Tài liệu Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng - Nguyễn Diệu Thương: Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
Tạp chí Khoa học và Công nghệ
CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Mục lục Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9
Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng
qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21
Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 483 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng - Nguyễn Diệu Thương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Môc lôc Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9
Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông
qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21
Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45
Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51
Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57
Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ
dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63
Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc
tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69
Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73
Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại
khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên hiện nay 79
Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường
Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85
Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử
tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91
Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho
học sinh trung học phổ thông 97
Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105
Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên
vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111
Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng
phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117
Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123
Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên
ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh
viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135
Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học
Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141
Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây
dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147
Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất
lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153
Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159
Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165
Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính
kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171
Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học
thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177
Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Kạn 183
Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên
minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189
Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản
lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195
Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại
học Thái Nguyên 201
Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ
khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207
Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213
Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219
Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may
Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227
Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên
cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233
Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả
kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239
Nguyễn Diệu Thương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 39 - 44
39
PHƯƠNG THỨC TẠO HÀM Ý TRONG TIỂU PHẨM TRÀO PHÚNG
Nguyễn Diệu Thương*, Nguyễn Thị Lan Hương
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Tiểu phẩm trào phúng là thể loại báo chí được diễn đạt bằng ngôn ngữ hài hước, châm biếm về
một sự việc có thực. Để nắm bắt được các hàm ý trong tiểu phẩm, cần thiết phải sử dụng các
phương thức tạo hàm ý và thực hiện quá trình suy ý. Cách thức lựa chọn và sử dụng các yếu tố
ngôn ngữ tạo hàm ý trong tiểu phẩm có những đặc điểm độc đáo riêng. Bài viết đã khảo sát và
phân tích 3 phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng: dùng khẩu ngữ; cách tạo mơ hồ hệ
quy chiếu, mơ hồ chiếu vật; cấu trúc lập luận.
Từ khóa: tiểu phẩm, phương thức tạo hàm ý, khẩu ngữ, chiếu vật, cấu trúc lập luận
ĐẶT VẤN ĐỀ *
Phương thức tạo hàm ý là cách thức lựa chọn
và sử dụng các yếu tố ngôn ngữ phù hợp với
hoàn cảnh giao tiếp cụ thể để tạo hàm ý.
Quan điểm của Grice, sau này được Đỗ Hữu
Châu tiếp thu trong [1], là có hai phương thức
biểu thị hàm ý: phương thức biểu thị hàm ý
khái quát, phương thức biểu thị hàm ý hội
thoại đặc thù. Sau, có công trình đã bàn đến
các phương thức tạo hàm ý một cách cụ thể,
như: Từ tiền giả định đến hàm ý ngữ dụng [2].
Đặc biệt, trong công trình nghiên cứu [3], tác
giả Nguyễn Thị Tố Ninh đã điểm lại các
phương thức tạo hàm ý của các tác giả đi
trước và đồng thời đề xuất một danh sách có
kế thừa những phương thức cụ thể biểu thị
hàm ý. Việc đề ra danh sách các phương thức
cụ thể này góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng trong quá trình tạo lập cũng như tiếp
nhận hàm ý (đặc biệt là loại hàm ý ngữ dụng).
Các phương thức đó là:
- Sử dụng các phương tiện ngôn ngữ đặc thù:
(1) Nước hoa ư? Nước hoa chỉ là một thứ
hăng hắc giả tạo, làm sao bằng được mùi
rơm rạ trong nắng, mùi hoa bưởi trong
sương, mùi hoa ngâu trong chiều, mùi hoa
sen trong gió
(Hương làng- Băng Sơn)
Đoạn ngữ liệu trên có các từ ngữ, cấu trúc đặc
thù đánh dấu hàm ý, đó là: chỉ, A làm sao
bằng B. Từ chỉ là trợ từ nhấn mạnh, biểu thị
sắc thái đánh giá: thấp. Vậy, hàm ý vế đầu
* Tel: 0948210155; Email: dieuthuong2212@gmail.com
trong câu thứ hai là: đánh giá thấp hay không
coi trọng nước hoa bởi chính phẩm chất hăng
hắc giả tạo của nó. Thêm nữa, chúng ta biết
rằng cấu trúc của câu so sánh A làm sao bằng
B, có tiền giả định A được đánh giá kém B
trên phương diện nào đó. Và phương diện
được được lựa chọn làm phẩm chất so sánh ở
đây chính là: mùi hương bởi thứ hăng hắc giả
tạo được nói đến.
- Vi phạm phương châm hội thoại và quy tắc
quan yếu:
(2) Trả đũa
Bên hồ có hai ông đang im lặng buông câu.
Bỗng ông A nói:
- Này! Bác làm gì? Ở đâu?
Ông B lạnh lùng trả lời:
- Tôi câu cá ở bên cạnh ông.
Im lặng hồi lâu. Đến lượt ông B buột miệng:
- Bác được mấy con rồi?
Ông A thản nhiên đáp:
- Hai! Một trai, một gái.
(Dẫn theo [4, tr.279])
Câu chuyện trên có hai lần từ ngữ được đặt
trong sự quy chiếu. Lần thứ nhất, ông B
hiểu câu hỏi nhưng giả vờ không biết và
quy nó vào vị trí bên cạnh ông. Lần thứ hai,
ông A cũng hiểu câu hỏi là hỏi số lượng con
cá đã câu được nhưng lại cố tình quy chiếu
nó với số lượng con- thế hệ sau do mình
sinh ra (Hai! Một trai một gái) nhằm mục
đích trả đũa.
Nguyễn Diệu Thương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 39 - 44
40
Tuy nhiên, việc tìm hiểu các phương thức tạo
hàm ý vẫn là mảnh đất đầy tiềm năng. Đặc
biệt, việc vận dụng chúng lại có sự khác biệt
tùy thuộc vào tài năng, mục đích và phong
cách của các tác giả. Dù vậy, không thể phủ
nhận được vai trò quan trọng của chúng là
công cụ để hiểu các hàm ý sâu sa từ các tầng
nghĩa phối hợp như một mạng lưới chằng chịt
của thể loại tiểu phẩm trào phúng với các hàm
ý trào phúng sâu cay. Qua việc khảo sát, phân
tích, chúng tôi nhận thấy có 8 phương thức
tạo hàm ý trong các tiểu phẩm trào phúng [5]:
dùng khẩu ngữ; dùng các biện pháp tu từ;
dùng các tiền giả định bách khoa là các chất
liệu dân gian, văn học, điện ảnh; dùng hiện
tượng “phi lô gích”; dùng cấu trúc lập luận;
dùng kết cấu hội thoại giả tưởng; dùng cách
tạo mơ hồ hệ quy chiếu, mơ hồ chiếu vật;
dùng các kiểu câu đơn là các hành động ngôn
ngữ gián tiếp. Trong giới hạn của bài báo này,
chúng tôi trình bày về phương thức: dùng
khẩu ngữ, mơ hồ hệ qui chiếu và chiếu vật,
dùng cấu trúc lập luận.
CÁC PHƯƠNG THỨC TẠO HÀM Ý
Dùng khẩu ngữ
Sử dụng các từ ngoại lai
Sự xuất hiện của từ ngoại lai trong các tiểu
phẩm không những nhằm tạo nên tính “trào”
(hài hước) cho người đọc mà còn làm nên giá
trị “phúng” (châm biếm, phê phán) một vấn đề
nào đó trong đời sống thường nhật của xã hội.
Từ ngoại lai được phiên âm theo cách đọc,
cách viết tiếng Việt: sơ- cua, toa-let, tắc- xi,
mế đầm, mít- xi- tơ, ét- chen, đô la, du, sing-
gum (Chuyện tình mùa khô); tốp (Tắm cùng
hoa hậu); pho-mát (Điếu văn đọc trước mộ bò
tót); vắcxin, mát-xa (Ngày xuân dê nhận
chức); Mít-xì-tơ Bi-Xi (Mít-xì-tơ Bi-Xi); sờ -
pây - xì, zin (Quý vua); A còng, bẹc rê (Lẽ
công bằng) [5]
Từ ngoại lai giữ nguyên dạng: hello, exit
(Chuyện tình mùa khô); photocopy, logo
(Chiếc thảm bay của tôi), laptop, micro (Mít-
xì-tơ Bi-Xi); camera (nhà cao cấp giá bèo);
tuor (Tour mạo hiểm); internet (Làm thế nào
để xóa nạn dạy thêm học thêm?)[5]
Trong tiểu phẩm Chuyện tình mùa khô, tác
giả đã sử dụng rất nhiều từ ngoại lai: sơ-cua,
toa-let, tắc-xi, mế đầm, mít-xì-tơ, ét-chen, đô
la, sing-gum Không những vậy việc đưa
các từ ngữ ngoại lai vào trong tiểu phẩm cũng
làm giọng văn trào phúng thêm chân thực, tự
nhiên như chính hơi thở của cuộc sống tự
“thở than”. Ngoài ra, việc sử dụng các từ ngữ
này trong từng hoàn cảnh lại có thể có các
hàm ý cụ thể:
(3) Sau gần 2 tiếng đồng hồ trầy trật làm thủ
tục nhập cảnh, chàng mới dắt được nàng ra
đến cái exit thì khoảng chục anh mặt mày
bặm trợn, tướng tá trông rất xã hội đen chen
lấn nhau nhào vô hai người, vừa giật túi, ba
lô vừa la lên: "Tắc-xi mế đầm, mít-xì-tơ...".
(Chuyện tình mùa khô)
(4) Chàng quay lại thì gặp ngay một nụ cười
vàng khè toe toét "Hello, ét-chen đô la du?"
(Chuyện tình mùa khô)
Các phát ngôn trên có dùng cả nguyên dạng
từ ngoại lai hello; và cả dạng phiên âm:
tắc-xi (taxi), mế đầm (madam), mít- xì- tơ
(Mr), ét-chen (bảng ascension: £), đô la
(dollar: $), du (you). Đó là lời nói của những
kẻ vô văn hóa, chỉ biết “lôi kéo”, “chặt
chém”, “ăn xin” khách du lịch nước ngoài. Sự
“vô văn hóa” được thể hiện ngay trong các từ
ngoại lai được sử dụng trong các phát ngôn.
Chúng ta biết rằng, mế đầm (madam: quý bà)
nói về giới tính nữ, bên cạnh đó có từ tương
ứng (sir: quý ông) nhưng không được sử
dụng. Thay vào đó lại dùng mít- xì- tơ (Mr-
người đàn ông). Thông thường, Mr luôn phải
có danh từ riêng xác định đi kèm. Vậy là, có
sự không hiểu biết trong cách dùng từ mà vẫn
dùng. Tương tự, ở trường hợp sau, cách nói
cũng không có sự thống nhất giữa nguyên
dạng và phiên âm. Đồng thời, hai loại tiền tệ
được nhắc đến song song. Nói mà không
hiểu. Họ nói như một cái máy. Thêm các từ
ngữ: nhào, giật, la đã tạo nên một cảnh tượng
hỗn tạp, ô hợp đến ghê sợ.
Sử dụng tiếng lóng
Trong tiểu phẩm trào phúng trên cứ liệu báo
Tuổi trẻ cười, các tác giả đã khéo léo sử dụng
tiếng lóng: mìn (bãi phân), chụp ếch (trượt
Nguyễn Diệu Thương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 39 - 44
41
ngã), tự xử (giải quyết một mình- đi vệ sinh),
ngoắc (bắt xe), zin (còn mới nguyên), xã hội
đen (thế giới ngầm làm việc phi pháp), cò
(người môi giới), mắc lỡm (bị lừa), xù (chạy
trốn) Sử dụng các từ lóng cùng với các lớp
từ trong nhóm khẩu ngữ đã làm nên tính hài
hước - là phương tiện để tạo nên sự châm
biếm cho các tiểu phẩm.
Dùng từ ngữ xưng hô
Các tác giả đã sử dụng từ ngữ xưng hô để tạo
ra sắc thái biểu cảm cho người đọc, như: hắn,
thằng cha, mụ, tiểu muội, nương tử (Đại bồi
bút), nàng, chàng (Chuyện tình mùa khô), sếp
(Ai cũng thi), các bậc cha mẹ (Làm thế nào
để xóa nạn dạy thêm học thêm?), anh, quý
khách, quý vị (Du lịch đặc sản), đàn em (Tinh
thần thể thao), bọn choai choai, nhóm người
bặm trợn (Tour mạo hiểm), ông BC- báo cáo
(Mít-xì- tơ Bi-xi), Giám đốc Trần (Thị trường
nông thôn), nhà lí luận X (Cuộc chiến tranh
dòng dõi)...[5]
Có thể thấy rằng, việc sử dụng từ ngữ xưng
hô trong tiểu phẩm có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, từ ngữ xưng hô là những danh từ riêng:
Dù là các danh từ riêng, nhưng chúng được
miêu tả với những đặc điểm sự vật, tính chất,
hoạt động, trạng thái là chung, khái quát cho
mọi “đối tượng” thuộc cùng phạm trù:
(6) Gia đình anh Tư thì tệ hơn một chút...
lương tháng mỗi người chỉ gần bằng số tiền
các cuốc xe ôm của anh Sáu... Hoặc như gia
đình ông Hai tiếng là làm sếp một cơ quan...
(Lẽ công bằng)
Những cách gọi anh/ ông Hai, Tư, Sáu... là
những cách gọi thường gặp của bất cứ người
dân miền Nam nào. Cho nên, chúng chỉ có
hình thức là danh từ riêng nhưng lại có đặc
điểm, tính chất... mà ta có thể gặp ở bất cứ
đâu trong xã hội. Đâu đâu, chúng ta cũng có
thể bắt gặp những anh/ ông Hai, Tư, Sáu “như
thế”. Đó cũng là mục đích của việc sử dụng
kiểu từ ngữ xưng hô này trong các tiểu phẩm
trào phúng.
Thứ hai, từ ngữ xưng hô là những danh từ
thân tộc:
(7) Bộ may ô, quần đùi này tôi đâu có đứng
têntủ lạnh thì con sen, ti vi là đứa cháu
Mười hécta là tên thằng em vợ... là tài sản
của bà cô là của ông chú họ xa
(Đội quân vô địch)
Thằng em họ, bà cô, ông chú là cách gọi có
tính chất xuồng xã, bỗ bã, hạ bậc, khinh bỉ, có
khoảng cách, không thân mật như bản chất
vốn có của danh từ thân tộc. Từ đó tạo hàm ý
nhân vật “tôi” không “can dự” đến các món
tài sản khổng lồ.
Thứ ba, từ ngữ xưng hô là các từ ngữ bất định:
Đó là: nhà lí luận X, Y (Cuộc chiến tranh
dòng dõi), ba ông biên kịch (Bây giờ họ đang
cưa),. Thậm chí một số đại từ xưng hô
tưởng chừng như xác định mà không thể xác
định: tôi (Tắm cùng hoa hậu), anh ta (Thiên
tài cũng phải bỏ chạy), tỉnh ta, huyện ta (Ai
cũng thi) Việc sử dụng các từ ngữ bất định
cũng là hướng đến mục đích chung trong hệ
thống các tác phẩm trào phúng. Đó là sự bóng
gió cho kẻ có tật phải giật mình bởi những
đặc điểm châm biếm không chỉ của riêng ai.
Dùng từ ngữ biểu cảm
Các từ ngữ biểu cảm cũng là một yếu tố
không thể thiếu trong các tiểu phẩm trào
phúng. Nó làm cho tiểu phẩm có sức hấp dẫn
và lôi cuốn người đọc hơn: nụ cười vàng khè,
quằn quại, lom khom, hỡi ôi, oái oăm thay,
bụng ỏng đít beo (Chuyện tình mùa khô), hơi
bị, bặm trợn, toét toèn toẹt, nhào vô, lóc nhóc,
cóc thèm (Đại bồi bút), bàng hoàng, non nớt,
ấu trĩ (Cuộc chiến tranh dòng dõi), bất ngờ,
sửng sốt, choáng váng, rét run cầm cập (Nhà
cao cấp giá bèo)...[5]
Các từ ngữ biểu cảm cũng đã góp phần tạo ra
cho các tiểu phẩm trào phúng giọng điệu mỉa
mai, hàm ý bông đùa, giễu cợt và các yếu tố
hài hước. Từ đó, tiếng cười đặc sắc đến được
gần hơn với bạn đọc.
(9) Bị nhúng nước từ đầu đến chân, tên trộm
sẽ rét run cầm cập và đừng hòng lê bước nổi.
(Nhà cao cấp giá bèo)
Trong tiểu phẩm “Nhà cao cấp giá bèo”, tác
giả đã đưa nhiều từ ngữ biểu cảm vào trong
tiểu phẩm. Các từ ngữ biểu cảm đã góp phần
Nguyễn Diệu Thương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 39 - 44
42
tạo ra sắc thái phê phán, mỉa mai hiện tượng
ngập úng. Hệ thống thoát nước hoạt động
không hiệu quả khiến người dân rơi vào tình
cảnh sống chung với lũ trong mùa mưa. Thực
trạng đó chắc chắn sẽ khiến nhiều người còn
“bất ngờ, sửng sốt, choáng váng, run cầm cập”.
Như vậy, có thể nhận thấy sự phong phú của
các từ khẩu ngữ được sử dụng trong các tiểu
phẩm trào phúng trên cứ liệu báo Tuổi trẻ
cười. Chính sự đa dạng về mặt từ ngữ đã làm
cho ngôn ngữ “ngồn ngộn” chất sống của hiện
thực và đồng thời tạo ra sự hài hước, châm
biếm cho tác phẩm.
Dùng cách tạo mơ hồ hệ quy chiếu, mơ hồ
chiếu vật
Trong khi nói, viết; người nói, người viết luôn
phải đặt đề tài diễn ngôn trong hệ qui chiếu
ứng với thế giới khả hữu. Tuy nhiên, có những
trường hợp, vì mục đích tạo nghĩa hàm ẩn;
người nói, người viết cố tình tạo ra trong diễn
ngôn của mình nhiều hơn một hệ qui chiếu.
Kết quả là tạo ra sự sóng đôi, sóng ba quy
chiếu (đa quy chiếu). Để tạo ra hiện tượng mơ
hồ hệ quy chiếu, các tác giả đã đặt tình tiết câu
chuyện trong sự quy chiếu đa hệ. Biện pháp để
tạo ra sự đa hệ quy chiếu có thể là kết hợp giữa
hội thoại giả tưởng và các biện pháp tu từ (ẩn
dụ có vai trò đặc biệt quan trọng). Khi đó, để
xác định được hàm ý, cần phải xác định nghĩa
chiếu vật của các sự vật, hoạt động, tính chất
trong sự quy đổi tương ứng.
(10) Mỗi khi Đại Thánh giáng thiết bảng
xuống đánh cú dứt điểm thì trên trời xuất
hiện- không phải Thái Thượng Lão Quân thì
Văn Thù, Quan Âm Bồ Tát hoặc những sứ
giả mang thư tay, lệnh miệng của Ngọc
Hoàng, Tây Vương Mẫu hay Nữ Oa Nương
Nương đến bảo lãnh, đem bạn yêu quái về xử
lý nội bộ. Đọc đến chỗ đó, tại hạ cũng rất lấy
làm không phục!
(Trò chuyện với Ông Tề)
Trong đoạn trên, chúng ta có thể nhận thấy có
hai hệ quy chiếu: 1, hệ quy chiếu thuộc thế
giới truyện Tây Du kí của tác giả Ngô Thừa
Ân (hệ quy chiếu gốc); 2, hệ quy chiếu thuộc
thế giới hiện thực của con người. Ta có sự
chuyển đổi nghĩa chiếu vật trong hai hệ quy
chiếu này như sau:
Sự vật/
hoạt động/
tính chất
Thế giới
truyện Tây
Du kí
Thế giới hiện
thực của con
người
Đại Thánh
Đại Thánh
(nhân vật hộ
tống Đường
Tăng trừ yêu
diệt quái)
Lực lượng bảo
vệ công lý
Thiết bảng
Thiết bảng
(công cụ trừ
diệt yêu quái)
Công cụ bảo
vệ công lý
Đánh cú
dứt điểm
Cú đánh hạ
gục yêu quái
Hành động bảo
vệ công lý
Thái
Thượng
Lão Quân,
Quan Âm
Bồ Tát
Thái Thượng
Lão Quân,
Quan Âm Bồ
Tát
Những kẻ
“nâng đỡ” cho
bọn tham quan
ô lại, cường
hào ác bá
Yêu quái Yêu quái
Bọn tham quan
ô lại, cường
hào ác bá, xã
hội đen, thế
giới ngầm
Từ đó, dễ dàng nhận thấy, hàm ý của đoạn
trích nói riêng và của tác phẩm nói chung là sự
mỉa mai châm biếm bọn tham quan ô lại,
cường hào ác bá, xã hội đen, thế giới ngầm
và ngay cả những kẻ “đỡ đầu” cho bọn chúng.
Chính vì vậy, tác phẩm Trò chuyện với Ông Tề
còn có câu: “Nên nhớ, hầu hết các con yêu tinh
có phép thuật cao cường, thần thông quảng
đại nhất thường có gốc bự trên thiên đình.”
Một cách tương tự, ta có thể dễ dàng nhận thấy
chuyển hóa hệ quy chiếu là cần thiết để lý giải
hàm ý trào phúng trong các tác phẩm như: Ngày
xuân dê nhận chức, Đội quân vô địch
Song song với việc xác định các hệ qui chiếu
thì việc xác định được rõ ràng các nghĩa chiếu
vật trong từng hệ quy chiếu là rất quan trọng.
Có điều lý thú là, hệ quy chiếu mơ hồ thì
nghĩa chiếu vật ắt phải mơ hồ. Nhưng không
chỉ có vậy, trong các tiểu phẩm trào phúng,
các tác giả còn tạo ra sự mơ hồ về chiếu vật
ngay khi không có sự xuất hiện của đa hệ qui
chiếu. Đọc các tác phẩm này, chúng ta thường
thấy có mặt của các từ ngữ bất định: nhà lí
luận X, Y (Cuộc chiến tranh dòng dõi), ba
ông biên kịch (Bây giờ họ đang cưa),.
Thậm chí một số đại từ xưng hô tưởng chừng
như xác định mà không thể xác định: tôi (Tắm
cùng hoa hậu), anh ta (Thiên tài cũng phải bỏ
Nguyễn Diệu Thương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 39 - 44
43
chạy), tỉnh ta, huyện ta (Ai cũng thi) Và,
ngay cả, những danh từ riêng nhưng lại không
phải là “riêng”: thành phố Hoa Biển (Xứ sở
nụ cười), bệnh viện Nhi Đồng (Bệnh thành
tích ảo), đội Giám Đốc (Đội quân vô địch)
Việc sử dụng loại mơ hồ chiếu vật này tạo ra
hàm ý mỉa mai, châm biếm rằng: các mặt trái
trong xã hội là “không chỉ của riêng ai”.
Dùng cấu trúc lập luận
Cấu trúc lập luận có tính chất bắc cầu
Cấu trúc lập luận có tính chất bắc cầu được
thể hiện ở chỗ:
- Nếu A-> B mà A’ = nA => A’ -> nB:
(11) Năm trước, ông cất một cái bếp, một cữ
cà phê là đủ, bây giờ ông bán ngôi nhà cả
trăm cây... Hì, hì Trong trường hợp này, lập
luận có hình thức là phát ngôn; cấu trúc lập
luận khuyết kết luận. Ta có thể mô hình hóa:
cái bếp (A)-> ngôi nhà cả trăm cây (nA), một
cữ cà phê (B) => “...” = nB. Vậy, đến đây, ta
hiểu “...” hay kết luận trong lập luận trên là:
hơn gấp nhiều lần một cữ cà phê. Từ đó, tố cáo
tệ nạn vòi vĩnh ở nơi công sở “hành là chính”.
Cũng với cách thức lập luận này, nhưng nhiều
khi “cầu” không được nói ra trực tiếp mà phải
được suy luận qua các tiền giả định:
(12) Một người đàn ông nói với người yêu
rằng anh ta sẽ vượt qua địa ngục vì nàng. Và
bây giờ, anh ta đang vượt qua nó!!!
(Sự thật về hôn nhân)
Từ nó trong phát ngôn trên có tiền giả định
ngữ dụng là địa ngục. Vì vậy, câu thứ hai có
hàm ý rằng: “hiện tại, cô ấy là địa ngục mà
anh ấy đang cố gắng vượt qua”.
(13) Cử các ông chuyên tố cáo, kiện tụng, bè
phái, vây cánh ở các cơ quan tham gia những
môn có tính đấu đá như võ thuật, quyền anh
hay vật tự do. Những ông này không phải ít,
vốn luyện tập từ mấy chục năm nay, hầu như
không lúc nào ngừng nghỉ những động tác
ngáng, chặt, chém, lên gối, đè, dìm!
Tác giả đã sử dụng các tiền giả định là cơ sở
để xây dựng tình huống truyện. Chúng ta đều
biết, các môn thi đấu võ thuật, quyền anh, vật
đều sử dụng các động tác ngáng, chặt, đè,
dìm khi thi đấu; và tiền giả định rằng
ngáng, chặt, đè cũng là các hành động mà
người tố cáo, kiện tụng, bè phái, vây cánh
chuyên dùng. Nên, mới có chuyện: cho các
ông chuyên tố cáo, kiện tụng, bè phái tham
gia thi đấu võ thuật, quyền anh, vật
- Nếu A cần x, mà C cũng cần x => C ~ A
Trong tiểu phẩm Thiên tài cũng phải bỏ chạy,
để hạn chế sinh sản (mục đích tránh sự ra đời
của thế hệ sau không chủ đích: A), cần đặt
vòng (x) mà các loài không có ích trên trái đất
(C) cũng cần đặt vòng. Vậy, C ~ A (tránh sự
ra đời của thế hệ sau không chủ đích, nhất lại
là gây hại). Tương tự như vậy, để hạn chế sự
sản sinh các loài không có ích trên trái đất (C)
cần đặt vòng (x), mà giấy phép kinh doanh
(D) cũng cần phải đặt vòng (x). Nên, D ~ C
(đều cần hạn chế sinh sản vì không có ích).
Từ đó, tố cáo sự sinh sôi nảy nở của các loại
giấy phép mẹ, giấy phép con, giấy phép cháu.
Cấu trúc lập luận có tính chất đòn bẩy
Việc sử dụng cấu trúc lập luận có tính chất
đòn bẩy ở đây được thực hiện bằng hai cách:
- “Nói xa, nói gần, chẳng qua nói thật”:
Phương thức này được hiểu là tác giả mượn
những sự việc ngoài lề để dẫn dắt đến cái trọng
tâm trên cơ sở lô gích nhất định. Các tác phẩm
có cách xây dựng theo kiểu kết cấu này là:
Chiếc thảm bay của tôi, Bây giờ họ đang
cưa Trong tác phẩm Chiếc thảm bay của tôi,
tác giả đã dành khá nhiều dung lượng trong
phần đầu để nói về hiện tượng kẹt xe, các giải
pháp để hạn chế ách tắc giao thông. Cuối cùng,
đã dẫn dắt đến thực tế nhiêu khê của các thủ
tục hành chính, nhất là các loại giấy phép. Hóa
ra, kẹt đường đã khó giải quyết nhưng muôn
nỗi giấy phép còn kẹt hơn nhiều.
- “Đòn bẩy” có sử dụng kết hợp các biện pháp
tăng cấp, nói quá, tương phản (những biện
pháp có tác dụng đẩy kết luận đến cực cấp):
Đoạn kết trong tác phẩm Đại bồi bút có
chuyện ngược đời rằng: tồn tại cái cân đo
được lương tâm và thằng đi tù cân nặng 52 ký
mà lương tâm được 67 kg; trong khi đó tay
nhà báo nặng 62 ký nhưng lương tâm chỉ
bằng 0. Vậy, hàm ý là mỉa mai châm biếm
lương tâm, trách nhiệm của những người cầm
Nguyễn Diệu Thương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 39 - 44
44
bút. Thậm chí, lương tâm của những kẻ “bồi
bút” còn thua xa những kẻ ở tù.
KẾT LUẬN
Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào
phúng rất đa dạng. Các phương thức này có
thể gắn với các phương tiện ở cấp độ phát
ngôn (dùng khẩu ngữ) hoặc các cơ chế thuộc
cấp độ văn bản (dùng cách tạo mơ hồ hệ quy
chiếu; dùng cấu trúc lập luận). Có những
phương thức tạo nên tính trào (hài hước). Có
những phương thức làm nên tính phúng
(châm biếm). Dù có trào thì cũng là phương
tiện để đạt được mục đích phúng (mỉa mai,
châm biếm thực trạng các vấn nạn trong xã
hội: tham nhũng, quan liêu, bè cánh, ) và
đều là vì một xã hội tốt đẹp hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Hữu Châu (Chủ biên) - Bùi Minh Toán
(1993), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Diệu Thương (2009), Từ tiền giả định
đến hàm ý ngữ dụng, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư
phạm Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Tố Ninh (2016), Hàm ý và phương
thức biểu thị hàm ý trong tiếng Việt, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
4. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình ngữ dụng
học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
5. Tuyển tập những tiểu phẩm vui- theo báo Tuổi
trẻ cười”, truy cập 20h30 ngày10/10/2017
3m3237nvn4nvn2n31n343tq83a3q3m3237nvn&A
spxAutoDetectCookieSupport=1
SUMMARY
MECHANISMS CREATING IMPLICATION IN SATIRICAL JOKES
Nguyen Dieu Thuong*, Nguyen Thi Lan Huong
TNU - University of Education
The satirical jokes is a journalistic genre expressed in humorous, satirical language about a real
issues. In order to have a thorough grasp of the its implication, it is necessary to use mechanisms
creating implication to carry out the thought process. The way of choosing and using the linguistic
elements creating implication in the satirical jokes has the unique characteristics. The paper
surveies and analyzes the three modes creating implications in the satirical jokes: using
conversational language; creating multi-reference systems, equivocal reference of objects;
structures of argumentation.
Keywords: joke, mechanisms creating implication, conversational language, reference of objects,
structures of argumentation.
Ngày nhận bài: 27/4/2018; Ngày phản biện: 19/5/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
* Tel: 0948210155; Email: dieuthuong2212@gmail.com
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS
Content Page
Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3
Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9
Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal
sentiments in the Vietnam medieval literature 15
Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional
literature via the main female characters in Khong ai qua song 21
Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27
Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33
Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39
Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45
Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period
1954 – 1975 and some lessons learned 51
Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village
convention in Thai Nguyen province 57
Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and
"commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63
Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968
general offensive 69
Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73
Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular
activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79
Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85
Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non-
examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from
2013 to 2017 91
Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics
to high school 97
Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai
district, Thai Nguyen province 105
Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in
English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of
Medicine and Pharmacy 111
Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s
thought in building work style for key caders at present period 117
Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123
Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai
Nguyen Medical College and some solutions 129
Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first-
year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at
Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141
Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative
learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147
Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of
teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153
Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development
for students at Thai Nguyen University of Technology 159
Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching
and learning 165
Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education
for students at the center for defense and security education in the current phase 171
Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors
through intensive reading 177
Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac
Kan province 183
Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on
exploitative abuses 189
Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators
for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195
Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource
Center of Thai Nguyen University 201
Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207
Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213
Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219
Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong
grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227
Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical
study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233
Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the
business efficiency of Vietnam banks 239
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 342_370_1_pb_6362_2127094.pdf