Tài liệu Probiotics và Prebiotics trong viêm da dị ứng: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan
1
PROBIOTICS VÀ PREBIOTICS TRONG VIÊM DA DỊ ỨNG
Lê Thái Vân Thanh*, Trần Thị Thúy Phượng*
TỔNG QUAN
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rối
loạn thành phần vi sinh vật đường ruột đóng vai
trò quan trọng trong sinh bệnh học của các rối
loạn qua trung gian miễn dịch như các bệnh lý dị
ứng. Theo đó mối quan tâm về vai trò của
probiotic và prebiotic trong ngăn ngừa và điều
trị các bệnh lý dị ứng thông qua cải thiện hệ sinh
khuẩn đường ruột và giảm các cytokine tiền
viêm đang thu hút nhiều mối quan tâm.
“Probiotics” là từ chỉ chung những mảnh và
chuỗi khác nhau của các vi sinh vật với các đặc
điểm lâm sàng và miễn dịch đa dạng. Bộ nông
nghiệp và thực phẩm Hoa Kì và tổ chức Y Tế
Thế Giới định nghĩa “probiotics” là những vi
sinh vật sống mà khi uống một lượng vừa đủ sẽ
có lợi cho sức khỏe của kí chủ. Nhiều báo cáo
cho thấy chúng có khả năng làm giảm sự bất
dung nạp lactose, giảm tiêu chảy, giả...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Probiotics và Prebiotics trong viêm da dị ứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan
1
PROBIOTICS VÀ PREBIOTICS TRONG VIÊM DA DỊ ỨNG
Lê Thái Vân Thanh*, Trần Thị Thúy Phượng*
TỔNG QUAN
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rối
loạn thành phần vi sinh vật đường ruột đóng vai
trò quan trọng trong sinh bệnh học của các rối
loạn qua trung gian miễn dịch như các bệnh lý dị
ứng. Theo đó mối quan tâm về vai trò của
probiotic và prebiotic trong ngăn ngừa và điều
trị các bệnh lý dị ứng thông qua cải thiện hệ sinh
khuẩn đường ruột và giảm các cytokine tiền
viêm đang thu hút nhiều mối quan tâm.
“Probiotics” là từ chỉ chung những mảnh và
chuỗi khác nhau của các vi sinh vật với các đặc
điểm lâm sàng và miễn dịch đa dạng. Bộ nông
nghiệp và thực phẩm Hoa Kì và tổ chức Y Tế
Thế Giới định nghĩa “probiotics” là những vi
sinh vật sống mà khi uống một lượng vừa đủ sẽ
có lợi cho sức khỏe của kí chủ. Nhiều báo cáo
cho thấy chúng có khả năng làm giảm sự bất
dung nạp lactose, giảm tiêu chảy, giảm hội
chứng ruột kích thích và ngăn ngừa bệnh viêm
ruột. Những probiotic thường được dùng nhất là
lactobacilli, bifidobacteria, enterocooci và đôi
khi nấm men Saccharomyces boulardii cũng được
coi như là probiotic(3).
“Prebiotics” là những carbohydrate không
tiêu hóa kích thích sự phát triển của lợi khuẩn
probiotic trong đường ruột. Prebiotic phổ biến
nhất là oligosaccharides. Prebiotic phải có 3 đặc
điểm chính. Đầu tiên, nó phải kháng được sự
tiêu hủy của các men và sự hấp thu tại đường
tiêu hóa. Thứ hai, nó phải được lên men bởi các
vi sinh vật đường ruột và cuối cùng nó phải có
khả năng kích thích có chọn lọc các lợi khuẩn
đường ruột. Prebiotics thường tác động đến
Lactobacillus và Bifidobacterium(14).
“Synbiotics” là sự kết hợp của prebiotic và
probiotic. Thành phần prebiotic hỗ trợ cho sự tồn
tại của các vi sinh vật cung cấp từ thức ăn và
kích thích các probiotic chọn lọc(17).
Nhiều nghiên cứu đã đề cập đến việc sử
dụng prebiotics, probiotics, và synbiotics trong
chàm thể tạng. Những nghiên cứu cho thấy pre‐
hay probiotics có thể giúp ích trong ngăn ngừa
và điều trị chàm thể tạng thông qua việc cải
thiện hệ vi sinh đường ruột và điều hòa hệ miễn
dịch. Bên cạnh đó cũng có 1 số nghiên cứu đánh
giá vai trò của prebiotics và probiotics trong một
số bệnh lý da dị ứng như chàm nói chung và dị
ứng thức ăn cũng như các bệnh lý da khác ở
người lớn.
Trong Chàm thể tạng
Cơ chế tác động của prebiotic và probiotic
Tác động của probiotic và prebiotic làm giảm
bệnh lý dị ứng có thể liên quan tới thuyết vệ
sinh, tức là việc không tiếp xúc với các vi sinh
vật từ giai đoạn đầu đời làm ảnh hưởng đến sự
phát triển của hệ miễn dịch và làm tăng nguy cơ
mắc các bệnh dị ứng. Các bệnh lý dị ứng liên
quan đến sự mất cân bằng hoạt hóa các cytokine
T giúp đỡ (Th1/Th2). Probiotics có thể ức chế đáp
ứng miễn dịch qua trung gian Th2 trong khi kích
thích sản xuất các cytokine Th1 như interferon
gamma (IFN‐g)(6). Thêm vào đó, sự giảm tế bào T
điều hòa (Tregs) là yếu tố cốt yếu gây nên đáp
ứng miễn dịch đã được báo cáo trong chàm thể
tạng và số lượng tế bào này tương quan nghịch
với nồng độ immunoglobulin E (IgE), eosinophil,
và IFN. Probiotics điều hòa lên sự tổng hợp
Tregs, Tregs sau đó sẽ di trú đến nơi xảy ra hiện
tượng viêm và ức chế tiến trình bệnh.
Cơ chế khác liên quan đến bệnh sinh của
chàm thể tạng là sự rối loạn hàng rào bảo vệ da.
Người ta chứng minh rằng Lactobacillus paracasei
làm tăng tốc độ phục hồi hàng rào bảo vệ da.
Tuy nhiên, sự biểu hiện gen filaggrin không thay
đổi khi dùng probiotic trên chó bị viêm da cơ
địa(10). Khiếm khuyết hàng rào bảo vệ da trong
viêm da cơ địa dường như cũng ảnh hưởng đến
niêm mạc ruột và thành phần của lợi khuẩn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017
2
đường ruột ở những bệnh nhân chàm thể tạng
cũng có sự khác biệt. Thật vậy, trẻ em bị chàm
thể tạng và cơ địa mẫn cảm có sự giảm thành
phần bifidobacteria và hệ lợi khuẩn kém đa dạng
trong những năm đầu đời. Do chức năng bảo vệ
của niêm mạc ruột cũng giảm, các kháng nguyên
có thể xâm nhập vào và gây nên các triệu chứng
của viêm da cơ địa đồng thời các triệu chứng
lâm sàng cũng được cải thiện sau khi khắc phục
tình trạng này(2,13).
Một vài tác động của probiotic có thể đặc
trưng cho từng chuỗi sinh vật và thông qua thụ
thể Toll‐like và biểu hiện bởi các tế bào ruột. Ví
dụ, những chuỗi khác nhau của Lactobacillus
salivarius điều hòa sự phóng thích cytokine khác
nhau; chuỗi LDR0723 điều hòa đáp ứng qua
trung gian Th1 và chuỗi BNL1059 và RGS1746
thì qua trung gian Th2(13).
Tất cả điều trên cho thấy prebiotics cũng như
probiotics có thể làm giảm sự sản xuất các sản
phẩm lên men gây độc và điều hòa miễn dịch
thông qua sự cân bằng Th1/Th2 và vì thế có thể
có lợi cho các bệnh nhân chàm thể tạng(13). Tiếp
xúc sớm với các vi sinh vật hỗ trợ sự phát triển
hệ miễn dịch qua trung gian Th1 và làm giảm
đáp ứng qua trung gian Th2. Vì vậy, probiotic
được cho là có vai trò trong ngăn ngừa và điều
trị chàm thể tạng ở phụ nữ có thai và trẻ sơ sinh
thông qua biệt hóa tế bào T ngây thơ thành tế
bào Th1 trưởng thành nhưng ở người lớn thì cơ
chế chưa rõ. Một số giả thiết cho rằng với những
dân số vi khuẩn đường ruột khác nhau, các acid
béo bão hòa chuỗi ngắn (SCFA) và dài (LCFA)
khác nhau. LCFA và SCFA giúp điều hòa hệ
miễn dịch(14).
Probiotic trong ngăn ngừa chàm thể tạng
Trong các phân tích hệ thống gộp (meta‐
analyse), các tác giả Lee và Doege đã báo cáo
nguy cơ viêm da cơ địa giảm ở trẻ được sử dụng
probiotic trước và sau sanh(9). Trong những phân
tích hệ thống khác, tác giả Panduru tổng hợp từ
16 nghiên cứu cho thấy bổ sung probiotic làm
giảm tỉ lệ chàm thể tạng trong dân số chung với
hệ số nguy cơ là 0,76 và đối với nhóm dân số
nguy cơ cao thì hệ số nguy cơ là 0,54(18) Tương tự,
tác giả Foolad và Brezinski cũng đưa ra bằng
chứng về việc sử dụng probiotic ở mẹ và trẻ làm
ngăn ngừa và giảm độ nặng của chàm thể tạng ở
trẻ. Tóm lại, bổ sung probiotic trước và sau sanh,
đặc biệt là Lactobacillus và Bifidobacterium, làm
giảm nguy cơ mắc chàm cơ địa sau này(13).
Hiệu quả phòng ngừa lâu dài cũng được báo
cáo trong một số nghiên cứu. Bổ sung
Lactobacillus rhamnosus trong suốt thời kì trước và
sau sanh cung cấp khả năng bảo vệ bền vững
trước nguy cơ phát triển thành chàm cơ địa và cơ
địa dị ứng kéo dài có thể đến năm trẻ 7 tuổi(13).
Tuy nhiên, Kuitunen và cộng sự lại chỉ ra rằng
hỗn hợp probiotic/prebiotic làm giảm tỉ lệ chàm
thể tạng tính đến 5 tuổi chỉ ở trẻ sinh mổ(7). Gần
đây, West và cộng sự cũng không tìm thấy hiệu
quả bảo vệ lâu dài đến năm 8‐9 tuổi trong nhóm
trẻ sử dụng L. paracasei sau khi cai sữa mặc dù
vẫn được bảo vệ khỏi nguy cơ này khi tính đến
13 tháng tuổi(21). Dựa vào các bằng chứng có
được qua các nghiên cứu và tổng quan, một số
tác giả tin rằng bổ sung probiotics, đặc biệt là
Lactobacillus bắt đầu trong suốt 2 tháng cuối của
thai kì và tiếp tục cho đến 3 tháng đầu đời giúp
trẻ ngăn ngừa chàm thể tạng(13).
Prebiotic trong ngăn ngừa chàm thể tạng
Tác giả Osborn và Sinn khi tổng hợp 4
nghiên cứu trên 1218 trẻ cho thấy hiệu quả của
prebiotic trong phòng ngừa các bệnh dị ứng. Các
tác giả này báo cáo sử dụng hỗn hợp
galactooligosaccharide và fructooligosaccharide
làm giảm tỉ lệ chàm ở trẻ(15). Khả năng ngăn ngừa
dị ứng ở những trẻ nguy cơ dị ứng thấp cũng
được báo cáo trong một nghiên cứu đa trung
tâm trên 1130 trẻ đến từ 5 nước Châu Âu(5). Trẻ
được cung cấp ngẫu nhiên hỗn hợp
oligosaccharides và acidic oligosaccharides bắt
nguồn từ pectin hoặc sữa công thức bình thường
không chứa thành phần này. Kết quả là tỉ lệ
chàm lúc 12 tháng tuổi ở nhóm trẻ dùng
prebiotic thấp hơn nhóm không dùng (5,7 và 9,7
%). Vì thời gian theo dõi của các nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan
3
ngắn nên hiệu quả bảo vệ duy trì của prebiotic
không được báo cáo. Tuy nhiên, tác giả
Arslanoglu và cộng sự cũng đã cho thấy những
trẻ có cơ địa dị ứng nếu được bổ sung sữa công
thức có prebiotic trong 6 tháng đầu đời sẽ có tỉ lệ
mắc phải tích lũy chàm thể tạng chậm hơn 5
năm(1).
Synbiotic trong phòng ngừa chàm thể tạng
Hầu như có rất ít bằng chứng sử dụng
synbiotic trong ngăn ngừa các bệnh dị ứng. Một
nghiên cứu được thực hiện ngẫu nhiên trên 1223
thai phụ dùng synbiotic hoặc giả dược(8) 2‐4 tuần
trước sanh, sau đó con sinh ra của các bà mẹ này
tiếp tục được dùng synbiotic trong 6 tháng sau
sanh. Kết quả cho thấy tỉ lệ các bệnh da dị ứng,
đặc biệt là chàm thể tạng khi bé 2 tuổi giảm ở
nhóm được bổ sung synbiotic. Theo dõi đến 5
tuổi, không có sự khác biệt về tỉ lệ mắc các bệnh
da dị ứng, chàm thể tạng, viêm mũi dị ứng hoặc
hen giữa hai nhóm.
Probiotic trong điều trị chàm thể tạng
Những bằng chứng có tính thuyết phục về
vai trò của probiotic trong điều trị chàm thể tạng
không nhiều như trong việc ngăn ngừa tình
trạng này. Một nghiên cứu sử dụng Lactobacillus
plantarum trong 12 tuần cho 83 trẻ viêm da cơ địa
cho thấy chỉ số SCORAD giảm đáng kể so với
nhóm dùng giả dược vào tuần thứ 14. Mặc dù sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê nhưng không
có ý nghĩa về mặt lâm sàng(13). Tác giả Yelisova
cũng báo cáo việc bổ sung hỗn hợp probiotic
chứa B. bifidum, L. acidophilus, L. casei và L.
salivarius trong 8 tuần làm cải thiện chỉ số
SCORAD và nồng độ các cytokine interleukin
(IL‐5, IL‐6, interferon, IFN‐γ), IgE trong huyết
thanh trẻ bị chàm cơ địa(22). Bên cạnh đó cũng có
những nghiên cứu phân tích hệ thống không
ủng hộ vai trò của probiotic trong điều trị chàm
cơ địa ở trẻ nhỏ, tuy nhiên khi phân tích trên
mẫu nhỏ hơn, đồng nhất hơn thì dường như có
thấy sự cải thiện. Các tác giả cho rằng kết quả
này là do dân số trong các nghiên cứu được
phân tích không đồng nhất(13).
Đối với cải thiện chàm thể tạng ở người lớn,
bổ sung Lactobacilli được báo cáo giúp giảm ngứa
và bỏng rát ở các bệnh nhân chàm kháng trị và L
paracasei K71 giảm độ nặng của sang thương da
vào tuần 8 và 12(12). Nghiên cứu thử nghiệm
ngẫu nhiên, mù đôi, có giả dược dùng
Bifidobacterium animalis cho thấy bệnh nhân được
cải thiện ngứa, điểm số chất lượng cuộc sống và
độ nặng của bệnh(11). Các tác giả tìm ra sự tăng
một sản phẩm được tạo nên trong ruột là
kynurenic acid (KYNA) ở 3 bệnh nhân cải thiện
ngứa do đó, nghiên cứu này cũng đề xuất vai trò
của KYNA trong điều trị ngứa. Drago và cộng sự
cũng thấy hỗn hợp probiotic làm giảm chỉ số
SCORAD ở 38 bệnh nhân chàm trung bình‐
nặng(2).
Mặc dù kết quả các nghiên cứu trên hứa hẹn
vai trò của probitic trong điều trị chàm thể tạng,
tuy nhiên hạn chế là số lượng nghiên cứu còn ít
và mẫu nghiên cứu nhỏ. Phương pháp nghiên
cứu, loại probiotic và cách sử dụng cũng như
thời gian theo dõi không giống nhau của các
nghiên cứu có thể làm kết cục khác nhau(14).
Prebiotic trong điều trị chàm thể tạng
Trong một thử nghiệm lâm sàng trên 29 trẻ
nhỏ hơn 3 tuổi bị chàm dùng fructo‐
fructooligosaccharide trong 12 tuần, điểm
SCORAD ở nhóm dùng prebiotic giảm có ý
nghĩa thống kê tại tuần 6 và tuần 12 so với nhóm
dùng giả dược(19).
Synbiotic trong điều trị chàm thể tạng
Nghiên cứu trên 90 trẻ từ 1 đến 3 tuổi với
chàm cơ địa trung bình, nặng uống symbiotic
gồm L. acidophilus DDS‐1 và B. lactis UABLA‐12
kết hợp với fructooligosaccharides (FOS) hoặc
giả dược trong 8 tuần cho thấy nhóm dùng
synbiotic giảm SCORAD nhiều hơn nhóm giả
dược(4). Trong một thử nghiệm lâm sàng khác, 90
trẻ nhỏ hơn 7 tháng tuổi với chàm cơ địa được
bổ sung B. breve M‐16V và hỗn hợp gồm 90%
galactooligosaccharides [GOS] và 10% FOS trong
12 tuần(20). Không có sự khác biệt cải thiện điểm
số SCORAD với nhóm giả dược tuy nhiên trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017
4
những trẻ chàm liên quan IgE thì điểm số
SCORAD cải thiện tốt hơn nhóm giả dược. Một
vài nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự,
rằng synbiotic có lợi ích trong cải thiện dị ứng ở
những trẻ dị ứng liên quan IgE.
Các bệnh lý da dị ứng khác
Hầu hết nghiên cứu đánh giá hiệu quả của
probiotic trong điều trị bệnh lý dị ứng đều tập
trung vào viêm da cơ địa. Ngoài một số nghiên
cứu về viêm da cơ địa có đi kèm với các bệnh lý
da dị ứng khác có nhắc ở trên, nghiên cứu riêng
trên các bệnh lý khác như chàm nói chung hay
chàm tiếp xúc hầu như không có và chỉ có thử
nghiệm trên động vật.
Một nghiên cứu đánh giá vai trò của
probiotic trong viêm da tiếp xúc được tác giả
Chapat và cộng sự thực hiện trên chuột. Mục
đích của nghiên cứu là đánh giá Lctbs casei có
ảnh hưởng đến viêm da do tế bào T CD8+
chuyên biệt kháng nguyên điều hòa hay không.
Trong nghiên cứu này, chuột được tiếp xúc với
hapten 2,4‐dinitrofuorobenzene. Nghiên cứu này
cung cấp bằng chứng đầu tiên cho thấy uống
Lactobacillus casei có thể làm giảm viêm da do
kháng nguyên đặc hiệu qua kiểm soát dòng tế
bào T CD8+(16). Tương tự, điều trị với probiotic
chứa Lactobacillus casei đơn thuần làm giảm viêm
da do kháng nguyên đặc hiệu được điều hòa bởi
cả tế bào T CD4+ chuyên biệt protein hay tế bào
T CD8+ chuyên biệt hapten ở chuột nhạy cảm
hapten. Trong mô hình viêm da do tế bào T
CD8+ điều hòa, gây viêm da tiếp xúc dị ứng ở
người, L. casei ức chế viêm da do giảm huy động
tế bào T CD8+ vào da trong giai đoạn bùng phát
của tăng nhạy cảm tiếp xúc. Như vậy, dùng L.
casei làm giảm viêm da do tế bào T điều hòa mà
không gây ức chế miễn dịch. Escherichia coli
Nissle 1917 cũng được dùng đường uống để
ngăn ngừa và cải thiện viêm da dị ứng. L. sakei
probio‐65 được phân lập từ Kimchi, một thực
phẩm lên men của Hàn Quốc, cho thấy hiệu quả
trong giảm viêm da dị ứng do dị ứng nguyên là
hóa chất (1‐chloro‐2,4‐dinitrobenzene‐) trên
chuột(16).
Ngoài các bệnh da dị ứng, probiotic và
prebiotic còn được nhắc đến trong các bệnh lý da
khác như mụn, lành thương, vảy nến, lão hóa da
do ánh sáng nhiều thử nghiệm nhỏ cho thấy
mụn trứng cá cải thiện đến 80% ở những bệnh
nhân sử dụng probiotic. Probiotic cũng có thể
làm giảm viêm trong mụn bằng cách làm giảm
phóng thích cytokine viêm và huy động T CD8+
cũng như giúp làm tăng cường hàng rào bảo vệ
da. Probiotic giúp làm giảm tải lượng vi khuẩn,
kích thích lành thương ở các vết thương do
phỏng, loét chân mạn tính(13).
KẾT LUẬN
Tóm lại, bình thường hóa hệ vi khuẩn đường
ruột bằng bổ sung probiotic và prebiotic sẽ mang
lại lợi ích trong một số bệnh lý da. Trong khi các
nghiên cứu ủng hộ nhiều nhất vai trò của
probiotic và prebiotic trong phòng ngừa chàm
thể tạng ở trẻ em, cần có thêm các nghiên cứu để
xác định vai trò của các chất này trong điều trị
chàm thể tạng và trong các bệnh lý da khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arslanoglu S, Moro G, Boehm G, Wienz F, Stahl B, Bertino E
(2012), Early Neutral Prebiotic Oligosaccharide Supplentation
reduces the incidence of some allergic manifestations in the
first 5 years of life. J. Biol. Regul. Homeost. Agents, 26: 49‐59.
2. Drago L, Toscano M, De Vecchi E, Piconi S, Iemoli E (2012),
Changing of fecal flora and clinical effect of L. salivarius LS01
in adults with atopic dermatitis. Journal of clinical
gastroenterology, 46: S56‐S63.
3. Food Agriculture Organization World Health Organization
(2006), "Probiotics in food: health and nutritional properties and
guidelines for evaluation", FAO.
4. Gerasimov SV, Vasjuta VV, Myhovych OO, Bondarchuk LI
(2010), Probiotic supplement reduces atopic dermatitis in
preschool children. American journal of clinical dermatology, 11
(5): 351‐361.
5. Grüber C, van Stuijvenberg M, Mosca F, Moro G, Chirico G,
Braegger CP, Riedler J, Boehm G, Wahn U, Group MW
(2010), Reduced occurrence of early atopic dermatitis because
of immunoactive prebiotics among low‐atopy‐risk infants.
Journal of Allergy and Clinical Immunology, 126 (4): 791‐797.
6. Isolauri E, Sütas Y, Kankaanpää P, Arvilommi H, Salminen S
(2001), Probiotics: effects on immunity. The American journal of
clinical nutrition, 73 (2): 444s‐450s.
7. Kuitunen M, Kukkonen K, Juntunen‐Backman K, Korpela R,
Poussa T, Tuure T, Haahtela T, Savilahti E (2009), Probiotics
prevent IgE‐associated allergy until age 5 years in cesarean‐
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Tổng Quan
5
delivered children but not in the total cohort. Journal of Allergy
and Clinical Immunology, 123 (2): 335‐341.
8. Kukkonen K, Savilahti E, Haahtela T, Juntunen‐Backman K,
Korpela R, Poussa T, Tuure T, Kuitunen M (2007), Probiotics
and prebiotic galacto‐oligosaccharides in the prevention of
allergic diseases: a randomized, double‐blind, placebo‐
controlled trial. Journal of Allergy and Clinical Immunology, 119
(1): 192‐198.
9. Lee J, Seto D, Bielory L (2008), Meta‐analysis of clinical trials
of probiotics for prevention and treatment of pediatric atopic
dermatitis. Journal of Allergy and Clinical Immunology, 121 (1):
116‐121. e11.
10. Marsella R, Santoro D, Ahrens K, Thomas AL (2013),
Investigation of the effect of probiotic exposure on filaggrin
expression in an experimental model of canine atopic
dermatitis. Veterinary dermatology, 24 (2): 260.
11. Matsumoto M, Ebata T, Hirooka J, Hosoya R, Inoue N, Itami
S, Tsuji K, Yaginuma T, Muramatsu K, Nakamura A (2014),
Antipruritic effects of the probiotic strain LKM512 in adults
with atopic dermatitis. Annals of Allergy, Asthma &
Immunology, 113 (2): 209‐216. e7.
12. Moroi M, Uchi S, Nakamura K, Sato S, Shimizu N, Fujii M,
Kumagai T, Saito M, Uchiyama K, Watanabe T (2011),
Beneficial effect of a diet containing heat‐killed Lactobacillus
paracasei K71 on adult type atopic dermatitis. The Journal of
dermatology, 38 (2): 131‐139.
13. Nole KLB, Yim E, Keri JE (2014), Probiotics and prebiotics in
dermatology. Journal of the American Academy of Dermatology,
71 (4): 814‐821.
14. Notay M, Foolad N, Vaughn AR., Sivamani RK (2017),
Probiotics, Prebiotics, and Synbiotics for the Treatment and
Prevention of Adult Dermatological Diseases. American Journal
of Clinical Dermatology: 1‐12.
15. Osborn DA, Sinn JK (2013), Prebiotics in infants for prevention
of allergy. The Cochrane Library.
16. Özdemir Ö, Göksu Erol AY (2013), Preventative and
therapeutic probiotic use in allergic skin conditions:
experimental and clinical findings. BioMed research
international, 2013.
17. Pandey KR, Naik SR, Vakil BV (2015), Probiotics, prebiotics
and synbiotics‐a review. Journal of food science and technology,
52 (12): 7577‐7587.
18. Panduru M, Panduru N, Sălăvăstru C, Tiplica GS (2015),
Probiotics and primary prevention of atopic dermatitis: a
meta‐analysis of randomized controlled studies. Journal of the
European Academy of Dermatology and Venereology, 29(2): 232‐
242.
19. Shibata R, Kimura M, Takahashi H, Mikami K, Aiba Y,
Takeda H, Koga Y (2009), Clinical effects of kestose, a
prebiotic oligosaccharide, on the treatment of atopic dermatitis
in infants. Clinical & Experimental Allergy, 39(9): 1397‐1403.
20. Van der Aa L, Heymans H, Van Aalderen W, Sillevis Smitt J,
Knol J, Ben Amor K, Goossens D, Sprikkelman A (2010),
Effect of a new synbiotic mixture on atopic dermatitis in
infants: a randomized‐controlled trial. Clinical & Experimental
Allergy, 40(5): 795‐804.
21. West CE, Hammarström ML, Hernell O (2009), Probiotics
during weaning reduce the incidence of eczema. Pediatric
Allergy and Immunology, 20(5): 430‐437.
22. Yeşilova Y, Çalka Ö, Akdeniz N, Berktaş M (2012), Effect of
probiotics on the treatment of children with atopic dermatitis.
Annals of dermatology, 24 (2): 189‐193
Ngày nhận bài báo: 14/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 28/02/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- probiotics_va_prebiotics_trong_viem_da_di_ung.pdf