Phục hồi rừng ở Tây Bắc Việt Nam

Tài liệu Phục hồi rừng ở Tây Bắc Việt Nam: N Ú I C Ơ H Ộ I C H O P H ÁT T RI ỂN 123 Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững Phục hồi rừng ở Tây Bắc Việt Nam Thành Lò Quang1, Lê Thị Hạnh1, Heidi Zimmer2, Debbie Rudd1, Đức Minh Lò 2, J. Doland Nichols2 và Đặng Thịnh Triều1 Cơ quan 1 Viện Nghiên cứu Lâm sinh (SRI), Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. 2 Trung tâm Nghiên cứu Rừng, Đại học Southern Cross, Australia. Tác giả đại diện thinhtrieu@hotmail.com Từ khóa Tây Bắc Việt Nam, phục hồi rừng, quản lý bền vững. Giới thiệu Tây Bắc (NW) là vùng lưu vực quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động chuyển đổi đất rừng sang đất nông nghiệp đã dẫn đến mất rừng, suy thoái rừng và thay đổi cảnh quan đáng kể (MARD, 2014). Hiện nay Tây Bắc được xem là khu vực cần được ưu tiên cho phục hồi rừng. Tuy nhiên, việc hồi phục rừng ở đây còn nhiều khó khăn do hạn chế về năng lực cũng như kiến thức để đảm bảo có phương pháp tiếp cận tốt nhất cho phục hồi từng loại ...

pdf3 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phục hồi rừng ở Tây Bắc Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N Ú I C Ơ H Ộ I C H O P H ÁT T RI ỂN 123 Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững Phục hồi rừng ở Tây Bắc Việt Nam Thành Lò Quang1, Lê Thị Hạnh1, Heidi Zimmer2, Debbie Rudd1, Đức Minh Lò 2, J. Doland Nichols2 và Đặng Thịnh Triều1 Cơ quan 1 Viện Nghiên cứu Lâm sinh (SRI), Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. 2 Trung tâm Nghiên cứu Rừng, Đại học Southern Cross, Australia. Tác giả đại diện thinhtrieu@hotmail.com Từ khóa Tây Bắc Việt Nam, phục hồi rừng, quản lý bền vững. Giới thiệu Tây Bắc (NW) là vùng lưu vực quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động chuyển đổi đất rừng sang đất nông nghiệp đã dẫn đến mất rừng, suy thoái rừng và thay đổi cảnh quan đáng kể (MARD, 2014). Hiện nay Tây Bắc được xem là khu vực cần được ưu tiên cho phục hồi rừng. Tuy nhiên, việc hồi phục rừng ở đây còn nhiều khó khăn do hạn chế về năng lực cũng như kiến thức để đảm bảo có phương pháp tiếp cận tốt nhất cho phục hồi từng loại rừng. Hợp phần này được thực hiện dựa trên kết quả các nghiên cứu phục hồi rừng trước đây để đánh giá các biện pháp phục hồi rừng với cách tiếp cận về sinh thái-xã hội khác nhau, đồng thời cũng xây dựng kế hoạch quản lý bền vững cho rừng cộng đồng ở Tây Bắc VN. Phương pháp và cách tiếp cận Hai địa điểm thuộc vùng Tây Bắc được Viện Nghiên cứu Lâm sinh triển khai các hoạt đồng phục hồi rừng là thôn Nà Bai (tỉnh Sơn La) và thôn Nà Nọi (tỉnh Điện Biên). Đây là hai bản có nhiều đặc điểm tương đồng như cộng đồng dân cư sinh sống gần rừng, có tập quán canh tác lúa nước và canh tác đất dốc. Cả hai bản đều có các khu vực thích hợp cho trồng rừng, xây dựng hệ thống nông lâm kết hợp và khoanh nuôi, bảo vệ rừng. Cách tiếp cận để tìm ra phương pháp phục hồi rừng phù hợp là phỏng vấn người dân địa phương nhằm tìm ra những khó khăn cho việc phục hồi rừng và đồng thời để xác định những ưu tiên cho cộng đồng trồng rừng H Ộ I T H Ả O V Ề PH ÁT T RI ỂN T ÂY B Ắ C 124 Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững và trồng các loài cây lâm sản ngoài gỗ. Hoạt động điều tra rừng cũng sẽ được thực hiện ở mỗi địa điểm nhằm đánh giá hiện trạng đa dạng sinh học và cấu trúc rừng. Bốn hoạt động sẽ được thử nghiệm ở mỗi địa điểm gồm: Trồng làm giàu rừng; khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên; trồng cây phân tán và trồng cây lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng. Các hoạt động và kết quả ban đầu Điều tra rừng được triển khai vào tháng 4 năm 2017, kết quả cho thấy, hầu hết diện tích rừng tại hai địa điểm này là rừng trung bình (theo phân loại rừng của Thông tư 34/2009, Bộ NN&PTNT) và đang phục hồi, trữ lượng gỗ đạt 109 m3/ha (Nà Bai) và 126 m3/ha (Nà Nọi). Các loài cây chiếm ưu thế ở Nà Bai gồm Sến đất (Sinosideroxylon bonii); Cà lồ bắc bộ (Caryo- daphnopsis tonkinensis), Dáp (Photinia prunifolia) và Sung bán tâm (Ficus semicordata), ở Nà Nọi gồm Vối thuốc (Schima wallichii); Trẩu (Vernicia montana); Dẻ gai (Castanopsis chinensis) và Bọt ếch (Glochidion daltonii). Phỏng vấn cộng đồng rừng đã được tiến hành vào tháng 5/2017. Các loài cây được người dân quan tâm chủ yếu là các loài cây đa mục đích có thể mang lại lợi ích cho người trồng rừng như Trám đen và Giổi ăn hạt. Hiện nay, người dân chủ yếu chỉ vào rừng để kiếm củi, các sản phẩm lâm sản ngoài gỗ từ rừng như măng, nấm và mật ong chỉ sử dụng trong gia đình, không có để bán. Những khó khăn trong phục hồi rừng tại cả hai thôn bao gồm thiếu vốn/cây giống, thiếu kiến thức trồng cây lâm nghiệp. Bên cạnh đó người dân cũng quan tâm đến những cây trồng phát triển nhanh và gỗ có giá trị thương mại cao để sử dụng cho việc phục hồi rừng. Tháng 6 năm 2017, các hoạt động bắt đầu được triển khai là trồng cây phân tán và trồng làm giàu rừng. Các loài Giổi ăn hạt; Trám đen và Mỡ đều được cả hai thôn lựa chọn, ngoài ra Tô hạp điện biên; Vối thuốc và Keo tai tượng được chọn thêm ở Nà Nọi; Sa mộc được chọn thêm ở Nà Bai. Kết quả sơ bộ cho thấy, sau hai tháng, tỷ lệ sống của cây trồng trong các hộ gia đình đạt từ 86 -100%, và không có sự khác biệt rõ rệt giữa hai bản. Riêng Sa mộc tại Nà Bai có tỷ lệ sống đạt 100% và Tô hạp điện biên tại Nà Nọi đạt 99%. Thảo luận Rừng ở Nà Bai và Nà Nọi là rừng non đang trong quá trình phục hồi sau hoạt động khai thác quá mức trước đây. Kết quả điều tra cho thấy, việc khoanh nuôi, phục hồi rừng được bắt đầu gần như cùng thời điểm cho cả 2 thôn, nhưng trữ lượng gỗ tại Nà Bai thấp hơn Nà Nọi. Sự khác nhau này N Ú I C Ơ H Ộ I C H O P H ÁT T RI ỂN 125 Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững là do khác nhau về điều kiện tự nhiên, đặc điểm của rừng, cụ thể rừng ở Nà Bai nằm trên sườn núi dốc với tỷ lệ đá lớn và xói mòn xảy ra nghiêm trọng, đây có thể là nguyên nhân dẫn đến diện tích che phủ rừng thấp. Kết quả phỏng vấn hộ gia đình cho thấy, ngày nay, người dân địa phương không còn dựa vào rừng do việc khai thác trước đây đã làm cạn kiện phần lớn nguồn tài nguyên rừng, chỉ còn lại vài loại cây và các lâm sản ngoài gỗ có giá trị thấp. Do đó, người dân mong muốn trồng các loại cây rừng tạo ra sản phẩm có thể thu hoạch gỗ, vừa cho lâm sản ngoài gỗ như Giổi ăn hạt, Trám đen v.v. Mặc dù tỷ lệ sống của cây trồng cao, song vẫn còn một số vấn đề cần quan tâm như một số cây bị chết hoặc chất lượng sinh trưởng kém do điều kiện thời tiết không phù hợp (như mưa to hoặc nắng to), côn trùng ăn, bệnh dịch, chăn thả gia súc. Sự khác biệt trong kỹ thuật trồng cây giữa các hộ gia đình cũng cần được lưu ý trong quá trình tập huấn nhằm nâng cao kỹ năng trồng rừng cho họ trong tương lai. Trong thời gian tới cần theo dõi tính hiệu quả của các biện pháp thử nghiệm phục hồi rừng. Hơn nữa, khi các cây phân tán che bóng các cây nông nghiệp thì cần có biện pháp để người dân kiểm soát tán cây và duy trì giữ cây lâm nghiệp sao cho cây nông nghiệp vẫn có thể sinh trưởng, phát triển được. Một số vấn đề về kinh tế xã hội khác cũng được xác định thông qua phỏng vấn, bao gồm các rào cản về kinh phí trong phục hồi rừng, thiếu hiểu biết về kỹ thuật trồng rừng và thiếu các mô hình trình diễn trong phục hồi rừng. Dự án sẽ tập trung vào sự tham gia của cộng đồng và xây dựng năng lực, chúng tôi hi vọng sẽ vượt qua được những rào cản này và xây dựng một mô hình hiệu quả trong phục hồi rừng có thể nhân rộng trong thời gian tới. Tài liệu tham khảo 1. Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn (MARD), Việt Nam (2009) Thông tư 34/2009/TT-BNNPTNT Quy định tiêu chí xác định và phân loại rừng. Hà Nội. 2. Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn (MARD), Việt Nam (2014) Quyết định 3135/QĐ-BNN-TCLN công bố số liệu hiện trạng rừng toàn quốc năm 2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfs19_4394_2207180.pdf
Tài liệu liên quan