Phương thức tạo lập thuật ngữ hành chính tiếng Việt

Tài liệu Phương thức tạo lập thuật ngữ hành chính tiếng Việt: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 131 Phương thức tạo lập thuật ngữ hành chính tiếng Việt Ways of forming Vietnamese administrative terms ThS. Vũ Thị Yến Nga, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Vu Thi Yen Nga, M.A., Hanoi University of Home Affairs Tóm tắt Thuật ngữ hành chính là từ hay cụm từ dùng để biểu đạt các khái niệm trong lĩnh vực quản lý hành chính của các cơ quan, tổ chức. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ tìm hiểu các phương thức tạo lập thuật ngữ hành chính tiếng Việt làm cơ sở cho những nghiên cứu sâu hơn về thuật ngữ hành chính sau này. Từ khóa: thuật ngữ, thuật ngữ hành chính tiếng Việt. Abtract Administrative terms are words or phrases used to express concepts in the field of administrative management of agencies and organizations. This article, within a certain scope, explores ways of forming Vietnamese administrative terms as the basis for further research into administrative terminology. Keywords...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 518 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương thức tạo lập thuật ngữ hành chính tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 131 Phương thức tạo lập thuật ngữ hành chính tiếng Việt Ways of forming Vietnamese administrative terms ThS. Vũ Thị Yến Nga, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Vu Thi Yen Nga, M.A., Hanoi University of Home Affairs Tóm tắt Thuật ngữ hành chính là từ hay cụm từ dùng để biểu đạt các khái niệm trong lĩnh vực quản lý hành chính của các cơ quan, tổ chức. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ tìm hiểu các phương thức tạo lập thuật ngữ hành chính tiếng Việt làm cơ sở cho những nghiên cứu sâu hơn về thuật ngữ hành chính sau này. Từ khóa: thuật ngữ, thuật ngữ hành chính tiếng Việt. Abtract Administrative terms are words or phrases used to express concepts in the field of administrative management of agencies and organizations. This article, within a certain scope, explores ways of forming Vietnamese administrative terms as the basis for further research into administrative terminology. Keywords: terminology, Vietnamese administrative terms. Đặt vấn đề Trong bất cứ lĩnh vực khoa học hay lĩnh vực hoạt động chuyên môn nào cũng đều có một lớp từ vựng chuyên dụng để biểu thị các khái niệm/đối tượng thuộc lĩnh vực đó. Lớp tự vựng chuyên dụng đó được gọi là hệ thuật ngữ. Là bộ phận quan trọng trong lớp từ vựng của mỗi ngôn ngữ, thuật ngữ chiếm một tỉ lệ lớn trong vốn từ và có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học. Thuật ngữ phản ánh những đặc trưng bản chất nhất, những mối liên hệ có tính quy luật phổ biến nhất của đối tượng. Thuật ngữ chính là nguồn thu nhận thông tin và là phương tiện để truyền đạt các kiến thức khoa học- kỹ thuật. Do đó, thuật ngữ luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, cải tạo xã hội. Vì vậy, thuật ngữ nói chung và thuật ngữ hành chính nói riêng là một mảng đề tài hấp dẫn, có tầm quan trọng đặc biệt, mang ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ tìm hiểu các phương thức tạo lập thuật ngữ hành chính tiếng Việt làm cơ sở cho những nghiên cứu sâu hơn về thuật ngữ hành chính sau này. 1. Một số khái niệm cơ bản 1.1. Khái niệm thuật ngữ Thế kỷ XX là thế kỷ của sự phát triển PHƯƠNG THỨC TẠO LẬP THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH TIẾNG VI T 132 khoa học, công nghệ dẫn đến sự phát triển hệ thống khái niệm của nhiều ngành khoa học và nhiều lĩnh vực tri thức mới. Sự xuất hiện các khái niệm mới đòi hỏi được ‘định danh” dẫn đến cuộc ‘bùng nổ thuật ngữ’. Thực tế cho thấy, trong nhiều thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu về thuật ngữ đã xây dựng một kho tàng đồ sộ về thuật ngữ học và cũng đưa ra rất nhiều định nghĩa về thuật ngữ. Sau khi nghiên cứu các định nghĩa về thuật ngữ của nhiều học giả, chúng tôi phân chia các định nghĩa về thuật ngữ theo bốn xu hướng cơ bản: (1) xác định thuật ngữ trong sự phân biệt nó với các từ phi thuật ngữ (từ thông thường, từ nghề nghiệp); (2) phân biệt thuật ngữ với danh pháp; (3) định nghĩa thuật ngữ theo mối quan hệ với khái niệm mà nó biểu hiện; và (4) định nghĩa thuật ngữ nghiêng về chức năng của nó. Có thể nói, có nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ, nhưng tựu chung, các nhà khoa học đều quan niệm rằng thuật ngữ là từ hoặc cụm từ biểu thị một khái niệm hay một đối tượng thuộc một lĩnh vực khoa học hoặc chuyên môn nhất định [10]. 1.2. Khái niệm thuật ngữ hành chính Để xác định được phạm vi và nội dung biểu đạt của thuật ngữ hành chính, trước tiên cần phải xác định chính xác thuật ngữ hành chính. Hành chính là một thuật ngữ có lịch sử lâu đời và là một lĩnh vực đa diện được nhìn nhận, phân tích, định nghĩa và đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau như khoa học tổ chức, quản lý nhà nước, khoa học quản lý Dưới mỗi góc độ nghiên cứu, cách hiểu về hành chính cũng khác nhau. Thuật ngữ hành chính bắt nguồn từ tiếng Latin cổ “Administratio”, nghĩa là “phục vụ”, sau này là ministrate, nghĩa là “điều hành” vì thế có thể hiểu một cách đại thể rằng hành chính là cai trị người khác thông qua việc yêu cầu chấp hành các quyết định do người đó ban hành và chịu sự kiểm soát của họ, hoặc có thể hiểu hành chính là điều hành, khai thác, huy động và sử dụng các nguồn lực theo luật định nhằm đạt được mục tiêu của hệ thống (tổ chức hoặc Nhà nước). Với cách hiểu đó, hành chính được định nghĩa ‘là hoạt động chấp hành và điều hành trong phạm vi tổ chức theo những quy định nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra’ [2, 8]. Từ hai góc độ rộng và hẹp, hành chính được xác định gồm hành chính công và hành chính tư: Hành chính công là hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan Nhà nước, mang tính quyền lực Nhà nước, sử dụng quyền lực Nhà nước để quản lý công việc công của Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích chung hay lợi ích riêng hợp pháp của các công dân. Như vậy, hành chính công bao hàm toàn bộ các cơ quan thuộc chính quyền của bộ máy hành pháp từ Trung ương tới các cấp chính quyền địa phương, toàn bộ các thể chế và hoạt động của bộ máy ấy với tất cả những người làm việc trong đó nữa. [3, 10]. Còn Hành chính tư là công việc quản lý các hoạt động của các tổ chức hay bộ máy thuộc các thành phần kinh tế, xã hội ngoài phạm vi của hành chính công [Dẫn theo 8, 12]. Nguyễn Văn Khang cho rằng thuật ngữ hành chính (administration) được dùng để chỉ sự thi hành pháp luật, quản lý điều hành xã hội. Thuật ngữ này còn có tên gọi khác trong tiếng Anh là bureaucrary. Thuật ngữ hành chính (bureaucrary) này ban đầu do nhà kinh tế Vinxon de Goucuai sử dụng vào năm 1745 để chỉ quyền hành pháp nhưng với nghĩa xấu là ‘cai trị, ăn bám’, ‘phục dịch nhà vua và cai trị’. Nhưng mãi đến thế kỷ XX, nhà xã hội học VŨ THỊ YẾN NGA 133 Pháp Max Weber đã đưa thuật ngữ này trở thành một môn khoa học thật sự dùng để chỉ một hệ thống tổ chức với sự phân định chức năng rõ ràng, nội quy, quy chế, với hành thức quan hệ, sắp xếp thứ bậc và cơ cấu quản lý Như vậy bureaucrary đồng nghĩa với administration và chức năng được mở rộng không chỉ là cai trị (quản lý) mà còn phục vụ xã hội (phục vụ công cộng). Gắn liền với sự hình thành và phát triển của nhà nước, khái niệm nền hành chính nhà nước ngày càng được hoàn chỉnh, và cho đến nay, có thể coi đó là một hệ thống các tổ chức và định chế nhà nước có chức năng quản lý và điều hành công việc hằng ngày của nhà nước, tổ chức và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của tổ chức và của công dân bằng các văn bản dưới luật (hay còn gọi là thực thi quyền hành pháp) nhằm giữ gìn trật tự công cộng và phục vụ đời sống dân cư [6, 8-9]. Có thể thấy, tùy vào hướng tiếp cận mà thuật ngữ hành chính được hiểu và giải thích khác nhau. Tuy nhiên, dù ở góc độ tiếp cận nào, cách giải thích của các nhà nghiên cứu đều có một số điểm chung như: 1. Hành chính là một dạng đặc thù của hoạt động tổ chức, quản lý điều hành; 2. Hành chính là dạng hoạt động nhằm đạt được mục đích chung; 3. Hoạt động hành chính là hoạt động quản lý, tổ chức, điều hành công tác của các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức kinh tế trong xã hội. Trên cơ sở phân tích và nhận thức như đã trình bày trên đây, chúng tôi quan niệm ‘Thuật ngữ hành chính là từ ngữ dùng để biểu đạt các khái niệm hoặc đối tượng nhất định thuộc lĩnh vực khoa học hành chính hay lĩnh vực tổ chức hoạt động, quản lý, điều hành công tác của tất cả các cơ quan, các tổ chức trong xã hội’. 2. Các phương thức tạo lập thuật ngữ hành chính tiếng Việt Trong khoa học nói chung và trong lĩnh vực hành chính nói riêng, khi có một khái niệm về một sự vật, hiện tượng... mới xuất hiện, nó sẽ được định nghĩa và rồi được đặt tên và rồi khái niệm ấy khẳng định vị trí mới của mình trong ngành khoa học đó, lập tức sẽ có những khái niệm mới, những sự vật, hiện tượng.. mới hơn có liên quan logic đến nó xuất hiện và chúng lần lượt lại được định nghĩa, được gọi tên và được xác lập vị trí mới trong khoa học. Đây là tiến trình phát triển có tính quy luật của ngôn ngữ nói chung và của hệ thống thuật ngữ khoa học nói riêng, trong đó có hệ thống thuật ngữ hành chính. Qua việc nghiên cứu về những phương thức tạo lập thuật ngữ, các nhà ngữ học đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau. Theo Sager, có ba phương thức tạo ra thuật ngữ mới đó là: (1) Sử dụng các thuật ngữ hiện có trong ngôn ngữ chung; (2) tạo thuật ngữ mới dựa trên nguồn thuật ngữ hiện có bằng các phương thức phụ gia, ghép, chuyển từ loại và viết tắt; (3) Tạo ra thuật ngữ mới cho ngôn ngữ chuyên ngành dựa trên khái niệm mới [12, tr.71]. Theo Hoàng Văn Hành, thuật ngữ trong tiếng Việt cũng được hình thành từ ba con đường cơ bản là: (1) Thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường; (2) Cấu tạo những thuật ngữ tương ứng với thuật ngữ nước ngoài bằng phương thức sao phỏng; (3) Mượn nguyên thuật ngữ nước ngoài, thường là những thuật ngữ có tính quốc tế” [4, tr.26]. Tuy nhiên, Lê Khả Kế khái quát hóa chỉ có hai phương thức tạo thành thuật ngữ trong tiếng Việt đó là: (1) Đặt thuật ngữ trên cơ sở tiếng Việt và (2) Tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài, PHƯƠNG THỨC TẠO LẬP THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH TIẾNG VI T 134 còn phương thức thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường và phương thức sao phỏng chỉ là một phương thức mà thôi [5, tr.142]. Dựa vào các phương thức xây dựng thuật ngữ mà các nhà ngữ học trên thế giới và Việt Nam đưa ra cũng như căn cứ vào kết quả phân tích 3500 đơn vị thuật ngữ hành chính tiếng Việt được khảo sát từ nhiều cuốn từ điển hiện hành như (1) Từ điển hành chính, Tô Tử Hạ (chủ biên), Nxb Lao động Xã hội, H., 2003; (2) Từ điển giải thích TNHC, Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn (chủ biên), Nxb Lao động, H. 2002; (3) Thuật ngữ hành chính, Viện nghiên cứu hành chính, H., 2002; (4) Thuật ngữ hành chính, Viện nghiên cứu khoa học hành chính, H., 2009; (5) Từ điển hành chính công Anh - Việt, Nguyễn Minh Y, Nxb Thống kê, H., 2002..., chúng tôi thấy rằng hệ thuật ngữ hành chính tiếng Việt được tạo lập từ những phương thức cơ bản sau đây: 2.1. Thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường theo hướng thu hẹp nghĩa Thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường là phương thức phổ biến nhất trong quá trình hình thành thuật ngữ. Đó chính là phương thức biến đổi và phát triển nghĩa của từ để tạo ra một nghĩa mới (nghĩa thuật ngữ). Thực chất, nghĩa thuật ngữ đó là một nghĩa phái sinh trên cơ sở nghĩa ban đầu của từ ngữ thông thường hoặc trên cơ sở một hay một vài nét nghĩa cơ bản trong cấu trúc biểu niệm của từ [7, tr.33]. Đó là trường hợp mặt biểu hiện (vỏ ngữ âm) của từ giữ nguyên không thay đổi, còn ý nghĩa thì thay đổi. [1, tr.276]. Có thể nói, thuật ngữ được hình thành bằng con đường thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường là những thuật ngữ được hình thành theo phương thức chuyên biệt hóa về nghĩa của từ thông thường. Qua nghiên cứu hệ thuật ngữ hành chính được khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng do thuật ngữ hành chính tồn tại chủ yếu dưới dạng viết trong các văn bản hành chính công vụ được sử dụng với tư cách là công cụ pháp lý, được ban hành để toàn xã hội hiểu, tuân thủ và áp dụng, là phương tiện để giao dịch với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân... chính vì thế ngoài những tiêu chuẩn vốn có của thuật ngữ nói chung như tính khoa học và tính quốc tế, thuật ngữ hành chính còn bao hàm tính toàn dân nữa. Thế nên nhiều thuật ngữ hành chính trong tiếng Việt đều được hình thành từ các từ ngữ trong đời sống hàng ngày. Đó là những từ ngữ thông thường trong ngôn ngữ toàn dân được thuật ngữ hóa theo kiểu mở rộng hay thu hẹp nghĩa để tạo ra thuật ngữ hành chính. Nói cách khác, chúng là những từ ngữ thông thường được chuyên môn hóa về nghĩa. Qua khảo sát, có đến 268 thuật ngữ hành chính hình thành theo hướng này, chiếm 7,7 . Chẳng hạn: Ví dụ: “báo cáo là một động từ có nghĩa thông thường, là “trình bày cho biết tình hình, sự việc”. Khi trở thành thuật ngữ hành chính, nó giữ nguyên nghĩa là động từ “trình bày tình hình, sự việc cho cấp trên , ví dụ: “Thủ tướng chính phủ yêu cầu Hải Dương báo cáo về việc một sở có 34 người thì đến 32 người là cán bộ nhưng cũng trở thành danh từ chỉ tên gọi của một loại văn bản hành chính thông thường dùng để phản ánh tình hình, tường trình lên cấp trên hoặc với tập thể các vấn đề, sự việc có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, ví dụ: báo cáo định kì báo cáo tổng kết báo cáo sơ kết tháng cuối năm, báo cáo đột xuất báo cáo tổng hợp “xây dựng cũng là thuật ngữ hành chính, với tư cách là từ thông thường, “xây dựng được định nghĩa là “làm nền công VŨ THỊ YẾN NGA 135 trình kiến trúc theo một kế hoạch nhất định”. Khi trở thành thuật ngữ hành chính, “xây dựng” được hiểu là “công việc tạo ra một văn bản hay hình thành một tổ chức, một chỉnh thể về kinh tế, văn hóa, xã hội theo một phương hướng nhất định”, ví dụ: xây dựng báo cáo xây dựng chính sách xây dựng định chế xây dựng kế hoạch xây dựng pháp luật Như vậy, “ báo cáo”, “xây dựng” là những từ thông thường và “ báo cáo”, “xây dựng” là các thuật ngữ hành chính biểu thị các khái niệm khác nhau về cùng một sự vật, hiện tượng. Khác với khi là từ ngữ thông thường, các thuật ngữ hành chính biểu thị đặc trưng chung nhất, bản chất nhất của sự vật, hiện tượng được nhận thức theo lĩnh vực hành chính. Có thể khẳng định rằng, giữa từ ngữ thông thường và từ ngữ đã được thuật ngữ hóa có chung một hình thức cấu tạo nhưng chúng phân biệt nhau về ý nghĩa. Từ sự phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng, thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường là một trong những phương thức cơ bản của sự phát triển hệ thống thuật ngữ hành chính. Phương thức này cho ta thấy rõ một hướng hình thành các nghĩa mới của từ vựng nói chung và nghĩa thuật ngữ hành chính nói riêng theo hướng biến đổi và phát triển nghĩa của các đơn vị từ vựng. Đây cũng là con đường làm giàu vốn thuật ngữ hành chính một cách tiết kiệm nhất, đó là phát triển, tạo lập nội dung nghĩa mới, mang chức năng mới trong hình thức đã có của từ ngữ thông thường trong vốn từ vựng. Được tạo lập theo phương thức này, thuật ngữ hành chính dễ hiểu và dễ sử dụng đối với quảng đại quần chúng. 2.2. Tạo thuật ngữ hành chính trên cơ sở cứ liệu vốn có Tạo thuật ngữ cũng chính là việc định danh cho khái niệm đối tượng trong một ngành khoa học hoặc lĩnh vực chuyên môn nhất định. Thông thường, khi định danh, người ta tiến hành quy loại khái niệm đối tượng, tiếp theo là chọn đặc trưng hoặc yếu tố có giá trị khu biệt khái niệm đối tượng để làm cơ sở định danh và cuối cùng là dùng các phương thức tạo từ. Phổ biến nhất là cách kết hợp ghép các yếu tố chỉ loại với các yếu tố chỉ đặc trưng khu biệt để tạo thành hình thái bên trong của thuật ngữ. Có thể nói chính sự tham gia của chúng với tư cách là yếu tố cấu tạo đã góp phần sản sinh ra nhiều thuật ngữ mới. Chẳng hạn, - thuật ngữ chính sách có thể tham gia vào cấu tạo ra nhiều thuật ngữ hành chính mới như chính sách đối nội, chính sách phát triển nông thôn, chính sách pháp luật, chính sách tiền tệ, chính sách tài chính quốc gia, chính sách tôn giáo... - thuật ngữ công tác có thể cấu tạo sản sinh ra rất nhiều thuật ngữ hành chính mới như công tác thi đua khen thưởng, công tác nữ công, công tác lưu trữ hồ sơ, công tác phát triển Đảng viên, công tác quản lý cán bộ công chức - thuật ngữ thủ tục tham gia tạo sinh những thuật ngữ hành chính mới như thủ tục xếp bậc lương, thủ tục xét tuyển công chức, thủ tục tuyển đặc cách viên chức, thủ tục xét phong chiến sĩ thi đua Thuật ngữ được tạo ra theo phương thức này có ưu điểm là ý nghĩa của thuật ngữ rất rõ ràng, dễ hiểu vì từng thành tố trong thuật ngữ đã có nghĩa rõ ràng rõ ràng. Tuy nhiên, có hạn chế là độ dài của thuật ngữ có thể rất lớn, trên thực tế có những thuật ngữ có từ 3 đến 6 thậm chí gần 10 thành tố, ví dụ: khoán biên chế và kinh phí quản lí hành chính, bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính PHƯƠNG THỨC TẠO LẬP THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH TIẾNG VI T 136 2.3. Vay mượn từ thuật ngữ hành chính nước ngoài Vay mượn là sự thể hiện quá trình tác động qua lại giữa các ngôn ngữ của nhiều dân tộc diễn ra trong những điều kiện phát triển không đều của các ngôn ngữ tiếp xúc với nhau. Hiện tượng vay mượn ngôn ngữ là phương thức khá phổ biến của bất kỳ ngôn ngữ nào trong quá trình phát triển và làm giàu vốn thuật ngữ của mình, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay. Do đó, việc vay mượn các thuật ngữ hành chính cũng là điều dễ hiểu. Có thể khái quát việc vay mượn thuật ngữ hành chính nước ngoài của thuật ngữ hành chính tiếng Việt như sau: 1) ao ph ng Sao phỏng được hiểu một cách đơn giản là việc sao chép, mô phỏng lại trật tự cấu trúc ngữ pháp - ngữ nghĩa của đơn vị tương ứng trong ngôn ngữ này để dịch từng yếu tố cấu tạo trong thuật ngữ của ngôn ngữ kia và ngược lại. Tác giả Hà Quang Năng trong bài viết Đặc điểm của thuật ngữ tiếng Việt lại cho rằng, có hai phương thức sao phỏng là sao phỏng cấu tạo từ và sao phỏng ngữ nghĩa. Sao phỏng cấu tạo từ là quá trình dùng chất liệu của tiếng Việt để cấu tạo một đơn vị từ vựng dựa theo mô hình kết cấu của đơn vị tương ứng trong tiếng nước ngoài. Thực chất của phương thức này là dịch từng thành tố cấu tạo thuật ngữ hoặc từng thành phần trong cấu tạo thuật ngữ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt. Còn sao phỏng ý nghĩa là trong quá trình dịch, khi người dịch không tìm được từ ngữ trong tiếng mẹ đ có ý nghĩa tương đương với từ ngữ nước ngoài cần dịch thì người dịch phải tạo ra một thuật ngữ khác trong ngôn ngữ của mình để diễn đạt ý nghĩa của từ ngữ đó. Chúng ta thấy việc dịch thuật ngữ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia vốn không đơn giản do văn hóa, tư duy và sự phân chia thế giới thể hiện trong ngôn ngữ của các dân tộc thường có sự khác biệt. Nhiều khi một từ trong ngôn ngữ nguồn khi dịch sang ngôn ngữ đích phải thể hiện bằng một số từ mới chuyển tải hết ý nghĩa, hoặc ngược lại, nhiều từ trong ngôn ngữ nguồn nhưng khi dịch sang ngôn ngữ đích thì chỉ cần một từ đã chuyển tải hết nội dung cần biểu đạt. Do đó trong tiếng Việt, cách thức sao phỏng thuật ngữ từ tiếng nước ngoài thường là: (1) dịch trực tiếp hay trực dịch (dịch từng thành tố của thuật ngữ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc (2) dịch ý (dịch thoát ý rồi gia cố thuật ngữ bằng cách rút gọn). Kết quả khảo sát thuật ngữ hành chính cho thấy, có rất nhiều các thuật ngữ tiếng Việt được tạo ra từ việc mô phỏng các thuật ngữ tiếng Anh như: Tiếng Anh Tiếng Việt E-government chính phủ điện tử repeal of a law (việc) bãi bỏ luật promulgation of Executive Orders (việc) ban hành lệnh hành chính Chúng tôi cũng nhận thấy rằng rất nhiều thuật ngữ hành chính tiếng Việt có nguồn gốc Hán-Việt và việc vay mượn này đã có từ rất lâu trong hệ thống từ vựng tiếng Việt nói chung và hệ thuật ngữ hành chính nói riêng. Ngoài việc vay mượn các VŨ THỊ YẾN NGA 137 từ Hán -Việt, thuật ngữ hành chính còn vay mượn nhiều từ ngôn ngữ nước ngoài, phổ biến là từ ngôn ngữ n- u. Thêm vào đó, do việc tiếp cận các thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới cũng như xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng nên lượng từ ngữ nước ngoài, trong đó có thuật ngữ, được du nhập vào nước ta ngày càng nhiều. Lĩnh vực hành chính cũng không ngoại lệ. Việc tiếp nhận các thuật ngữ nước ngoài đã góp phần phát triển, làm giàu hệ thống thuật ngữ hành chính tiếng Việt. Có thể thấy, trong hệ thống thuật ngữ hành chính tiếng Việt, có nhiều thuật ngữ được tạo ra theo cách sao phỏng thuật ngữ nước ngoài mà phổ biến là từ ngôn ngữ n-Âu. 3) iữ nguyên dạng Hiện nay, các thuật ngữ nước ngoài được tiếp nhận vào tiếng Việt theo cách giữ nguyên dạng cũng có nhiều hình thức như: 1) giữ nguyên hoàn toàn dạng gốc (thường áp dụng với những thuật ngữ của tiếng nước ngoài sử dụng chữ viết thuộc hệ chữ Latin, ví dụ: radio, computer, menu, marketing); 2) viết tắt, ví dụ: APEC (Asia Pacific Economic Cooperation), ASEAN (Association of Southest Asian Nations), Vay mượn thuật ngữ nước ngoài theo cách giữ nguyên dạng phụ thuộc vào tốc độ phát triển thuật ngữ của từng ngành khoa học, nhất là tính chất đặc thù của thuật ngữ trong từng lĩnh vực chuyên môn (chẳng hạn, các thuật ngữ khoa học kỹ thuật, y học vay mượn từ nước ngoài thường được giữ nguyên dạng gốc nếu thuộc hệ chữ Latin hoặc nguyên dạng Latin hóa nếu thuộc hệ chữ khác). lĩnh vực hành chính nước ta hiện nay, thuật ngữ vay mượn nguyên dạng không nhiều. Ví dụ: D icial Development ssistance – Viện trợ hát triển chính chức , N C Ne ly ndustriali ing Country - Nước mới công nghiệp hóa , nternational rgani ation or – Tổ chức quốc tế về tiêu chuyển hóa , logo, ax Vay mượn thuật ngữ nước ngoài theo con đường giữ nguyên dạng có những ưu điểm nhất định, nhất là trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa như hiện nay như vẫn đảm bảo tính chính xác và tính quốc tế cao, nhưng vẫn không tránh khỏi một số hạn chế nhất định. Theo chúng tôi, trừ các thuật ngữ biểu thị tên gọi các tổ chức quốc tế, các thuật ngữ khác chỉ nên giữ nguyên dạng thuật ngữ nước ngoài khi không tìm được từ tương đương trong tiếng Việt, và khi mới sử dụng thuật ngữ dạng này nên k m theo lời giải thích tiếng Việt. Ngoài các phương thức phổ biến trên, thuật ngữ hành chính còn được tạo bởi phương pháp ghép lai. Ghép lai là phương thức tạo thuật ngữ bằng cách dùng một (hay một số) yếu tố Việt ghép với yếu tố nước ngoài (được phiên âm hay để nguyên dạng gốc) để tạo ra thuật ngữ mới. Phương thức ghép lai thường được sử dụng khi chưa tìm được từ tiếng Việt thích hợp để dịch thuật ngữ hoặc cụm từ này quá dài. Ví dụ: Trang ebsite Chính phủ, qu D , bản photo, đường dây nóng qua nternet, máy ax 3. Kết luận Từ những vấn đề cơ bản về thuật ngữ hành chính tiếng Việt như được trình bày ở trên, có thể thấy có nhiều phương thức để tạo lập thuật ngữ hành chính như thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường tạo lập thuật ngữ dựa trên cứ liệu có sẵn vay mượn ngôn ngữ nước ngoài theo nhiều cách thức như sao ph ng, giữ nguyên dạng, ghép lai...Chính những phương thức tạo lập này đã làm giàu vốn thuật ngữ hành chính- lớp từ vựng hạt nhân trong lĩnh vực hành chính nói chung và trong các văn bản hành chính nói riêng. PHƯƠNG THỨC TẠO LẬP THUẬT NGỮ HÀNH CHÍNH TIẾNG VI T 138 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H. 2. Nguyễn Hữu Hải (2010), Giáo trình Hành chính Nhà nước, Nxb Giáo dục Việt Nam, H. 3. Hoàng Văn Hành (1983), “Về sự hình thành và phát triển của thuật ngữ tiếng Việt” Tạp chí Ngôn ngữ, Số 4, H. 4. Nguyễn Ngọc Hiến (2003), Giáo trình Hành chính công, Nxb KHKT, H. 5. Lê Khả Kế (1984), Chuẩn hóa thuật ngữ khoa học tiếng Việt. Chuẩn hóa chính tả và thuật ngữ, Nxb Giáo dục, H. 6. Nguyễn Văn Khang (chủ biên) (2002), Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính, Nxb VH-TT, H. 7. Hà Quang Năng (2009), Đặc điểm của thuật ngữ tiếng Việt, Từ điển học và Bách khoa thư, số 2. 8. Phạm Thị Ninh (2014), hong cách ngôn ngữ hành chính, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện KHXH, H. 9. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2003), Tập bài giảng Một số vấn đề cơ bản về hành chính học, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 10. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb Từ điển Bách khoa, H. 11. Nguyễn Đức Tồn (2010), “Một số vấn đề về nghiên cứu, xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt trong thời kỹ hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 12 2010, số 1 2011. 12. Sager J.C (1990), A practical course in terminology processing, John Benjamins Publishing Company, Amsterdam, Philadelphia. Ngày nhận bài: 04/7/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20 8 2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf50_7709_2215102.pdf
Tài liệu liên quan