Phương pháp chia liều thuốc tim dạng viên tại nhà của bệnh nhi tim bẩm sinh tại khoa tim mạch Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 04/2017 – 10/2017

Tài liệu Phương pháp chia liều thuốc tim dạng viên tại nhà của bệnh nhi tim bẩm sinh tại khoa tim mạch Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 04/2017 – 10/2017: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 173 PHƯƠNG PHÁP CHIA LIỀU THUỐC TIM DẠNG VIÊN TẠI NHÀ CỦA BỆNH NHI TIM BẨM SINH TẠI KHOA TIM MẠCH BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 TỪ THÁNG 04/2017 – 10/2017 Nguyễn Thanh Liêm*, Nguyễn Hoàng Nhu*, Cao Thị Ngọc Mai* TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát các phương pháp chia liều thuốc tim dạng viên tại nhà của bệnh nhi tim bẩm sinh khoa tim mạch bệnh viện Nhi Đồng 2. Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Kết quả: Có 82 thân nhân chia thuốc cho bệnh nhi về phương pháp chia liều thuốc tim dạng viên tại nhà gồm các loại thuốc: captopril 25 mg, furosemide 40mg, spiroolactone 25 mg, aspirin 81mg, digoxin 0,25 mg, propranolol 40 mg, sildenafil 50mg. 48,78% thân nhân cắt thuốc bằng dụng cụ (dao, kéo, đồ chia thuốc mua tại nhà thuốc); 21,95% chọn cách bẻ thuốc bằng tay; 25,61% chọn cách nghiền nguyên viên thuốc sau đó chia liều (không pha với nước); 3,66% chọn cách pha nguyên viên thuốc với nước sau đ...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 90 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp chia liều thuốc tim dạng viên tại nhà của bệnh nhi tim bẩm sinh tại khoa tim mạch Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 04/2017 – 10/2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 173 PHƯƠNG PHÁP CHIA LIỀU THUỐC TIM DẠNG VIÊN TẠI NHÀ CỦA BỆNH NHI TIM BẨM SINH TẠI KHOA TIM MẠCH BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 TỪ THÁNG 04/2017 – 10/2017 Nguyễn Thanh Liêm*, Nguyễn Hoàng Nhu*, Cao Thị Ngọc Mai* TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát các phương pháp chia liều thuốc tim dạng viên tại nhà của bệnh nhi tim bẩm sinh khoa tim mạch bệnh viện Nhi Đồng 2. Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Kết quả: Có 82 thân nhân chia thuốc cho bệnh nhi về phương pháp chia liều thuốc tim dạng viên tại nhà gồm các loại thuốc: captopril 25 mg, furosemide 40mg, spiroolactone 25 mg, aspirin 81mg, digoxin 0,25 mg, propranolol 40 mg, sildenafil 50mg. 48,78% thân nhân cắt thuốc bằng dụng cụ (dao, kéo, đồ chia thuốc mua tại nhà thuốc); 21,95% chọn cách bẻ thuốc bằng tay; 25,61% chọn cách nghiền nguyên viên thuốc sau đó chia liều (không pha với nước); 3,66% chọn cách pha nguyên viên thuốc với nước sau đó chia liều. 96,35% thân nhân không được hướng dẫn cách chia liều thuốc viên tại nhà. Kết luận: Phương pháp chia liều của 82 thân nhân đều có những ưu nhược điểm, đều không đảm bảo được chính xác liều lượng. Do vậy, nguy cơ bệnh nhi dùng không đúng liều thuốc (ít hoặc nhiều hơn) vẫn còn đáng e ngại và cần được quan tâm hơn. Từ khóa: Chia thuốc, thuốc viên, tim bẩm sinh. ABSTRACT CHARACTERISTICS OF CARDIAC TABLET SPLITTING METHOD AT HOME BY CAREGIVERS OF CHILDREN WITH CONGENTINAL HEART DEFECTS AT THE CHILDREN’S HOSPITAL 2 (CH2), FROM APRIL TO OCTOBER OF 2017 Nguyen Thanh Liem, Nguyen Hoang Nhu, Cao Thi Ngoc Mai * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 173 – 179 Objectives: To investigate the method of splitting cardiac tablets at home by caregivers of children with congenital heart defects at Cardiovascular department of CH2. Methods: Cross-sectional description. Results: 82 caregivers were involved in the study of how to split cardiac tablets such as captopril 25mg, furosemide 40mg, spironolactone 25 mg, aspirin 81mg, digoxin 0.25 mg, propranolol 40 mg, and sildenafil 50 mg at home. 48.8% of them split the cardiac tablets by using tools (knife, scissors, or pill splitter). 21.9% of them chose to break the tablet by hand. 25.6% of them chose to grind the whole pill into powder and then divided the dosage (not mixed with water). 3.7% of them chose to mix the tablet with an amount of water and then divided the dosage. Of note, 96.4% of them were not instructed how to split the tablets at home by healthcare providers (doctors, nurses, pharmacists at hospitals or drug stores). Conclusions: There were several methods to split cardiac tablets at home by caregivers. Each method had its advantages and disadvantages. There is still the risk that pediatric patients receive a wrong dose (less or more) of medicaments. Therefore, the issue of tablet splitting at home is worth paying more attention. *Bệnh viện Nhi Đồng 2 Tác giả liên lạc: ĐD.Nguyễn Thanh Liêm, ĐT: 01648773993, Email: liembavuong@gmail. com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Chuyên Đề Nhi Khoa 174 Key words: Tablet splitting, tablet, congenital heart defects. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh tim bẩm sinh (TBS) là dị tật của tim và mạch máu lớn. Bệnh TBS là bệnh tim mạch chủ yếu ở trẻ em. Việc điều trị TBS chủ yếu là phẫu thuật. Điều trị nội khoa bệnh TBS chủ yếu là điều trị và dự phòng các biến chứng do bệnh TBS gây ra. Điều trị nội khoa tuy không chữa lành bệnh tim bẩm sinh, nhưng sẽ cải thiện chất lượng sống của bệnh nhi cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho bước tiếp theo là chỉ định thông tim can thiệp hoặc phẫu thuật triệt để chữa khỏi bệnh. Điều trị nội khoa chủ yếu là dùng thuốc tại bệnh viện và điều trị tại nhà. Các đường đưa thuốc vào cơ thể gồm: uống, tiêm qua da, dùng tại chỗ qua da và dùng tại chỗ qua niêm mạc. Trong đó, uống là đường sử dụng thuốc an toàn và đơn giản, được sử dụng trong việc điều trị thuốc tại nhà của bệnh nhi TBS(7). Các dạng thuốc tại nhà của bệnh nhi TBS hiện nay bao gồm nhiều dạng nên việc chia liều cho bệnh nhi nhỏ để sử dụng theo đúng toa, đúng liều và khuyến cáo là việc hết sức cẩn trọng. Đặc biệt hơn, trong bệnh nhi TBS, việc sử dụng đúng liều thuốc càng quan trọng hơn do ảnh hưởng trực tiếp đến hệ tim mạch của bệnh nhi. Theo khuyến cáo của FDA (U.S Food and Drugs), việc chia nhỏ viên thuốc để chia liều là một hành động mang yếu tố nguy cơ, thậm chí là việc chia thuốc thành một nửa viên thuốc bằng dụng cụ chia thuốc chuyên dụng vì có thể ảnh hưởng tới liều lượng thuốc và tính chất của thuốc. Thuốc có thể mất đi trong quá trình chia(3) và không phải loại thuốc nào cũng an toàn để chia(4). Và nếu việc chia nhỏ thuốc là bắt buộc, thì nên có sự hướng dẫn và giám sát của nhân viên chăm sóc sức khỏe – y tế. Do đó, chúng tôi thực hiện khảo sát này. Muc tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Xác định tỷ lệ phương pháp chia liều thuốc tim dạng viên tại nhà của bệnh nhi TBS. Mục tiêu cụ thể Xác định phương pháp sử dụng thuốc viên theo khuyến cáo FDA và Bộ Y tế. Xác định tỷ lệ đối tượng nghiên cứu được nhân viên y tế hướng dẫn chia liều thuốc dạng viên tại nhà. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Thân nhân bệnh nhi nhập khoa Tim mạch chẩn đoán bệnh TBS. Thiết kế nghiên cứu Cắt ngang mô tả. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 04/2017 – 10/2017. Cỡ mẫu Lấy trọn. Tiêu chí chọn vào Thân nhân bệnh nhi nhập khoa Tim mạch từ 04/2017 đến 10/2017 được chẩn đoán tim bẩm sinh có uống thuốc tim dạng viên đơn thuần hay phối hợp tại nhà. Thân nhân trực tiếp chăm sóc và chia liều thuốc tại nhà. Thân nhân đồng ý tham gia. Tiêu chí loại ra Nghiên cứu không có tiêu chí loại ra. Kỹ thuật chọn mẫu Khảo sát hàng loạt, thuận tiện, khi bệnh nhi nhập khoa tim mạch, nghiên cứu viên sẽ chọn bệnh án có chỉ định thuốc viên sau đó mời thân nhân tham gia nghiên cứu. Nếu thân nhân đồng ý, nghiên cứu viên sẽ xác nhận lại bệnh nhi có sử dụng thuốc viên tại nhà hay không. Nếu có, tiến hành khảo sát bằng bảng câu hỏi soạn sẵn. Công cụ thu thập số liệu Bảng câu hỏi khảo sát được soạn sẵn và hồ sơ bệnh án. Kỹ thuật thu thập số liệu Nghiên cứu viên trực tiếp khảo sát thân nhân bệnh nhi dựa trên bảng câu hỏi khảo sát. Thu thập số liệu song song qua hồ sơ bệnh án của bệnh nhi. Nghiên cứu viên điền vào bảng câu hỏi. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 175 KẾT QUẢ Đặc điểm dân số nghiên cứu Bảng 1: Đặc điểm dân số nghiên cứu (n=82) Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%) Giới tính Nam Nữ 13 69 15,85 84,15 Tổng 82 100 Nhóm tuổi Từ 18-30 tuổi 40 48,78 Từ 31-49 tuổi 38 46,34 Từ 50 tuổi trở lên 4 4,88 Tổng 82 100 Nơi ở Thành phố 7 8,53 Tỉnh 75 91,46 Tổng 82 100 Quan hệ với bệnh nhi Cha 13 15,85 Mẹ 60 73,17 Khác 9 10,98 Tổng 82 100 Trình độ học vấn Mù chữ 4 4,88 Dưới 12/12 44 53,66 12/12 12 14,63 Trung cấp 9 10,98 Cao đẳng 5 6,10 Đại học 8 9,76 Tổng 82 100 Nghề nghiệp Buôn bán, kinh doanh 11 13,41 Nội trợ 27 32,93 Giáo viên 5 6,10 Công nhân 19 23,17 Phụ hồ 2 2,44 Công nhân viên chức 4 4,88 Nhân viên văn phòng 2 2,44 Nông dân 12 14,63 Tổng 82 100 Nhận xét: Tỷ lệ nữ chiếm đa số 84,15%, chỉ có 15,85% là nam. Nhóm tuổi từ 18-30 có tỷ lệ tương đương với nhóm tuổi từ 31-49 là 48,78% và 46,34%. Chỉ có 4,88% là từ 50 tuổi trở lên. Đối tượng ở tỉnh chiếm tỷ lệ cao 91,46%, trong khi ở thành phố chỉ có 8,53%. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là mẹ chiếm chiếm tỷ lệ cao nhất 73,17%. Thấp nhất là các quan hệ khác (bà, vú nuôi, bảo mẫu) chiếm 10,98%. Tỷ lệ chưa hoàn thành phổ thông trung học chiếm cao nhất 53,66%, tỷ lệ mù chữ chiếm tỷ lệ thấp nhất 4,88%. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nội trợ 32,93%, nhân viên văn phòng, phụ hồ 2,44%. Bệnh sử bệnh nhi Bảng 2: Bệnh sử bệnh nhi (tính tới thời điểm nghiên cứu) (n=82) Bệnh sử Tần số (n) Tỷ lệ (%) Thời gian bệnh nhi phát hiện bệnh tim bẩm sinh Dưới 3 tháng 19 23,17 Từ 3-6 tháng 28 34,15 Từ 6-12 tháng 19 23,17 Từ 12 tháng trở lên 16 19,51 Tổng 82 100 Thời gian bệnh nhi uống thuốc tim tại nhà Dưới 3 tháng 36 43,9 Từ 3-6 tháng 19 23,17 Từ 6-12 tháng 19 21,95 Từ 12 tháng trở lên 9 10,98 Tổng 82 100 Nhận xét: Bệnh nhi được phát hiện bệnh tim trong nhóm từ 3-6 tháng chiếm tỷ lệ cao nhất 34,15%, nhóm từ 12 tháng trở lên chiếm tỷ lệ thấp nhất 19,51%. Nhóm bệnh nhi có điều trị thuốc tim tại nhà dưới 3 tháng chiếm tỷ lệ cao nhất 43,9%, nhóm thấp nhất là từ 12 tháng trở lên, chiếm 10,98%. Đặc điểm các loại thuốc của bệnh nhi Furosemide 40mg có tỷ lệ sử dụng cao nhất 39,86%, chỉ có 1,3% sử dụng Digoxin 0,25mg chiếm tỷ lệ thấp nhất. Toàn bộ thuốc bệnh nhi đang sử dụng hiện tại là viên nén. Tỷ lệ nhóm có khía/rãnh để chia liều chiếm cao hơn nhóm không có khía/rãnh là 58,54% và 41,46%. Tỷ lệ có liều sử dụng là 1/4 viên chiếm cao nhất 35,36%. Liều ít được sử dụng 1/12 viên và 1/20 viên chiếm lệ 1,21% và hoàn toàn không có liều thuốc 1 viên nguyên. Bệnh nhi sử dụng thuốc 2 lần/ngày chiếm 45,12%, 3 lần/ngày 20,73%. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Chuyên Đề Nhi Khoa 176 Bảng 3: Đặc điểm các loại thuốc của bệnh nhi Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%) Các thuốc tim dạng viên sử dụng tại nhà Captopril 25mg 43 28,10 Furosemide 40mg 61 39,86 Spinolactone 25mg 22 14,37 Aspirin 81mg 16 10,5 Digoxin 0,25mg 2 1,30 Propanolol 40mg 5 3,26 Sildenafil 50mg 4 2,61 Tổng 153 100 Dạng thuốc viên Dạng viên nén 82 100% Số loại thuốc có khía Không có loại nào 34 41,46 1 loại thuốc 35 43,68 2 loại thuốc 11 13,41 3 loại thuốc 2 2,44 Tổng 82 100 Các liều thuốc mà bệnh nhi đang sử dụng ½ viên 24 29,26 1/3 viên 19 23,17 1/4 viên 29 35,36 1/5 viên 6 7,31 1/6 viên 17 20,73 1/8 viên 19 23,17 1/10 viên 13 15,85 1/12 viên 1 1,21 1/20 viên 1 1,21 1 viên 0 0 Tổng 129 100 Số lần sử dụng thuốc trong ngày 1 lần 28 34,15 2 lần 37 45,12 3 lần 17 20,73 Tổng 82 100 Các cách thức chia liều thuốc của thân nhân bệnh nhi Tỷ lệ không đọc hướng dẫn sử dụng thuốc 59,75%. Lí do không có tờ hướng dẫn để đọc chiếm tỷ lệ cao nhất 56,47% và lí do nhân viên y tế không dặn dò đọc chiếm tỷ lệ thấp nhất 3,22%. Phương pháp cắt thuốc bằng dụng cụ chiếm tỷ lệ cao nhất 48,78% và thấp nhất là pha nguyên viên thuốc với nước, đợi tan ra sau đó chia liều chiếm 3,66%. Tỷ lệ dùng dao để cắt thuốc chiếm 57,5% và không có đối tượng nào sử dụng dụng cụ cắt thuốc mua tại nhà thuốc 0%. Đa số đối tượng chọn bỏ thuốc vào túi nylon rồi nghiền 47,6% và chỉ có 14,3% đối tượng nghiền thuốc bằng dụng cụ có bán tại nhà thuốc. Bảng 4: Các cách thức chia liều thuốc của thân nhân bệnh nhi Cách thức chia liều Tần số (n) Tỷ lệ (%) Thân nhân có đọc tờ hướng dẫn khi dùng thuốc Có 32 40,25 Không 49 59,75 Tổng 82 100 Lí do không đọc tờ hướng dẫn. Không có tờ hướng dẫn để đọc 35 56,47 Đọc nhưng không hiểu nên không đọc 8 12,9 Không biết chữ 4 6,45 Nhân viên y tế không dặn dò đọc 2 3,22 Không có thói quen đọc 13 20,96 Tổng 62 100 Phương pháp chia liều thuốc Cắt thuốc bằng dụng cụ 40 48,78 Bẻ thuốc bằng tay 18 21,95 Nghiền thuốc sau đó chia liều 21 25,61 Pha nguyên viên. với nước, đợi tan thuốc sau đó chia liều 3 3,66 Tổng 82 100 Dụng cụ cắt thuốc N % Dao 23 57,5 Kéo 12 30 Lưỡi lam 5 12,5 Dụng cụ cắt thuốc mua tại nhà thuốc 0 0 Tổng 40 100 Cách thức nghiền thuốc Nghiền bằng dụng cụ có bán tại nhà thuốc 3 14,3 Bỏ vào túi nylon rồi nghiền 10 47,6 Gói vào giấy rồi nghiền 8 38,1 Khác 0 0 Tổng 21 100 Có 80,5% đối tượng có vệ sinh dụng cụ chia thuốc trước khi chia liều thuốc. Lí do “biết nhưng không cần thiết” chiếm tỷ lệ cao nhất 56,25% và chỉ có 12,5% “biết nhưng quên thực hiện”. Tỷ lệ vệ sinh tay trước khi chia liều thuốc là 83% và 17% là không thực hiện. Lí do “biết nhưng quên thực hiện” chiếm tỷ lệ cao nhất 64,3% và thấp nhất là “không biết nên vệ sinh tay” chiếm tỷ lệ 14,3%. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 177 Bảng 5: Vệ sinh dụng cụ Tần số (n) Tỷ lệ (%) Vệ sinh dụng cụ trước khi chia liều Có 66 80,5 Không 16 19,5 Tổng 82 100 Lí do không vệ sinh dụng cụ Biết nhưng quên thực hiện 2 12,5 Biết nhưng không cần thiết 9 56,25 Không biết 5 31,25 Tổng 16 100 Vệ sinh tay trước khi chia liều thuốc Có 68 83 Không 14 17 Tổng 82 100 Lí do không vệ sinh tay Biết nhưng quên thực hiện 9 64,3 Biết nhưng không cần thiết 3 21,4 Không biết 2 14,3 Tổng 14 100 Bảng 6: Bỏ thuốc dư sau khi chia liều Tần số (n) Tỷ lệ (%) Bỏ thuốc dư sau khi chia liều quá 24 giờ Có 9 11 Không 73 89 Tổng 82 100 Lí do không bỏ thuốc dư sau 24 giờ Không biết 36 27,8 Tiết kiệm 28 21,5 Đỡ tốn thời gian 11 8,5 Để dành sử dụng cho những lần sau 51 39,2 Bảo hiểm y tế phát đủ thuốc theo toa 4 3 Tổng 130 100 Phương pháp bảo quản Bỏ vào hộp thuốc 22 26,8 Bỏ vào tủ lạnh (thuốc pha nước) 1 1,2 Bỏ vào bao nilon có khóa zipper 17 20,7 Bỏ vào bao nilon không có khóa zipper, cột lại 39 47,7 Gói vào giấy 3 3,6 Tổng 82 100 Thân nhân được nhân viên y tế hướng dẫn cách chia liều thuốc viên tại nhà Có 3 3,65 Không 79 96,35 Tổng 82 100 Nhận xét: 89% không bỏ thuốc dư sau khi chia liều >24 giờ. Lí do được chọn nhiều nhất là “để dành sử dụng cho lần sau” chiếm 39,2% và “do bảo hiểm y tế phát đủ thuốc” theo toa chiếm tỷ lệ thấp nhất 3%. Đối tượng chọn phương pháp nhiều nhất (47,7%) là bảo quản trong bao nylon không có khóa zipper, cột lại. Thấp nhất là gói vào giấy, chiếm tỷ lệ 3,6%. Thân nhân không được hướng dẫn cách chia thuốc tại nhà chiếm tới 97,6%. BÀN LUẬN Các tài liệu nghiên cứu liên quan Theo khuyến cáo của FDA Hoa kỳ, việc chia tách thuốc viên cần lưu ý(4): Cần có sự giám sát và hướng dẫn của nhân viên y tế. Viên thuốc được chia tách cần có ghi chú của nhà sản xuất “có được chia tách hay không”, nếu không có thông tin đó thì việc chia tách thuốc làm hai vẫn không đảm bảo được hai nửa viên thuốc có khối lượng và hàm lượng thuốc bằng nhau. Không nên chia toàn bộ số lượng thuốc được cấp phát trong một lần. Theo khuyến cáo của FDA, việc chia tách thuốc viên là một hành động nguy cơ vì những lí do(9): Khối lượng và liều lượng của hai nửa viên thuốc sau khi chia thường không đồng đều dù trên viên thuốc có đường rãnh để chia liều. Tính chất, hình dạng của viên thuốc (viên thuốc nhỏ, dễ tan ra hơn sau khi bị phân tách), kiến thức của người chia thuốc có thể ảnh hưởng tới độ chính xác khi phân chia viên thuốc. Không phải viên thuốc nào cũng an toàn để chia tách. Những dạng thuốc như viên nang, thuốc phóng thích chậm hoặc viên có lớp phủ nên được dùng nguyên viên. Nghiên cứu của tác giả Charlotte Verrue, Els Mehuys, và cộng sự(10) được thực hiện vào năm 2011 trên 5 tình nguyện viên chia 8 viên thuốc có hình dạng và kích thước khác nhau bằng ba phương thức: bằng dụng cụ chia tách Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Chuyên Đề Nhi Khoa 178 (bán trong nhà thuốc), bằng kéo và bằng dao làm bếp. Các viên thuốc đều được cân đo trước và sau khi chia. Kết quả cho thấy: Tách thuốc bằng dụng cụ chia tách thuốc cho sai lệch về khối lượng thuốc thấp hơn 2 phương thức còn lại. Trong trường hợp buộc phải chia tách thuốc, chúng ta vẫn được khuyên nên dùng một dụng cụ chuyên tách thuốc có bán tại các cơ sở y tế. Tác giả: Sally A. Helmy thực hiện vào năm 2015 trên 5 tình nguyện viên độ tuổi từ 25-44, được giao cho 10 loại thuốc trong tổng số 16 loại thuốc thông dụng trong điều trị ngoại trú(8). Họ tiến hành chia đôi viên thuốc được phát. Viên thuốc được cân đo trước và sau khi chia tách theo tiêu chuẩn của US Pharmacopeia. Kết quả cho thấy: 100 trong tổng số 640 mẫu chia tách (15,62%) thấp hơn mức tiêu chuẩn lúc đầu Tỷ lệ trung bình mất thuốc sau khi chia của toàn bộ thuốc là 1,5%. Bromazepam, carvodilol và digoxin có tỷ lệ mất thuốc cao nhất. Digoxin thất bại trong việc đảm bảo liều lượng sau khi chia tách. Khối lượng thuốc mất có thể do các mảnh thuốc rớt ra trong quá trình chia tách thuốc. Tỷ lệ thuốc có rãnh/khía để chia liều Tỷ lệ thuốc không có rãnh/khía để chia liều 41,46%. Việc có rãnh/khía giúp việc chia tách thuốc dễ dàng hơn, ít nhất là việc chia một nửa viên thuốc. Với tỷ lệ cao như vậy thì việc chia tách thuốc thành những liều nhỏ hơn 1/2 càng tồn tại nhiều nguy cơ. Các phương pháp chia liều thuốc tại nhà Phương pháp cắt thuốc bằng dụng cụ Chiếm tỷ lệ cao nhất 48,78% với các dụng cụ: dao (57,5%), kéo (30%), dao lam (12,5%) và không có ai sử dụng đồ chia cắt thuốc có bán tại nhà thuốc (0%). Phương thức chia thuốc bằng dụng cụ có bán ở nhà thuốc cho sai lệch về khối lượng thuốc thấp hơn hai phương thức là dao và kéo(10). Tuy nhiên, lí giải cho tỷ lệ này, thường các dụng cụ chia thuốc có bán tại nhà thuốc thường chỉ hỗ trợ cho việc chia liều thành 1/2 viên. Nếu như liều nhỏ hơn thì đối tượng sẽ phải chọn phương thức khác dù sai lệch khối lượng nhiều hơn. Phương pháp Bẻ thuốc bằng tay Phương pháp này chiếm tỷ lệ 21,95%. Hiện tại, chúng tôi chưa thấy khuyến cáo nào từ FDA hay Bộ y tế đồng ý việc bẻ thuốc bằng tay để chia liều. Dù rằng viên thuốc có rãnh/khía để chia liều thành 1/2 viên, nhưng trong trường hợp đó vẫn nên dùng dụng cụ chia liều có bán tại nhà thuốc để đảm bảo khối lượng thuốc không bị mất sau khi chia. Trong trường hợp liều nhỏ hơn thì lại càng không nên bẻ thuốc bằng tay. Phương pháp Nghiền nguyên viên thuốc sau đó chia liều (không pha thuốc) Phương pháp này chiếm 25,26%. Trong đó tỷ lệ dùng dụng cụ nghiền thuốc mua tại nhà thuốc là 14,3%, bỏ vào túi nilon rồi nghiến chiếm 47,1% và gói vào giấy rồi nghiền là 38,1%. Trước tiên, dụng cụ nghiền được sử dụng chủ yếu là túi nilon và giấy, hai dụng cụ này trong lúc nghiền có thể không đảm bảo còn nguyên vẹn, bị thủng hoặc rách. Từ đó làm mất thuốc lần một. Sau đó, lấy bột thuốc đã được nghiền gạn ra thành những phần nhỏ theo toa. Phương pháp này tồn tại nhiều nguy cơ chia thuốc không đều, do chủ yếu chia bằng tay ước chừng nên không thể đảm bảo chính xác được liều lượng cần dùng. Do vậy, phương pháp này cũng là một hành động rủi ro. Phương pháp pha nguyên viên thuốc với nước sau đó đợi rã thuốc để chia liều (pha trong ống bơm tiêm) Phương pháp này chỉ chiếm 3,66% và đối tượng được được khảo sát trong phương pháp này là đối tượng được nhân viên y tế hướng dẫn. Ưu điểm của phương pháp này là thuốc không bị mất do nghiền, cắt hoặc bẻ. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 179 Nhược điểm của phương pháp này: thời gian đợi rã thuốc lâu (khoảng từ 20-30 phút), thuốc có thể rã không hoàn toàn do đọ thẩm thấu nước vào viên nén khác nhau, có một số loại thuốc không tan hoàn toàn trong nước nên việc lắc đều thuốc trước khi chia liều vẫn có thể không chính xác vì không đảm bảo được nồng độ thuốc ổn định trong 1ml nước lẫn thuốc. Do đó, vẫn còn tồn tại nhiều nguy cơ rủi ro trong việc chia liều thuốc. Tỷ lệ thân nhân được nhân viên y tế hướng dẫn cách chia liều thuốc tại nhà Trong 82 thân nhân có 3 đối tượng (3,65%) được hướng dẫn chia liều thuốc tại nhà. 79 đối tượng (96,35%) không được hướng dẫn hoặc hướng dẫn không rõ ràng. Đây là con số đáng báo động. Vì có 53,66% đối tượng chưa hoàn thành phổ thông trung học và mù chữ (4,88%), các đối tượng này cần được ưu tiên nhưng lại chưa được hướng dẫn rõ ràng. Có thể dẫn tới việc chia sai liều, sai cách không đảm bảo được quá trình điều trị đúng và ảnh hướng trực tiếp tới sức khoẻ bệnh nhi. KẾT LUẬN Phương pháp chia liều của 82 thân nhân có những ưu và nhược điểm riêng, nhưng tất cả không đảm bảo được chính xác liều lượng. Bên cạnh đó, theo FDA và Bộ Y Tế chưa có khuyến cáo nào về việc chia nhỏ viên thuốc ra để sử dụng cho bệnh nhi. Đồng thời, Việt Nam và thế giới chưa có một nghiên cứu về tiêu chuẩn, đo lường, kỹ thuật chính xác của từng phương pháp chia liều nên chúng tôi chưa có tiêu chuẩn để đưa ra kết luận phương pháp nào chia liều thuốc chính xác hơn. Do vậy, nguy cơ bệnh nhi dùng không đúng liều thuốc (ít hoặc nhiều hơn) vẫn còn đáng e ngại và cần được quan tâm hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cổng thông tin Bộ Y Tế Việt nam (2014), Những thuốc không nên nhai hoặc bẻ. http: //moh gov vn: 8086/news/pages/tincanbiet aspx?ItemID=49. 2. Dược điển Vidal Việt nam 2014, MIMS Pte Ltd, trang 128- 129, trang 364. 3. Dược điển Vidal Việt nam 2015-2016, MIMS Pte Ltd, trang 39-40, trang 73, trang 268, trang 973-976. 4. FDA US Food and Drugs (2013). Best Practices for Tablet Splitting www.fda.gov/Drugs/ResourcesForYou/Consumers/BuyingUsingMedi cineSafely/EnsuringSafeUseofMedicine/ucm184666. 5. Linda MT, PharmD, Shadi FG (2012). Tablet Splitting and Weight Uniformity of Half-Tablets of 4 Medications in Pharmacy Practice Journal of Pharmacy Practice, vol. 25, 4: pp. 471-476. 6. Phạm Nguyễn Vinh, Hoàng Trọng Kim, Nguyễn Lân Việt, Huỳnh Văn Minh (2000), Xử trí nội ngoại khoa bệnh tim bẩm sinh. Khuyến cáo số 16 của Hội Tim mạch học Quốc gia Việt Nam. Tạp chí tim mạch học số 21, tr. 120-156. 7. Phan Hùng Việt (2009), Bệnh tim bẩm sinh. Giáo trình Nhi khoa sau đại học, tập (2), Nhà xuất bản Đại học Huế, tr. 19-49. 8. Sally AH (2015). Tablet Splitting: Is It Worthwhile? Analysis of Drug Content and Weight Uniformity for Half Tablets of 16 Commonly Used Medications in the Outpatient Setting - http: //www. jmcp. org/doi/pdf/10. 18553/jmcp. 2015. 21. 1. 76. 9. Tablet Splitting: A Risky Practice – FDA U. S Food and Drugs – 25/07/2015 - https: //www. fda. gov/ForConsumers/ConsumerUpdates/ucm171492. htm. 10. Verrue C, Mehuys E, Boussery K, Remon JP, Petrovic M (2011). Tablet-splitting: a common yet not so innocent practice. J Adv Nurs; 67(1): 26-32 Ngày nhận bài báo: 14/06/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/07/2018 Ngày bài báo được đăng: 30/08/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphuong_phap_chia_lieu_thuoc_tim_dang_vien_tai_nha_cua_benh_n.pdf