức lãi suất huy động cũng như mức lãi suất cho vay phù hợp với cung cầu vốn và mức độ rủi ro của từng khoản vay. Trên thực tế, cơ chế này là một trong những yếu tố tác động đến việc mở rộng cho vay của các NHTM (tốc độ tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế năm 2000 tăng gấp 2 lần so với năm 1999-Tạp chí ngân hàng tháng 2/2001).
Tuy nhiên thực hiện chính sách lãi suất cơ bản tự nó bộc lộ nhiều nhược điểm. Nó làm hạn chế quá trình phát triển của hoạt động kinh doanh ngân hàng và không thích hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Cụ thể là mục đích đưa ra trần lãi suất để hạn chế các NHTM cho vay với lãi suất cao, tránh ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ và khả năng vay vốn của các doanh nghiệp đã không còn thích hợp, vì bản thân các NHTM đã hoạt động trong môi trường cạnh tranh tương đối quyết liệt mà bản thân lãi suất là công cụ quan trọng để thực hiện mục tiêu tìm kiếm khách hàng và nâng cao thị phần tín dụng trong nền kinh tế. Mặt khác nhu cầu tín dụng của nền kinh tế trong những năm tới sẽ còn tiếp tục tăng cao đã đặt ra một yêu cầu bức xúc đối với các NHTM phải huy động được nhiều nguồn vốn, muốn vậy thì lãi suất phải được sử dụng như một đòn bẩy quan trọng. Qua một năm thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ đã cho thấy tỉ giá và thị trường ngoại hối vẫn ổn định và hoạt động bình thường, không có tác động xấu tới hoạt động của nền kinh tế. Ngược lại nó còn tạo điều kiện cho các NHTM ấn định lãi suất huy động, cho vay phù hợp với khả năng của ngân hàng và nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Bên cạnh đó NHNN đã ra quyết định số 251/2001/QĐ-NHNN ngày 30/3/2001 về việc ban hành quy chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá ngắn hạn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng. Để hỗ trợ cho các công cụ khác và thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, NHNN đã liên tục hạ lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn đã giảm từ 0,5%/tháng trong năm 2000 xuống còn 0,4%/tháng trong năm 2001; tương ứng lãi suất tái chiết khấu giảm từ 0,45%/tháng xuống còn 0,35% (tạp chí chứng khoán tháng 1/ 2002 ). Đây là một giải pháp để thực hiện chủ trương kích cầu của chính phủ và là tín hiệu của NHNN phát ra nhằm tác động tới xu thế hình thành lãi suất tín dụng trên thị trường. NHNN đã thay đổi cơ chế tái cấp vốn dưới hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác nhằm cung ứng thêm vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các NHTM, thay thế cho việc thế chấp hồ sơ tín dụng và cho vay chỉ định theo Luật NH 1997. Song trong thực tế chỉ mới có các NHTMQD được vay còn các NHTMCP và chi nhánh NH nước ngoài vẫn đứng ngoài cuộc.
Ngoài việc sử dụng công cụ lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu thì công cụ nghiệp vụ thị trường mở cũng được NHNN sử dụng như một công cụ gián tiếp để tác động tới lãi suất tín dụng trên thị trường. Từ khi khai trương hoạt động nghiệp vụ thị trường mở tháng 7/2000 đến đầu tháng 12/2001, NHNN đã tổ chức được 61 phiên đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở với tổng doanh số giao dịch là 5535 tỷ đồng. Lãi suất hình thành trên thị trường mở bám sát lãi suất thị trường. Lãi suất trong năm 2001 dao động trong khoảng từ 4,9% đến 5,3%/năm. Đặc biệt việc NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường mở đã cung ứng hơn 5000 tỷ đồng cho các TCTD (Tạp chí chứng khoán Việt Nam T1/2002) .
Như vậy trong giai đoạn này chính sách lãi suất đã được điều chỉnh theo tín hiệu thị trường, các công cụ tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở đã được vận dụng linh hoạt hơn, đó là những tiền đề để có thể tiến tới chính sách lãi suất tự do hoá hơn trong quá trình hội nhập kinh tế.
1.7. Giai đoạn từ T6/2002 đến nay
Nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính nói riêng đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới. Xu hướng tự do hoá tài chính đang diễn ra mạnh mẽ trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm. Nghiệp vụ thị trường mở đã ra đời và đi vào hoạt động tương đối ổn định.
Trước yêu cần mạnh mẽ của hội nhập kinh tế và tự do hoá tài chính, mục tiêu điều hành chính sách lãi suất trong giai đoạn này là để cho lãi suất được hình thành theo đúng quan hệ cung-cầu vốn trên thị trường, chính sách lãi suất không còn có sự can thiệp trực tiếp của NHNN, thay vào đó là việc gia tăng hoạt động của các công cụ gián tiếp để tác động tới chính sách lãi suất.
Thực hiện chủ trương trên ngày 30/5/2002 NHNN đã tiến tới một bước dài trong quá trình cải cách điều hành lãi suất khi ban hành quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng bằng đồng VND của các TCTD đối với khách hàng và quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về công bố lãi suất cơ bản. Theo quyết định đó thì “các TCTD xác định lãi suất cho vay bằng VND trên cơ sở quan hệ cung- cầu vốn tín dụng trên thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam; pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam” (Điều 1 QĐ 546). Như vậy, giữa các TCTD và bên vay vốn hoàn toàn thống nhất với nhau về mức lãi suất cho vay, số lượng vay và thời hạn mà không có bất kỳ một sự can thiệp trực tiếp nào của NHNN. Việc NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản nhưng không qui định biên đọ dao động theo QĐ 547 chỉ đơn thuần như là tín hiệu cho thị trường, không hề có tác động nào tới lãi suất cho vay của các TCTD. Vậy thực chất của chính sách lãi suất thoả thuận chính là việc thực hiện tự do hoá lãi suất. Theo lý thuyết tự do hoá lãi suất lần đầu tiên được đưa ra bởi Mc.Kinon và Shaw, những nhà kinh tế học đầu tiên ủng hộ tự do hóa tài chính thì tự do hoá tài chính thì tự do hoá lãi suất được hiểu là nhà nước không can thiệp trực tiếp bằng những qui định vào mức lãi suất trên thị trường mà để cho cung-cầu vốn trên thị trường tự quyết định. Nếu Nhà nước muốn định hướng mức lãi suất thì chỉ bằng các công cụ gián tiếp mà thôi. Như vậy, Nhà nước sẽ tham gia như một lực lượng ảnh hưởng đến cung cầu quĩ cho vay, qua đó sẽ tác động tới lãi suất thị trường. Tuy nhiên, chính sách lãi suất mới này mới được ban hành và đi vào thực tế nên chưa ai có thể kiểm nghiệm được tính hiệu quả của nó. Nhưng chúng ta cũng cần phải xem xét xem tại sao phải thay đổi việc điều hành chính sách lãi suất theo hướng tự do hoá. Cũng như bất kì một chính sách kinh tế mới nào thì chắc chắn chính sách lãi suất mới cũng đặt ra những thách thức đối với hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Để cho chính sách lãi suất mới phát huy tác dụng thì cần phải có những điều kiện gì. Tất cả những điều này sẽ được xem xét kĩ hơn ở chương sau.
2. Đánh giá việc thực hiện chính sách lãi suất của Việt Nam trong thời gian qua.
2.1. Những kết quả đạt được.
2.1.1. Điều hành chính sách lãi suất trong thời gian qua đã góp phần chống lạm phát, ổn định sức mua đồng bản tệ.
Thành tựu quan trọng nhất của việc điều hành chính sách lãi suất trong thời gian qua là việc đạt được mục tiêu chống lạm phát, ổn định sức mua đồng nội tệ. Điển hình nhất là trong giai đoạn sau thời kì cải cách kinh tế, lạm phát phi mã có lúc lên tới 3 con số nhưng nhờ việc điều hành chính sách lãi suất của Ngân hàng trung ương đã kìm hãm được tốc độ tăng của lạm phát. Có thể nói Việt Nam là một trong những nước thành công trong việc chống lạm phát. Một trong những nguyên nhân đạt được kết quả đó là việc Ngân hàng trung ương đã thực hiện cơ chế lãi suất thực dương, từ đó khuyến khích tiết kiệm, giảm bớt sức nóng trên thị trường tài sản. Có thể thấy rõ điều này khi trước năm 1992 lãi suất huy động bình quân thấp hơn tỷ lệ lạm phát, các chủ thể kinh tế không muốn giữ tiền đồng dưới mọi hình thức cho nên họ đã chuyển sang mua tài sản, dẫn đến cơn sốt hàng hoá giả tạo, hậu quả là vòng xoáy lạm phát tăng cao.(xem bảng dưới đây)
Bảng 11: Mối quan hệ giữa LSHĐBQ, LSCYBQ và tỷ lệ lạm phát gđ 1990-2001
Năm
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
00
01
Lạm phát
107
6,8
17,5
5,2
14,4
12,7
4,5
3,6
9
0,1
-0,6
0,8
LSHĐBQ
72
34,8
22,8
16,8
15,6
13,4
10,9
9,84
10,8
8,64
5,04
6
LSCVBQ
42
42
30
21,6
19,2
22,8
20,4
13,7
14,3
12,6
10,4
8,4
Chênh lệch LSHĐBQ với lạm phát
-35
-33
5,3
11,6
1,2
0,74
6,42
6,24
1,8
8,54
5,64
5,2
Chênh lệch LSCVBQ với lạm phát
-30
7,2
7,2
4,8
3,6
9,36
9,48
3,84
3,48
3,96
5,4
2,4
Nguồn: Tổng hợp từ tạp chí tài chính tiền tệ số 1/2001 và số 1/2002
Qua bảng trên ta thấy kể từ năm 1992 trở đi, lãi suất huy động bình quân cao hơn tỷ lệ lạm phát dẫn đến nhu cầu về việc giữ tiền mặt tăng cao, khuyến khích tiết kiệm, tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư và giảm bớt sức căng về vốn tín dụng ngân hàng. Như vậy tỷ lệ lạm phát qua các năm đã giảm đáng kể, từ mức 107,5%/ năm trong năm 1990 xuống 0,8%/ năm trong năm 2001. Bên cạnh đó với việc thực hiện chính sách lãi suất thực dương thì từ sau năm 1991 Ngân hàng trung ương cũng xoá bỏ qui định lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất tiền gửi, cho phép các ngân hàng được phép qui định mức lãi suất tiền gửi và cho vay của mình trong khung lãi suất. Nhờ đó mà lãi suất cho vay bình quân luôn lớn hơn lãi suất huy động bình quân, do đó khuyến khích hoạt động của các ngân hàng, tránh tình trạng ngân hàng thương mại kinh doanh không hiệu quả và các doanh nghiệp nhà nước được hưởng lợi nhiều từ việc bao cấp. Kết quả là hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng ngày một tăng lên.
2.1.2.Chính sách lãi suất góp phần khuyến khích tiết kiệm và mở rộng tín dụng cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, vốn là một trong những yếu tố rất quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam để thực hiện các cải cách kinh tế nhất định. Để khơi thông nguồn vốn trên thị trường thì một trong những biện pháp là phải kích thích tiết kiệm. Thực tế từ khi thực hiện lãi suất thực dương và lãi suất huy động lớn hơn tỉ lệ lạm phát đã góp phần khuyến khích tiết kiệm, tăng cao tỉ lệ tín dụng cho nền kinh tế. Nhờ đó góp phần huy động vốn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh lãi suất cho vay không gây ra những cú sốc tăng mạnh nào mà ngược lại lãi suất cho vay luôn được điều chỉnh phù hợp với biến động của thị trường tiền tệ và nền kinh tế trong nước cũng như nước ngoài cho nên tổng đầu tư của nền kinh tế vẫn được duy trì ổn định và có xu hướng tăng dần qua các năm. Việc đảm bảo vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cũng đã đem lại những dấu hiệu tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Điều này được thể hiện rõ qua sự tăng trưởng của tổng tiết kiệm quốc gia, tổng đầu tư và tổng tín dụng cho nền kinh tế trong bảng dưới đây.
Bảng 12: Tình hình tiết kiệm, đầu tư và tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế gđ 1995-2000
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
GDP
thực tế(%)
9,5
9,3
8,2
3,5
4,2
5,5
Tổng tiết kiệm quốc gia
(%GDP)
13,6
17,6
21,4
19
26,5
27,3
Tổng đầu tư quốc gia
(% GDP)
27,1
28,1
28,3
23
22,4
25,6
Tiết kiệm-đầu tư
(% GDP)
-13,5
-10,5
-6,9
-4
4,1
1,7
Tín dụng cho nền kinh tế
(% GDP)
20,1
22,6
6
19,2
38,1
Nguồn: Table 2, Vietnam: Selected Economic Indicator, 1996-2002
2.1.3. Lãi suất dần được tự do hoá theo định hướng thị trường, loại bỏ dần cơ chế bao cấp qua lãi suất, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng
Chính sách lãi suất của Việt Nam có thể được tóm tắt qua từng giai đoạn như sau:
Từ 1986- tháng 6/ 1992: Qui định lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, trong giai đoạn này lãi suất huy động bình quân nhỏ hơn tỉ lệ lạm phát.
Từ tháng 6/1992- 28/12/1995: Qui định lãi suất cho vay tối đa và lãi suất tiền gửi tối thiểu
Từ 28/12/1995- 31/7/2000: Qui định trần lãi suất cho vay, sau 1998 thì bỏ qui định biên độ 0,35%
Từ 1/8/2000- 31/5/2002: Thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản
Từ 1/6/2002 trở đi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận.
Thành công lớn nhất trong việc điều hành chính sách lãi suất trong thời gian qua là lãi suất đã được dần tự do hoá theo tín hiệu thị trường. Đó là một quá trình phù hợp với qui luật chung trong tiến trình tiến tới tự do hoá lãi suất.
Trong thời kì đầu chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Ngân hàng trung ương qui định trực tiếp lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi đối với các tổ chức tín dụng. Đến năm 1992, Ngân hàng trung ương qui định khung lãi suất cho vay. Đến cuối năm 1995, do các tổ chức tín dụng cho vay với chênh lệch lãi suất quá cao, hoạt động ngân hàng như là một lĩnh vực hấp dẫn nhất. Điều này tác động không tốt đến việc mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, Thống đốc NHNN đã ra quyết định qui định chênh lệch lãi suất tiền gửi trung bình và lãi suất cho vay trung bình của một tổ chức tín dụng không được vượt quá 0,35%/ tháng.
Trong năm 1996, cơ chế điều hành lãi suất tiếp tục được điều chỉnh theo hướng tự do hơn nữa, được đánh dấu bằng việc NHNN qui định bỏ trần lãi suất tiền gửi, chỉ qui định trần lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Trong suốt giai đoạn 1996 đến tháng 8 năm 2000, NHNN qui định trần lãi suất nhưng theo hướng đơn giản hoá các loại lãi suất, từ việc qui định nhiều trần lãi suất NHNN đã từng bước thống nhất trần lãi suất cho cả hai khu vực thành thị và nông thôn. Đồng thời cũng trong giai đoạn này, NHNN thường xuyên điều chỉnh giảm trần lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế trong nước, tạo điều kiện thu hút nguồn vốn trong nước, khuyến khích đầu tư.
Tháng 8 năm 2000, cơ chế điều hành lãi suất của Việt Nam đã tiến một bước lớn trong quá trình tự do hoá khi NHNN bắt đầu điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất cơ bản. Theo cơ chế này, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất kinh doanh trong phạm vi tối đa là lãi suất cơ bản cộng với biên độ qui định của NHNN trong từng thời kì. Đối với đồng nội tệ, biên độ của lãi suất ngắn hạn là 0,35%/ tháng, biên độ của lãi suất trung và dài hạn là 0,5%/ tháng. Đối với đồng ngoại tệ, Trần lãi suất cho vay tối đa được xác lập theo cung cầu lãi suất trên thị trường quốc tế, lấy lãi suất SIBOR làm lãi suất cơ bản( lãi suất SIBOR 3 tháng= 1%/ năm đối với cho vay ngắn hạn, lãi suất SIBOR 6 tháng+ 2,5%/ năm đối với cho vay dài hạn).
Tháng 6 năm 2001, NHNNđã tự do hoàn toàn lãi suất cho vay bằng ngoại tệ. Ngày 31 tháng 5 năm 2002, chính thức tự do hoá hoàn toàn lãi suất đồng nội tệ khi ra quyết định cho phép các tổ chức tín dụng tự do quyết định lãi suất cho vay bằng tiền đồng.
Như vậy, trải qua hơn một thập kỷ, NHNN đã nhiều lần điều chỉnh lãi suất theo định hướng thị trường, dần loại bỏ các qui định mang tính hành chính đối với lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Bắt đầu từ tháng 6 năm 2002 lãi suất đồng nội tệ chính thức được tự do hoá hoàn toàn. Điều này chứng tỏ quyền tự quyết của các tổ chức tín dụng được nâng cao. Có thể tóm tắt mức độ tự do hoá của các loại lãi suất qua bảng sau:
Bảng 13: Mức độ tự do hoá lãi suất của lãi suất tại các tổ chức tín dụng Việt Nam
Loại lãi suất
Tự do hoá hoàn toàn
Qui định mức trần
Tiền gửi VND
X
Cho vay VND
X
Tiền gửi ngoại tệ
X
Cho vay ngoại tệ
X
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
2.1.4.Chênh lệch lãi suất cho vay bình quân và huy động bình quân của Việt Nam đã giảm dần.
Trong thời kì đầu sau những năm cải cách kinh tế lãi suất huy động luôn lớn hơn lãi suất cho vay. Điều này là một nghịch lí và đã gây rất nhiều khó khăn cho các tổ chức tín dụng đặc biệt là các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh vì không được trợ cấp lãi suất. Đến khi thực hiện chính sách lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi thì chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân là rất lớn. Tuy nhiên, với sự lớn mạnh dần của hệ thống ngân hàng trong đó phải kể đến khu vực ngân hàng ngoài quốc doanh bao gồm cả các ngân hàng liên doanh thì chênh lệch lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân ngày một giảm dần. Điều này chỉ ra mức độ cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại đã tăng lên, các ngân hàng thương mại đã dần đa dạng hoá nghiệp vụ, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc quá nhiều vào các nghiệp vụ truyền thống (chỉ huy động và cho vay)
Hơn nữa, so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chênh lệch lãi suất thực bình quân của việt Nam tính đến thời điểm 2001 là tương đối thấp, chứng tỏ khu vực tiền tệ Việt Nam đang trên đà phát triển. Điều này được thể hiện rõ qua bảng sau:
Bảng 14: Chênh lệch lãi suất của Việt Nam và một số nước trong khu vực
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Vietnam
4,8
3,6
9,36
9,48
3,84
3,48
3,96
5,4
2
Thailand
2,54
2,44
1,67
3,07
3,13
3,77
4
Myanmar
7,5
7,5
6,75
4
4
4
5,5
Singapore
3,09
2,88
2,87
2,85
2,85
2,84
4,12
Indonexia
6,04
5,23
2,13
1,96
1,81
-6,92
5,06
Mailaixia
2,01
2,67
1,7
1,8
1,75
2,1
3,19
Hanquoc
0
0
0,17
1,34
1,07
1,99
1,3
Nguồn: International Financial Statistic Jan. 2000, P.48
2.1.5. Chính sách lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu của NHNN đối với các tổ chức tín dụng đã dần thể hiện được ý chí của NHNN, đồng thời đảm bảo cung cấp vốn khả dụng cho nền kinh tế
Qua hơn 10 năm cải cách, NHNN đã đưa ra các qui chế về tái cấp vốn và tái chiết khấu cũng như các chính sách tín dụng ngắn hạn đối với các tổ chức tín dụng qua các thời kì. Các mức lãi suất được điều chỉnh, dần dần thống nhất cho mọi tổ chức tín dụng. Công cụ tái cấp vốn đã nhanh chóng trở thành công cụ chủ yếu để cung cấp vốn khả dụng cho các ngân hàng thương mại và cũng là kênh quan trọng để NHNN cung ứng tiền. Có thể nhận thấy rằng tổng tín dụng Ngân hàng trung ương cung cấp cho các tổ chức tín dụng cũng tăng qua các năm (xem bảng sau):
Bảng 15: Tổng tín dụng cho nền kinh tế
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
T8/2001
Tổng tín dụng cho nền kinh tế(%)
18,2
16,4
16,6
17,4
28,9
27,1
Tổng tín dụng cho các ngân hàng(%)
7,7
6,8
6,5
10,3
14,2
16,1
Cho chính phủ(%)
5,2
4
6,3
0,2
4,3
2,7
Các khoản tín dụng khác(%)
5,2
5,4
3,7
6,9
10,3
8,7
Nguồn: Vietnam Selected Issued, November ,2001
Bên cạnh đó, dư nợ cho vay bình quân/ năm của các ngân hàng đối với các khách hàng cũng ngày một tăng. Trong thời kỳ 1991-1998 tổng dư nợ cho vay bình quân của các tổ chức tín dụng nhỏ hơn 7000 tỷ đồng đã tăng lên 10313 tỷ đồng và 14234 tỷ đồng vào năm 2001 (tạp chí ngân hàng số 7 năm 2001). Trong đó khu vực ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm tỉ trọng lớn trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng.
Bảng 16: Cơ cấu tín dụng ngân hàng giai đoạn 1994- 2000
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Phân theo chủ nợ(%)
Tổng dư nợ cho vay
100
100
100
100
100
100
100
1.Cho vay từ các NHTMQD
82,8
79,6
75,5
77,2
81,4
67,9
73,3
2.Cho vay từ các NH khác
17,2
20,4
24,5
22,8
18,6
32,1
26,7
Phân theo chủ nợ(%)
Tổng dư nợ cho vay
100
100
100
100
100
100
100
1.Cho các DNNN vay
63,0
56,9
52,8
50,2
52,4
48,2
44,9
2.Cho các DN tư nhân vay
37,0
43,1
47,2
49,8
47,6
51,2
55,1
Nguồn: IMF: Vietnam Statistical Appedix, May. 11,1999- Table 26, And Nov.9, 2001-Table20
Trong giai đoạn 1991 đến đầu năm 1995, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu thường thấp hơn lãi suất thị trường, đến năm 1995-1996 lãi suất tái cấp vốn được nâng lên bằng 100% lãi suất thị trường, lãi suất phụ thuộc vào chứng từ chiết khấu, do vậy nó không thể hiện qua điểm điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Nhưng từ năm 1996 đến nay, NHNN qui định trực tiếp lãi suất tái cấp vốn. Đồng thời theo qui định số 356/1999/QĐ-NHNN ngày 16/10/199 của Thống đốc NHNN về việc ban hành qui chế về nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các tổ chức tín dụng thì lãi suất tái cấp vốn sẽ được qui định ở một mức độ nhất định, không phụ thuộc vào chứng từ chiết khấu, điều này dẫn đến sự bình đẳng cho tất cả các tổ chức tín dụng bao gồm cả thành thị và nông thôn.
2.2. Những tồn tại trong điều hành chính sách lãi suất trong thời gian qua
2.2.1. Các loại lãi suất được coi là chỉ đạo của Việt Nam trong thời gian qua không có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
Trong thời giai qua có thể nhận thấy lãi suất tái cấp vốn của NHNN luôn thấp hơn các loại lãi suất chỉ đạo khác (xem biểu đồ sau).
Biểu đồ 3: Diễn biến một số lãi suất chỉ đạo của Việt Nam
giai đoạn T8/2000-T6/2002
Nguồn: International Financial Statistic, Sep. 2002
Điều này không phù hợp với qui luật vốn có của thị trường tiền tệ. Bởi nếu lãi suất tái cấp vốn của NHNN là lãi suất cho vay qua đêm thì lãi suất này luôn luôn là lãi suất cao nhất và là lãi suất phạt đối với các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, có hiện tượng này là do các qui chế về nghiệp vụ tái cấp vốn năm 1994, 1999, 2001 còn nhiều bất cập.
Thứ nhất, các qui chế chưa qui định lãi suất tái cấp vốn qua đêm, đó là lãi suất cực ngắn phạt các tổ chức tín dụng do không quản lí được khả năng thanh toán của mình. Trong thời kì này, NHNN mới chỉ qui định lãi suất tái cấp vốn để bổ sung cho nền kinh tế trong giới hạn mục tiêu cung tiền mà quốc hội thông qua, hay nói cách khác là trong thời kì này NHNN theo đuổi mục tiêu trung gian là mức cung tiền.
Thứ hai, chính sách lãi suất tái cấp vốn còn có sự can thiệp quá lớn của chính phủ. Trong qui chế tái cấp vốn năm 1994 có qui định: trong trường hợp đặc biệt như cho vay ưu đãi, cho vay đối với các khu vực ưu tiên, cho vay theo chương trình kinh tế của chính phủ… thì chính phủ sẽ chỉ định khối lượng tái cấp vốn và mức lãi suất tái cấp vốn. Ngoài ra, trong qui chế về chiết khấu năm 1999, NHNN qui định tổng hợp mức chiết khấu, tái chiết khấu và qui định từng hạn mức cho các ngân hàng thương mại. Như vậy khả năng tiếp cận nguồn vốn tái cấp vốn từ Ngân hàng trung ương giữa các ngân hàng là khác nhau. Chính vì lẽ đó mà công cụ tái cấp vốn còn mang nặng tính xin cho, bao cấp, do vậy nó không thực sự đem lại hiệu quả. Việc điều hành chính sách tái cấp vốn và tái chiết khấu vẫn còn cứng nhắc, không mang tính thị trường, không thể hiện được vai trò kiểm soát tiền tệ và điều tiết thị trường của mình, tạo ra sự không bình đẳng giữa các ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng trung ương.
Bên cạnh đó, mối liên hệ giữa lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất thị trường mở là không rõ nét. Sở dĩ có hiện tượng đó là do thị trường mở mới đi vào hoạt động, qui mô còn nhỏ, công cụ còn nghèo nàn, số lượng các thành viên tham gia vào thị trường còn ít. Ngoài ra, khả năm kiểm soát tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại không cao, dẫn đến việc dự báo tham gia vào thị trường mở không đạt kết quả như mong muốn.
2.2.2. Khả năng điều tiết của thị trường thông qua lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn là ít hiệu quả, nói cách khác là khả năng truyền tải của chính sách lãi suất không cao.
Lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng trung ương thường thấp hơn lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng, điều này khẳng định khả năng điều tiết lãi suất tiền tệ của Ngân hàng trung ương qua công cụ gián tiếp là chưa cao. Đây là hiện tượng không bình thường, tương đối phổ biến ở các nước có nền tài chính chưa phát triển, nơi là các công cụ trực tiếp vẫn còn được sử dụng như qui định hạn mức tín dụng.
Lãi suất cơ bản của NHNN bắt đầu được thực hiện từ tháng 8 năm 2000, về mặt lí thuyết đây là lãi suất chỉ đạo, định hướng cho thị trường. Tuy nhiên, lãi suất này là lãi suất bị động, lãi suất tham khảo của NHNN đối với lãi suất cho vay tốt nhất của các tổ chức tín dụng tốt nhất. Hơn nữa, lãi suất cơ bản khống chế biên độ dao động trong từng thời kì (ví dụ biên độ ngắn hạn là 0,3%/ tháng; dài hạn là 0,5%/ tháng) cho nên về mặt hành chính thì đây chính là lãi suất trần nới lỏng. Trong thời gian kể từ khi điều hành lãi suất cơ bản đến nay, lãi suất cho vay ngắn hạn và dài hạn của các ngân hàng thương mại thường thấp hơn nhiều so với lãi suất cho vay của NHNN. Ví dụ ngân hàng công thương luôn cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất cơ bản+ biên độ dao động. Như vậy, điều hành lãi suất cơ bản của NHNN thực sự không có ảnh hưởng đến lãi suất của các ngân hàng thương mại.
2.2.3. Lãi suất cho vay thực tế còn cao hơn so với các nước trong khu vực gây cản trở đối với việc mở rộng tín dụng trong nền kinh tế.
So với một số nước trong khu vực thì lãi suất cho vay thực của Việt Nam còn khá cao. Điều này được thể hiện rõ qua bảng sau:
Bảng 17: Lãi suất cho vay thực của một số quốc gia trong khu vực
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Việt nam
16,4
4,8
10,1
15
10,1
5,28
12,5
11,04
7
Thailan
7,84
5,9
7,43
7
7,98
6,37
8,5
Myanmar
-15,5
-7,59
-8,66
0
-13,2
-35,0
-0,33
Singapore
3,03
2,84
4,64
4,8
4,35
7,74
4,93
Indonexia
10,9
9,21
9,45
11,2
15,2
-25,6
5,53
Malaixia
5,43
3,9
2,37
5,3
6,92
5,34
4,26
Hàn quốc
3,81
2,28
4,51
3,9
7,4
7,8
8,28
Philippins
7,8
6,63
6,69
5,8
10,3
7,08
3,26
Nguồn: International Financial Statistics, Jan. 2000
Sỡ dĩ trong giai đoạn này lãi suất cho vay thực cao bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, lãi suất huy động của Việt Nam tương đối cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này chứng tỏ lòng tin của người dân vào hệ thống ngân hàng và vào đồng bản tệ không cao. Vì vậy, các tổ chức tín dụng phải tăng lãi suất huy động lên cao mới có thể huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Lãi suất huy động của Việt Nam khá cao so với các nước trong khu vực được thể hiện rõ qua bảng sau:
Bảng 18: Lãi suất tiền gửi thực của Việt nam và một số nước trong khu vực
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Việt nam
11,6
1,2
0,74
6,42
6,42
1,8
8,5
5,64
5,2
Thailan
5,3
3,46
7,76
4,53
4,85
2,8
4
Myanmar
-23,0
-15,1
-15,1
-3,8
-17,2
-39,0
-5,1
Singapore
-0,06
-0,04
1,77
2,01
1,5
4,9
0,8
Indonexia
4,91
3,98
7,32
9,26
13,3
-18,7
0,4
Malaixia
3,42
1,23
0,67
3,59
5,17
3,24
1,0
Hàn quốc
3,81
2,28
4,34
2,6
6,33
5,81
6,9
Nguồn: International Financial Statistics, Jan. 2000
Thứ hai, thị trường vốn của Việt Nam khá rủi ro, các doanh nghiệp trong nước chưa tạo lập được uy tín của mình đối với khách hàng.
Thứ ba, mức độ can thiệp của chính phủ là khá lớn hay nói cách khác là tỷ lệ cho vay theo chỉ định của chính phủ tương đối cao, dẫn đến chi phí vốn của các tổ chức tín dụng tăng cao buộc các tổ chức tín dụng phải tăng lãi suất cho vay. Lãi suất thực cho vay còn tương đối cao so với các nước trong khu vực làm cho khả năng cung cấp tín dụng cho nền kinh tế của Việt Nam so với các nước khác là tương đối thấp. Có thể so sánh với một số nước qua bảng sau:
Bảng 19: Tổng tín dụng cho nền kinh tế của một số nước trong khu vực(% GDP)
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Indonexia
50,2
51,3
53,8
64,9
54,9
58,5
63,2
Hanquoc
140,8
142,6
152,5
167,3
177,6
172,1
159,8
Mailaixia
105,5
119,2
132,4
150,8
146,7
172,1
159,8
Thailand
101,0
108,2
111,6
141,6
140,2
135,0
117,6
Trungquoc
42,1
39,9
39,2
43,4
50,3
54,6
Hongkong
124,5
129,8
137,4
153,9
155,7
147,8
Philippines
48,5
56,8
69,4
79,2
69,8
64,2
Singapore
58,8
62,3
67,1
73,5
88,1
84,8
Dailoan
176,8
179,0
177,2
175,1
178,1
180,4
79,4
Brazil
57,7
36,6
38,0
40,0
49,1
47,7
177,8
Mexico
34,5
28,1
16,91
28,7
26,2
22,2
Vietnam
19,6
19,0
21,3
21,1
19,7
28,2
35,1
Nguồn: IMF, National Sources, Salmon Smith Barney, Citibank calculation.
2.2.4. Trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương chưa xác định rõ mục tiêu trung gian là mức cung tiền hay lãi suất.
Trong thời gian qua, Ngân hàng trung ương dường như cùng một lúc theo đuổi cả hai mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ la mức cung tiền và lãi suất. Ngân hàng trung ương theo đuổi mục tiêu lãi suất được thể hiện ở chính sách trần lãi suất cho vay. Còn việc theo đuổi mức cung tiền M2 được thể hiện trong luật NHNN, điều 15:
“ NHNN có trách nhiệm:
1.Chủ trì xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình chính phủ
2.Điều hành các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, thực hiện việc đưa tiền ra lưu thông, rút tiền từ lưu thông về theo tín hiệu của thị trường trong phạm vi lượng tiền cung ứng đã được chính phủ phê duyệt” ( Luật NHNN 1999)
Xét về mặt lí thuyết thì NHNN không thể lựa chọn cùng một lúc cả hai mục tiêu này. Dựa vào mối quan hệ giữa lãi suất và lượng cung tiền ta có thể giải thích hiện tượng này như sau:
Giả sử nếu NHNN lựa chọn mục tiêu cung tiền ở M*, lãi suất ban đầu ở mức i*. Dưới tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô, cầu tiền sẽ thay đổi đến MD’ hoặc MD” thì lãi suất sẽ thay đổi đến i’(hình vẽ).
H.11: Mối quan hệ giữa lãi suất và lượng cung tiền
i MS* MS’
i’
i*
D MS MD* MD’
Mức cung tiền
Đồng thời để đạt được mục tiêu i*, NHNN phải tăng mức cung tiền thêm một lượng DMS, đường cung tiền sẽ dịch chuyển sang MS’. Như vậy việc lựa chọn cùng một lúc hai mục tiêu cung tiền và lãi suất là không thể thực hiện được, do đó NHNN chỉ có thể kiểm soát được một trông hai biến số này mà thôi. Như đã phân tích trong chương một, với điều kiện Việt Nam hiện nay thì việc lựa chọn mục tiêu cung tiền là hợp lí.
Như vậy, qua chương này chúng ta thấy rõ quá trình điều hành chính sách lãi suất trong thời gian qua là phù hợp với qui luật chung của các nước trong quá trình tiến tới thực hiện tự so hoá lãi suất. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế sắp tới, nền kinh tế Việt Nam nói chung và nền tài chính nói riêng sẽ phải chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó có cả những nhân tố tích cực và những nhân tố tiêu cực. Việc thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất chắc chắn cũng đặt ra nhiều thách thức cho hệ thống ngân hàng. Do vậy, để hạn chế tác động xấu, trong giai đoạn tới việc điều hành chính sách lãi suất cân phải được cân nhắc kĩ càng, xem xét nên lựa chọn công cụ nào để từ đó đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuong II.doc