Tài liệu Phương pháp thích nghi theo số lượng và vị trí sóng mang con trong hệ truyền dẫn OFDM: Kỹ thuật điều khiển & Điện tử
T. H. Toàn, B. N. Hồng, “Phương pháp thích nghi theo số lượng hệ truyền dẫn OFDM.” 70
PHƯƠNG PHÁP THÍCH NGHI THEO SỐ LƯỢNG VÀ VỊ TRÍ SÓNG
MANG CON TRONG HỆ TRUYỀN DẪN OFDM
Trần Hữu Toàn1*, Bạch Nhật Hồng2
Tóm tắt: Kênh vô tuyến thay đổi ngẫu nhiên theo thời gian, điều này làm giới
hạn hiệu năng truyền dẫn và thông lượng của các hệ thống truyền thông vô tuyến.
Và một trong các phương pháp để khắc phục vấn đề này đó là phương pháp điều
chế thích nghi. Hiện nay, trong hệ truyền dẫn OFDM (Orthogonal Frequency
Division Multiplexing) của các hệ thống truyền hình số hiện đại người ta đã áp
dụng phương pháp thích nghi theo mức điều chế, theo tỷ lệ mã và theo sơ đồ điều
chế. Bài báo này đề xuất một phương pháp điều chế thích nghi: phương pháp thích
nghi theo số lượng và vị trí các sóng mang con, để tăng các phương án kết hợp cho
bộ điều chế OFDM nhằm tận dụng tối đa hiệu quả của phân tập tần số trong kênh
phađinh chọn lọc tần số.
Từ kh...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 432 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp thích nghi theo số lượng và vị trí sóng mang con trong hệ truyền dẫn OFDM, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỹ thuật điều khiển & Điện tử
T. H. Toàn, B. N. Hồng, “Phương pháp thích nghi theo số lượng hệ truyền dẫn OFDM.” 70
PHƯƠNG PHÁP THÍCH NGHI THEO SỐ LƯỢNG VÀ VỊ TRÍ SÓNG
MANG CON TRONG HỆ TRUYỀN DẪN OFDM
Trần Hữu Toàn1*, Bạch Nhật Hồng2
Tóm tắt: Kênh vô tuyến thay đổi ngẫu nhiên theo thời gian, điều này làm giới
hạn hiệu năng truyền dẫn và thông lượng của các hệ thống truyền thông vô tuyến.
Và một trong các phương pháp để khắc phục vấn đề này đó là phương pháp điều
chế thích nghi. Hiện nay, trong hệ truyền dẫn OFDM (Orthogonal Frequency
Division Multiplexing) của các hệ thống truyền hình số hiện đại người ta đã áp
dụng phương pháp thích nghi theo mức điều chế, theo tỷ lệ mã và theo sơ đồ điều
chế. Bài báo này đề xuất một phương pháp điều chế thích nghi: phương pháp thích
nghi theo số lượng và vị trí các sóng mang con, để tăng các phương án kết hợp cho
bộ điều chế OFDM nhằm tận dụng tối đa hiệu quả của phân tập tần số trong kênh
phađinh chọn lọc tần số.
Từ khóa: Điều chế thích nghi, OFDM-Ghép kênh phân chia theo tần số trực giao, AOFDM-Điều chế thích
nghi cho hệ thống OFDM, DVB-T - Truyền hình số mặt đất.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều chế thích nghi là lựa chọn khuôn dạng điều chế một cách linh hoạt và liên tục để
thu được thông lượng tối ưu khi tỷ số tín/tạp SNR (Signal-to-Noise Ratio) thu biến đổi
trong một phạm vi rộng theo thời gian. Có thể hiểu, điều chế thích nghi là san bằng trong
thời gian thực giữa dung lượng kênh, mức công suất phát, tốc độ phát symbol, kích thước
chòm sao, tỷ lệ mã và sự liên quan giữa các thông số này. Với những tiến bộ của truyền
thông vô tuyến thì các thuật toán thích nghi ngày càng trở nên hấp dẫn do tính linh hoạt,
hiệu quả trong sử dụng phổ tần và thông lượng lớn tạo nên chất lượng truyền dẫn cao. Các
thuật toán thích nghi thay đổi giá trị của các tham số điều chế một cách động ứng với trạng
thái tức thời của kênh. Khi kênh tốt các giá trị này sẽ thay đổi các tham số điều chế sao
cho thu được thông lượng hệ thống lớn, khi kênh xấu, khi này các giá trị sẽ điều khiển các
tham số điều chế sao cho giảm thông lượng hệ thống để đảm bảo chất lượng truyền
dẫn.Trong điều chế thích nghi có hai tham số cần quan tâm: tham số kênh và tham số điều
chế. Trong thuật toán điều chế thích nghi thì các tham số điều chế được xác định bởi các
tham số chất lượng của kênh truyền. Trong thực tế các tham số của kênh thay đổi do đó
tham số điều chế cũng thay đổi để thích nghi. Tồn tại nhiều thông số điều chế thích nghi
như: mức điều chế, sơ đồ điều chế, SNR phát, số lượng các sóng mang, vị trí sóng mang,
tỷ lệ mã, tỷ lệ trải phổ. Trong hệ truyền dẫn OFDM của các hệ thống truyền hình số hiện
đại người ta đã áp dụng phương pháp thích nghi theo mức điều chế, theo tỷ lệ mã và theo
sơ đồ điều chế. Ví dụ, trong DVB-S2 người ta đã sử dụng 4 phương thức điều chế: QPSK,
8PSK, 16APSK và 32APSK và 11 tỷ lệ mã khác nhau:1/4, 1/3, 2/5, 1/2, 3/5, 2/3, 3/4, 4/5,
5/6, 8/9 và 9/10. Do đó, có thể kết hợp mã hóa và điều chế để lựa chọn 28 kiểu điều chế và
mã hóa theo điều kiện chất lượng kênh truyền. Trong bài báo này ta sẽ đề xuất bổ sung
thêm phương pháp thích nghi theo số lượng và vị trí các sóng mang con để tăng các
phương án kết hợp cho bộ điều chế OFDM nhằm tận dụng tối đa hiệu quả của phân tập tần
số trong kênh phađing chọn lọc tần số. Trước hết xét mô hình điều chế thích nghi AOFDM
(Adaptive OFDM).
2. MÔ HÌNH AOFDM
Mô hình AOFDM mô tả trên hình 1.
Công thức toán học của tín hiệu sau bộ IFFT như sau:
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 40, 12 - 2015 71
1
0
1
0
2/2 )()()(
N
k
N
k
knTfiNni lmIFFTekXekXnX (1)
Trong đó: )(nX : tín hiệu phức trong miền thời gian rời rạc; )(kX : tín hiệu phức
trong miền tần số rời rạc; n : chỉ số của mẫu trong miền thời gian; k : chỉ số tần số trong
miền tần số; N : Tổng số các điểm lấy mẫu; lm
IFFT
IFFT NT
f
T
1
: chu kỳ của bộ IFFT;
IFFTf : tần số của bộ IFFT; lmT : chu kỳ của mẫu
Tùy theo chế độ điều chế đa sóng mang mà số sóng mang N sẽ khác nhau. Ví dụ nếu
sử dụng hai chế độ 2K hoặc 8K thì theo thuật toán dùng cơ số 2:
2K = 211 = 2048 mẫu
8K = 213 = 8192 mẫu
Như vậy, ở chế độ 2K ta có 2048 sóng mang con
Ở chế độ 8K ta có 8192 sóng mang con
Thông thường những sóng mang hữu ích được xếp xung quanh tần số trung tâm của
băng tần cơ bản bằng 1/2 tần số lấy mẫu. Với băng tần VHF tần số lấy mẫu là 8MHz và
UHF tần số lấy mẫu là 9,142 MHz. Các sóng mang hữu ích được chọn trong khoảng giữa
của chuỗi FFT như nêu trong bảng 1.
Bảng 1. Vị trí của sóng mang con.
Chế độ FFT FFT FFT
Mode 2K 0 đến 171 172( minK ) đến 1876( maxK ) 1877 đến 2047
Mode 8K 0 đến 687 688( minK ) đến 7504( maxK ) 7505 đến 8191
Như vậy, số sóng mang hữu ích với chế độ 2K là 1705 sóng mang con; Số sóng mang
hữu ích với chế độ 8K là 6817 sóng mang con
3. THUẬT TOÁN THÍCH NGHI DỰA TRÊN CƠ CHẾ
CHỌN LỌC SÓNG MANG CON
Do tính chất chọn lọc của đáp ứng kênh trong miền tần số và miền thời gian nghĩa là
pha đinh chọn lọc tần số và pha đinh chọn lọc thời gian hay nói cách khác đáp ứng kênh
truyền vô tuyến không những thay đổi theo thời gian mà còn thay đổi theo tần số. Vì vậy
đối với kênh chọn lọc tần số tồn tại những khoảng băng tần kênh có độ biến động là chấp
Hình 1. Mô hình AOFDM.
Kỹ thuật điều khiển & Điện tử
T. H. Toàn, B. N. Hồng, “Phương pháp thích nghi theo số lượng hệ truyền dẫn OFDM.” 72
nhận được và không chấp nhận được, vì vậy dựa trên tính chất chọn lọc tần số của kênh ta
có thể xây dựng thuật toán thích nghi theo cơ chế chọn lọc sóng mang nhằm phát huy tối
đa ưu điểm của phân tập tần số. Vùng tần số của đáp ứng kênh ít bị thăng giáng thì truyền
dữ liệu trên các sóng mang con trên đó. Vùng tần số của đáp ứng kênh bị thăng giáng
mạnh thì không truyền dữ liệu trên các sóng mang con trên đó hoặc truyền trên nhiều sóng
mang con (phân tán lỗi) cải thiện BER (Bit Error Rate). Việc tăng, giảm số lượng các sóng
mang con theo trạng thái kênh trên miền tần số cho phép cải thiện được cả hiệu năng BER
và QoS (chất lượng dịch vụ), tức là đã thực hiện thích nghi theo số lượng sóng mang con.
Trong hệ thống OFDM có nhiều yếu tố quyết định đến dung lượng kênh truyền dẫn. Nếu
giả thiết rằng cấu hình các sóng mang con giống nhau, nghĩa là (điều chế, mã hóa, băng
thông, công suất) như nhau. Lúc đó tốc độ bit tổng cộng của hệ thống OFDM xác định
theo công thức:
R∑ =
(Số bit/sóng mang con/ký hiệu) x số sóng mang con
[bps] (2)
Độ dài ký hiệu
Từ công thức (2) thấy rằng: khi dùng số lượng sóng mang con ít thì không hiệu quả về
mặt thông lượng và có thể xảy ra trường hợp có nhiều sóng mang con bị lỗi quá ngưỡng
cho phép, do đó dữ liệu được truyền trên một số ít sóng mang con còn lại. Kết quả làm
giảm mạnh tốc độ bit truyền dẫn. Do vậy, để nâng cao hiệu năng của cơ chế thích nghi
chọn lọc sóng mang thì số lượng sóng mang con cần phải đủ lớn (thông thường > 100)
theo [3]. Vì chỉ hoạt động thích nghi trong miền tần số do đó đối với cơ chế thích nghi này
sẽ giữ nguyên mức điều chế (M-QAM, M-PSK), song vẫn cải thiện được tốc độ truyền
dẫn so với thuật toán thích nghi theo mức điều chế AQAM đơn thuần. Vì vậy để ngăn
chặn lỗi thì phải tiến hành chọn lọc thích ứng các sóng mang con. Với điều kiện số lượng
sóng mang con > 100, với truyền hình số chế độ 2K hoặc 8K thì điều kiện số lượng sóng
mang con được sử dụng là 1705 hoặc 6817 là quá thỏa mãn. Vấn đề cơ bản của thuật toán
thích nghi chọn lọc sóng mang là phải xác định được BER cho từng sóng mang con, sau
đó so sánh với giá trị BERngưỡng để quyết định sẽ truyền hay không truyền dữ liệu trên sóng
mang con đó.
Nếu giá trị BER trên sóng mang con nào thấp hơn BERngưỡng thì phía phát sẽ tiến hành
chèn ký hiệu hoa tiêu vào sóng mang con đó, phía thu sẽ tiến hành thu và tính BER trên
các sóng mang được chèn hoa tiêu, nếu giá trị BER trên các sóng mang con này vẫn thấp
hơn ngưỡng cho phép thì lại truyền dữ liệu bình thường trên các sóng mang con này. Do
đó, việc chèn ký hiệu hoa tiêu lên các sóng mang con có tỷ lệ lỗi lớn sẽ giúp cho phía thu
ước tính chính xác trạng thái kênh truyền dẫn. Quá trình thuật toán để tìm ra BER cho
từng thành phần tần số sóng mang con rất phức tạp. Theo [2] công thức tính BER của sóng
mang con thứ k xác định như sau:
2
2
2log
1
14
kk Q
M
M
BER (3)
Trong đó: M – bậc điều chế
1
3
M
2
K - công suất tín hiệu trên sóng mang thứ k
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 40, 12 - 2015 73
2
- công suất tạp trên sóng mang thứ k
Q - Ma trận tiền mã hóa
Giá trị BERngưỡng : Do người dùng thiết lập tùy theo tính chất dịch vụ yêu cầu. Ví dụ đối
với dịch vụ truyền số liệu thì BERngưỡng 0,01%. Từ các lập luận trên ta có mô hình thuật
toán thích nghi theo cơ chế chọn lọc sóng mang cho hệ thống OFDM mô tả trên hình 2.
Giả sử đáp ứng kênh (hàm truyền đạt) đã biết do khối ước lượng kênh, chế độ điều chế
đa sóng mang của hệ OFDM chọn là 2K, tín hiệu OFDM trong miền tần số trong băng
thông sẽ có dạng mô tả trên hình 3.
Từ đồ thị hình 3 thấy rằng: có một số sóng mang con rơi vào vùng tần số có hàm truyền
đạt H(f) thăng giáng mạnh (tức có BER > BERngưỡng). Ta thành lập một mảng một chiều có
kích thước bằng số lượng sóng mang được sử dụng. Ở đây, trong chế độ 2K bắt đầu từ vị
trí sóng mang ở chỉ số 172 cho đến chỉ số 1876. Công việc của khối quyết định là: Nếu
BER của sóng mang con nào nằm trong mảng quyết định (QĐ(k)) nào lớn hơn BERngưỡng
thì sóng mang con đó được gán giá trị “1”, ngược lại thì gán giá trị “0”. Giá trị “1” báo
hiệu là không truyền dữ liệu trên sóng mang con này, giá trị “0” báo hiệu truyền dữ liệu
trên sóng mang con này. Lược đồ thuật toán của khối quyết định mô tả trên hình 4.
Hình 2. Mô hình thuật toán thích nghi theo cơ chế chọn lọc sóng mang cho hệ thống OFDM.
Hình 3. Hàm truyền đạt kênh và các sóng mang con trong chế độ 2K trong băng thông kênh.
Kỹ thuật điều khiển & Điện tử
T. H. Toàn, B. N. Hồng, “Phương pháp thích nghi theo số lượng hệ truyền dẫn OFDM.” 74
Hình 4. Lược đồ thuật toán hoạt động của khối quyết định.
Khối điều khiển chèn: khối này lấy thông tin từ khối quyết định, nếu BER(k) >
BERngưỡng, khi đó chỉ số k này trong mảng quyết định sẽ có giá trị bằng “1” và tiến hành
chèn “0” lên sóng mang này, nếu ngược lại thì sẽ tiến hành truyền dữ liệu bình thường trên
sóng mang này. Khối điều khiển chèn sẽ can thiệp thứ tự của ký hiệu phát trên mỗi sóng
mang để đảm bảo sao cho nếu không sử dụng sóng mang thì sẽ chèn thêm ký hiệu “0”, và
nếu sử dụng thì không chèn.
Khối điều khiển giải chèn lấy thông tin chèn từ khối quyết định, dựa trên thông tin về
các vị trí chèn tiến hành loại những ký hiệu chèn trên những sóng mang con được chèn và
đưa những ký hiệu chèn này đến bộ ước tính kênh để tiến hành tìm đáp ứng kênh.
4. KẾT QUẢ MÔ PHỎNG
4.1. Số liệu đầu vào
Để đánh giá hiệu quả của kênh truyền OFDM khi sử dụng phương pháp thích
nghi theo số lượng và vị trí sóng mang con, ta tiến hành mô phỏng hệ thống bằng phần
mềm Matlab trong 2 trường hợp là không sử dụng phương pháp thích nghi và sử dụng
phương pháp thích nghi, với cùng các số liệu đầu vào như sau: số sóng mang con: 120;
kích thươc FFT: NFFT = 256; khoảng bảo vệ: Tg = 4; mức điều chế M=4; tần số lấy mẫu fs
= 3 và giá trị BERngưỡng = 0.001.
4.2. Kết quả mô phỏng và bình luận
Kết quả mô phỏng khi không sử dụng phương pháp thích nghi được thể hiện trên hình
5 và khi sử dụng phương pháp thích nghi theo số lượng và vị trí sóng mang con được thể
hiện trên hình 6.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 40, 12 - 2015 75
Hình 5. Kết quả mô phỏng không sử dụng phương pháp thích nghi.
Hình 6. Kết quả mô phỏng sử dụng phương pháp thích nghi theo số lượng
và vị trí sóng mang con.
Từ kết quả mô phỏng ta thấy với kênh truyền OFDM sử dụng phương pháp thích nghi
theo số lượng và vị trí sóng mang con kết quả BER tổng luôn xấp xỉ “0” đối với 4-QAM,
giá trị này thấp hơn nhiều so với khi không sử dụng phương pháp thích nghi. Vì với việc
sử dụng phương pháp thích nghi thì tại những vị trí các sóng mang con có BER >
BERngưỡng = 0.001 sẽ không được dùng để truyền dữ liệu, như vậy không những cải thiện
được BER của hệ thống mà còn tiết kiệm được phổ tần, năng lượng và nâng cao được hiệu
suất kênh truyền.
5. KẾT LUẬN
Ưu điểm nổi bật của cơ chế thích nghi chọn lọc tần số sóng mang là tận dụng tối đa
những khoảng băng tần ít thăng giáng của hàm truyền đạt của kênh và giảm thiểu truyền
dữ liệu trên những sóng mang con nằm trong khoảng băng tần có thăng giáng mạnh của
hàm truyền đạt của kênh, do vậy giảm được ảnh hưởng của phađinh chọn lọc tần số. Trong
khi đó những thuật toán thích nghi khác như: M-QAM, M-PSK do xử lý như nhau đối
với toàn bộ băng tần, nên không đối phó được với bất lợi của đáp ứng kênh trong miền tần
số. Do vậy, thuật toán thích nghi này có thể ứng dụng cho truyền hình số, cùng với các
Kỹ thuật điều khiển & Điện tử
T. H. Toàn, B. N. Hồng, “Phương pháp thích nghi theo số lượng hệ truyền dẫn OFDM.” 76
thuật toán thích nghi khác, để tăng số các phương án kết hợp thích nghi đồng thời để tăng
độ linh hoạt và cải thiện hiệu năng BER và thông lượng truyền.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Văn Đức, “Lý thuyết và ứng dụng của kỹ thuật OFDM”, NXB Khoa học và
kỹ thuật (2006).
[2]. Đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu điều chế thích ứng cho máy thu phát thông
minh trong thông tin di động“, Nguyễn Phạm Anh Dũng và các cộng tác viên, Hà
Nội 2004.
[3]. Eric Philip Lawrey, “Adaptive Techniques for multiuser OFDM”, for the degree of
Doctor of Philosophy in Electrical and Computer Engineering, (2001).
[4]. Prateek Bansal and Andrew Brezinski, “Adaptive loading in MIMO / OFDM
systems,” Standford University (2001).
ABSTRACT
ADAPTIVE MODULATION METHOD ACCODING TO QUANTITY AND
LOCATION OF SUBCARRIERS IN OFDM TRANSMISSION SYSTEM
The wireless channel changes randomly according to the time, this limits
performance of the transmission line and capacity of wireless communication
networks. And one of the methods to solve this problem is adaptive modulation.
Today, in OFDM transmission system of new DVB (Digital Video Broadcasting),
people applied adaptive modulation according to modulation level, coding rate and
modulation scheme. This paper proposes an adaptive modulation method: adaptive
method according to quantity and location of subcarriers in OFDM transmission
system to increase associate plans in OFDM modulator in order to take full
performance of frequency diversity in frequency – selective fading channels.
Keywords: Adaptive Modulation, OFDM – Orthogonal Frequency Division Multiplexing, AOFDM –
Adaptive OFDM, DVB-T – Digital Video Broadcasting – Terrestrial.
Nhận bài ngày 24 tháng 9 năm 2015
Hoàn thiện ngày 03 tháng 11 năm 2015
Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 12 năm 2015
Địa chỉ: 1 Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội;
2 Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên;
*Email: toanth84@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10_hong_1792_2149214.pdf