Tài liệu Phục hồi chức năng rối loạn nuốt sau đột quỵ não: Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 12
PHỤC HỒI CHỨC NĂNG RỐI LOẠN NUỐT SAU ĐỘT QUỴ NÃO
Nguyễn Thị Phương Nga*
TÓM TẮT
Tỷ lệ rối loạn nuốt dao động từ 19% đến 65% trong giai đoạn cấp sau đột quỵ. Rối loạn nuốt làm tăng tỷ lệ
tử vong, biến chứng và thời gian nằm viện do làm tăng nguy cơ hít sặc, viêm phổi và suy dinh dưỡng. Do đó, quy
trình tiếp cận chẩn đoán và can thiệp phục hồi chức năng rối loạn nuốt là rất quan trọng. Mục tiêu của bài là cập
nhật điều trị và phục hồi chức năng tối ưu hiện nay đối với rối loạn nuốt sau đột quỵ.
Từ khóa: rối loạn nuốt, đột quỵ
ABSTRACT
MANAGEMENT AND REHABILITATION OF POST-STROKE DYSPHAGIA
Nguyen Thi Phuong Nga
Poststroke dysphagia (PSD), defined here as difficulty in swallowing after a stroke, is a common
complication. In acute stroke, the prevalence of dysphagia has been reported as between 19% and 65%. Dysphagia
is is associated with increased mor...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 361 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phục hồi chức năng rối loạn nuốt sau đột quỵ não, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 12
PHỤC HỒI CHỨC NĂNG RỐI LOẠN NUỐT SAU ĐỘT QUỴ NÃO
Nguyễn Thị Phương Nga*
TÓM TẮT
Tỷ lệ rối loạn nuốt dao động từ 19% đến 65% trong giai đoạn cấp sau đột quỵ. Rối loạn nuốt làm tăng tỷ lệ
tử vong, biến chứng và thời gian nằm viện do làm tăng nguy cơ hít sặc, viêm phổi và suy dinh dưỡng. Do đó, quy
trình tiếp cận chẩn đoán và can thiệp phục hồi chức năng rối loạn nuốt là rất quan trọng. Mục tiêu của bài là cập
nhật điều trị và phục hồi chức năng tối ưu hiện nay đối với rối loạn nuốt sau đột quỵ.
Từ khóa: rối loạn nuốt, đột quỵ
ABSTRACT
MANAGEMENT AND REHABILITATION OF POST-STROKE DYSPHAGIA
Nguyen Thi Phuong Nga
Poststroke dysphagia (PSD), defined here as difficulty in swallowing after a stroke, is a common
complication. In acute stroke, the prevalence of dysphagia has been reported as between 19% and 65%. Dysphagia
is is associated with increased mortality and morbidity due in part to aspiration, pneumonia, and malnutrition.
Management and Rehabilitation of dysphagia is necessary to optimize functional recovery in the remainders. The
aim of this article is to update the current optimal management and rehabilitation, including diagnosis,
investigation and treatment for post-stroke dysphagia.
Keywords: dysphagia, dysphagia
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn nuốt (dysphagia) là tình trạng
khiếm khuyết hoặc rối loạn các giai đoạn của
quá trình nuốt.
Tỷ lệ rối loạn nuốt dao động từ 19% đến
65% trong giai đoạn cấp sau đột quỵ, tùy
thuộc vào vị trí của tổn thương đột quỵ, thời
điểm đánh giá và phương pháp đánh giá(3,11).
Rối loạn nuốt làm tăng tỷ lệ tử vong, biến
chứng và thời gian nằm viện. ½ số bệnh nhân
rối loạn nuốt sau đột quỵ bị hít sặc
(aspiration), 1/3 số bệnh nhân bị viêm phổi(10).
Nguy cơ viêm phổi tăng gấp 3 lần ở bệnh
nhân rối loạn nuốt. Viêm phổi sau đột quỵ khá
phổ biến ước tính từ 5% đến 26% tùy thuộc vào
tiêu chuẩn chẩn đoán. Bệnh nhân rối loạn nuốt
có thể không nhận được đầy đủ năng lượng, dẫn
đến suy dinh dưỡng. 90% rối loạn nuốt hồi phục
sau 2 tuần. Tuy nhiên, thời gian từ lúc đột quỵ
đến lúc hồi phục có thể đến 2 – 3 tháng(10).
Sinh lý nuốt
Hoạt động nuốt bao gồm 3 giai đoạn: giai
đoạn miệng, hầu họng và thực quản. Giai đoạn
miệng bao gồm: pha A (chuẩn bị) gồm hoạt
động nhai, trộn tạo thành viên thức ăn; và pha B
vận chuyển thức ăn đến hầu. Giai đoạn hầu là
một phản xạ không tự ý, dây thần kinh hướng
tâm là V, IX và ly tâm là V, IX, X và XII. Các sóng
nhu động của giai đoạn thực quản được điều
khiển bởi dây IX, X và đám rối thần kinh
Auerbach ở thực quản nhằm đưa thức ăn xuống
dạ dày(2).
Cơ chế và các yếu tố nguy cơ của rối loạn nuốt
sau đột quỵ
Các yếu tố làm tăng nguy cơ rối loạn nuốt
sau đột quỵ gồm tuổi cao, tiền sử đột quỵ, độ
nặng của đột quỵ đánh giá bằng thang điểm
*Khoa Nội Thần kinh BV Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BSCKII Nguyễn Thị Phương Nga ĐT: 0918086162 Email: phuongnga2910@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 13
NIHSS, rối loạn ý thức, thể tích tổn thương càng
lớn, và vị trí tổn thương(14,8). Các nghiên cứu
phân tích điểm ảnh (voxel) trên cộng hưởng từ
cho thấy có mối liên quan giữa biểu hiện của rối
loạn nuốt và vị trí tổn thương. Thời gian vận
chuyển thức ăn ở miệng kéo dài có liên quan các
tổn thương ở thùy trán dưới và hồi trước trung
tâm (precentral gyrus); thời gian pha hầu kéo dài
chủ yếu do tổn thương ở hạch nền và vành tia
bán cầu phải; tổn thương ở bèo sẫm (putamen)
bên phải thường liên quan hít sặc(8). Đột quỵ
thân não có tỷ lệ mắc rối loạn nuốt cao hơn đột
quỵ bán cầu. Hiểu biết về liên quan giữa vị trí
tổn thương và rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ
giai đoạn mạn tính là bước quan trong đầu tiên
để dự đoán rối loạn nuốt lâu dài sau đột quỵ,
cung cấp thông tin về hiệu quả của các can thiệp
điều trị và dự phòng rối loạn nuốt sau đột quỵ.
Hệ thống cơ hầu họng được chi phối bởi cả 2
bán cầu nhưng không đối xứng. Các nghiên cứu
theo dõi điểm ảnh kích thích từ trường xuyên sọ
(TMS mapping) hoặc hình ảnh cộng hưởng từ
chức năng cho thấy sự bù trừ và hoạt hóa vỏ não
bên lành ở bệnh nhân rối loạn nuốt do tổn
thương bán cầu. Sự tái tổ chức của bán cầu
không tổn thương (neuroplasticity) có vai trò
trong hồi phục chức năng nuốt(7,9).
Biến chứng của rối loạn nuốt sau đột quỵ
Rối loạn nuốt là nguy cơ của hít sặc. Hít sặc
im lặng “silent” aspiration chiếm tỷ lệ 40% các
trường hợp hít sặc được chẩn đoán xác định
bằng nội soi ống mềm đánh giá nuốt hoặc đánh
giá nuốt bằng XQ có cản quang. Rối loạn nuốt có
liên quan với khiếm khuyết cảm giác hầu họng,
100% bệnh nhân rối loạn nuốt có mất cảm giác
hầu họng 1 hay 2 bên(16,1).
Viêm phổi là biến chứng thường gặp nhất
của rối loạn nuốt. Hít sặc (nguy cơ tương đối =
11,56; 95% CI 3,36-9,77), vệ sinh răng miệng kém,
giảm miễn dịch là các yếu tố nguy cơ của viêm
phổi sau đột quỵ. Viêm phổi thường xuất hiện
trong tuần đầu sau đột quỵ. Bệnh nhân viêm
phổi có nguy cơ tử vong và sống phụ thuộc cao
hơn, thời gian điều trị dài hơn. Bệnh nhân rối
loạn nuốt dễ bị thiếu nước và suy dinh dưỡng,
giảm chất lượng cuộc sống và cô lập xã hội(19).
Vai trò của đơn vị đột quỵ
Điều trị đột quỵ cần sự can thiệp đa chuyên
khoa (multiprofessional). Đơn vị đột quỵ mang
lại những lợi ích đáng kể trong việc cải thiện
hoạt động sống hàng ngày và giảm tàn phế. So
với các đơn vị phục hồi chức năng (PHCN) tổng
quát, phục hồi chức năng trong đơn vị đột quỵ
(ĐVĐQ) làm giảm tỷ lệ tử vong và thời gian nằm
viện, tăng khả năng độc lập về chức năng và chất
lượng cuộc sống. Trong ĐVĐQ, PHCN được
thực hiện bởi một đội liên chuyên khoa được
huấn luyện và có kiến thức điều trị đột quỵ (bao
gồm bác sĩ, điều dưỡng, chuyên viên vật lý trị
liệu, lao động trị liệu, âm ngữ trị liệu ) chuyên
chăm sóc bệnh nhân đột quỵ, và thường là trong
một vùng địa lý. Cho mỗi 100 bệnh nhân được
điều trị phục hồi chức năng nội trú đa chuyên
khoa thì có thêm 5 bệnh nhân xuất viện với tình
trạng độc lập(15). Thành viên đội đột quỵ cần biết
cách tầm soát, đánh giá và xử trí can thiệp bệnh
nhân có rối loạn nuốt. Do đó, một quỵ trình
đánh giá và can thiệp chuẩn để thống nhất thực
hiện là cần thiết(20).
Dấu hiệu và triệu chứng của rối loạn nuốt
Bảng 1: Dấu hiệu và triệu chứng của rối loạn nuốt
Giai đoạn miệng Giai đoạn hầu Giai đoạn thực quản
Tồn đọng miệng
Chảy nước dãi
Rơi vãi thức ăn
Hho sặc ngay sau khi nuốt
Khó bắt đầu nuốt, nuốt chậm
Thức ăn vướng họng.
Thay đổi giọng nói.
Trào ngược miệng – mũi
Sụt cân, thay đổi thói quen ăn uống.
Viêm phổi tái đi tái lại
Tthức ăn vướng họng hoặc sau xương ức.
Ssụt cân, thay đổi thói quen ăn uống
Vviêm phổi tái đi tái lại
Ttrào ngược dạ dày – thực quản
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 14
Đánh giá rối loạn nuốt
Các nghiệm pháp tầm soát tại giường
Các nghiệm pháp tầm soát cần được thực
hiện sớm trước khi cho bệnh nhân ăn uống, bởi
bởi điều dưỡng được huấn luyện(13). Các nghiệm
pháp này chủ yếu đánh giá giai đoạn miệng và
hầu, giúp xác định bệnh nhân có thể hay không
thể nuốt an toàn, tức là có nguy cơ hít sặc hay
không. Các nghiệm pháp tầm soát có thể bỏ sót
đến 40% hít sặc do đó không giúp xác định có hít
sặc hay không, và do đó thường chưa đủ để đưa
ra quyết định can thiệp. Một số nghiệm pháp
được áp dụng rộng rãi, được công nhận thực
hiện bởi điều dưỡng được huấn luyện gồm
nghiệm pháp tầm soát rối loạn nuốt sau đột quỵ
của Bênh viện Barnes Jewish (Barnes Jewish
Hospital Stroke Dysphagia Screen) còn được gọi
là nghiệm pháp tầm soát rối loạn nuốt sau đột
quỵ cấp (Acute Stroke Dysphagia Screen),
nghiệm pháp 3 oz nước (3 oz Water Test), Yale
Swallow Protocol. Nghiệm pháp Gugging
Swallow Screen cũng được công nhận rộng rãi,
có thể giúp đưa ra quyết định can thiệp ban đầu
nhưng nghiệm pháp này được thực hiện bởi
chuyên viên âm ngữ và kết hợp với đáh giá nuốt
chi tiết(15).
Lượng giá chi tiết bởi chuyên viên âm ngữ
Lượng giá chi tiết được thực hiện khi các
nghiệm pháp tầm soát cho thấy có rối loạn nuốt,
và được thực hiện bởi chuyên viên âm ngữ. Nội
dung lượng giá bao gồm(6):
Khám thần kinh V, VII, IX, X, XII về vận
động, cảm giác, thức tỉnh, vệ sinh răng miệng.
Dùng các loại thức ăn có kết cấu khác nhau
và kỹ thuật hổ trợ nuốt khác nhau.
Quan sát các dấu hiệu hít sặc: ho, hắng
giọng, thay đổi giọng, khó phát âm, ảnh hưởng
hô hấp (SpO2).
Xác định các rối loạn nuốt ở pha miệng-hầu.
Lựa chọn can thiệp thích hợp. Nếu bệnh
nhân nuốt an toàn có hay không cần thay đổi kết
cấu thức ăn và cách nuốt thì cho bệnh nhân ăn
và theo dõi, cho chỉ định các chẩn đoán thăm dò
chức năng nếu cần xác định hít sặc. Nếu bệnh
nhân nuốt không an toàn thì không cho ăn
đường miệng và tiếp tục theo dõi đánh giá.
Chẩn đoán thăm dò chức năng
Hai thăm dò duy nhất giúp phát hiện hít sặc
một cách đáng tin cậy là đánh giá nuốt bằng XQ
nuốt cản quang (Videofluoroscopy, VFS) và nội
soi ống mềm (fiberoptic endoscopic examination
of swallowing, FEES). Trong đó đánh giá nuốt
bằng XQ có nuốt cản quang là tiêu chuẩn vàng
chẩn đoán rối loạn nuốt. Các thăm dò chẩn đoán
này được thực hiện bởi chuyên viên âm ngữ và
kỹ thuật viên(6).
Đánh giá nuốt bằng cản quang dưới XQ
(VFS) được thực hiện bằng cách đánh giá khiếm
khuyết các giai đoạn nuốt ở miệng, hầu, phần
trên thực quản trên XQ khi bệnh nhân uống
thuốc cản quang với các kết cấu thức ăn khác
nhau. Phương pháp này là tiêu chuẩn vàng chẩn
đoán hít sặc, nhưng hạn chế là không thể thực
hiện thường quy, khó làm lại, bệnh nhân phải
chịu tia X, làm tại phòng XQ, bệnh nhân ngồi(6).
Nội soi ống mềm đánh giá nuốt (FEES) đánh
giá tốc độ và khả năng di chuyển thức ăn qua
hầu, tồn đọng tại hạ hầu, phát hiện hít sặc. Tuy
nhiên, phương pháp này có thể bỏ sót hít sặc,
không quan sát giai đoạn miệng và thực quản,
kỹ thuật viên cần có kinh nghiệm, không phổ
biến. Ưu điểm là có thể thực hiện tại giường,
thực hiện khi bệnh nhân không ngồi được,
không tiếp xúc tia XQ(16).
Phục hồi chức năng rối loạn nuốt
Chuyên viên âm ngữ xác định khiếm khuyết
trong quá trình nuốt, từ đó lựa chọn và phối hợp
các biện pháp can thiệp nhằm phục hồi chứ năng
nuốt. Các biện pháp can thiệp gồm các kỹ thuật
bù trừ (compensation), các bài tập nuốt
(swallowing exercises), các biện pháp hổ trợ
PHCN, thủ thuật điều trị xâm nhập.
Các kỹ thuật bù trừ
Giúp nuốt an toàn (tránh hít sặc) và hiệu quả
(tránh tồn đọng thức ăn), có hiệu quả ngay
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 15
nhưng không lâu dài(17). Các kỹ thuật này gồm tư
thế thích hơp khi nuốt, kỹ thuật tăng nhận thức
cảm giác, thay đổi kết cấu thức ăn, thể tích ngụm
thức ăn, làm đặc đồ uống, các kỹ thuật nín thở
(breath-holding techniques).
Tư thế thích hợp khi nuốt gồm gập cằm và
quay đầu về bên liệt. Gập cằm áp dụng khi chậm
nuốt pha hầu và giảm bảo vệ đường thở, nhằm
làm hẹp đường vào thanh quản, giảm khoảng
cách giữa nắp thanh môn và vách hầu giúp nắp
thanh môn đóng kín hơn. Quay đầu về bên liệt
giúp dồn thức ăn sang bên lành(5).
Hầu hết bệnh nhân rối loạn nuốt có mất cảm
giác hầu họng 1 hay 2 bên. Kỹ thuật tăng nhận
thức cảm giác bao gồm thay đổi nhiệt độ thức
ăn, carbonate hóa thức uống, thức ăn chua nhằm
cải thiện cảm giác miệng – hầu, giảm thời gian
vận chuyển của giai đoạn miệng, tăng khởi động
giai đoạn hầu, giảm xâm nhập đường thở.
Tùy thuộc mức độ rối loạn nuốt mà có chế
độ ăn thích hợp. Mức độ 1: chế độ ăn nhão
(Dysphagia Pureed); Mức độ 2: chế độ ăn mềm
không bao gồm thành phần rắn (Dysphagia
Mechanically Altered); Mức độ 3: chế độ ăn
mềm, bao gồm thành phần rắn (Dysphagia
Advanced); Mức độ 4: chế độ ăn bình thường
(regular)(12).
Một số kỹ thuật nín thở khi nuốt là Nuốt trên
thanh môn (supraglottic swallow), nuốt siêu trên
thanh môn (super-supraglottic swallow). Kỹ
thuật nuốt trên thanh môn giúp làm sạch họng
và đóng thanh môn, thực hiện bằng cách yêu cầu
bệnh nhân làm theo trình tự nín thở, nuốt, ho
mạnh, nuốt, sau đó tiếp tục hít vào. Ở kỹ thuật
nuốt siêu trên thanh môn giúp tăng cường đóng
thanh môn, yêu cầu bệnh nhân thực hiện theo
trình tự nín thở, gắng sức nuốt, ho, nuốt, ho,
nuốt, tiếp tục hít vào(17).
Các bài tập nuốt
Được lựa chọn thích hợp tùy khiếm khuyết
trong quá trình nuốt, thực hiện ngoài bữa ăn và
cho hiệu quả lâu dài.
Tập lưỡi với kháng lực (Lingual Resistance
Exercises), tập cơ môi, hàm đối với rối loạn nuốt
do giai đoạn miệng. Đối với khiếm khuyết giai
đoạn hầu có các bài tập Masako (Masako
Maneuver), tập súc miệng (Gargling), tập nuốt
gắng sức (Effortful Swallow), bài tập
Mendelsohn (Mendelsohn Maneuver) . Các
bài tập này nhằm tăng cường các cơ lưỡi, cơ
vùng hầu, bảo vệ đường thở, giảm tồn đọng
thức ăn. Bài tập nhóm cơ hổ trợ nuốt (Shaker
Exercise) gồm cơ ức đòn chũm và cơ bám da
cổ(17). Bài tập Masako được thực hiện bằng cách
yêu cầu bệnh nhân đưa lưỡi ra trước, và giữ cố
định giữa 2 hàm răng đồng thời thực hiện động
tác nuốt.
Các biện pháp phối hợp hổ trợ phục hồi chức
năng (PHCN) nuốt
Gồm châm cứu, thuốc (metoclopramide),
kích thích điện thần kinh-cơ (NMES), kích thích
điện vùng hầu (pharyngeal electrical
stimulation), kích thích điện xuyên sọ (tDCS),
kích thích từ xuyên sọ (transcranial magnetic
stimulation)(17,18,20).
Các thủ thuật điều trị xâm nhập
Nên đặt ống thông dạ dày trong 7 ngày đầu
sau đột quỵ cho bệnh nhân không thể nuốt an
toàn ngay cả khi thay đổi kết cấu thức ăn và cách
nuốt. Đặt ống thông dạ dày sớm làm giảm tỷ lệ
tử vong ở bệnh nhân không thể ăn uống bằng
miệng. Ngoài ra, dùng ống thông mũi-dạ dày
giúp hổ trợ dinh dưỡng trong thời gian ngắn (từ
2 - 3 tuần) cho bệnh nhân không thể nuốt. Nên
mở dạ dày ra da cho bệnh nhân không thể nuốt
kéo dài để đảm bảo nuôi dưỡng đầy đủ(17,20).
KẾT LUẬN
Rối loạn nuốt là khiếm khuyết thần kinh
thường gặp sau đột quỵ, làm tăng nguy cơ viêm
phổi, tử vong và kéo dài thời gian nằm viện. Quy
trình tiếp cận rối loạn nuốt bao gồm tầm soát,
lượng giá chi tiết và lên kế hoạch can thiệp. Phục
hồi chức năng rối loạn nuốt sau đột quỵ nên
phối hợp đa chuyên ngành bao gồm điều dưỡng
và chuyên viên âm ngữ trị liệu. Phối hợp các
biện pháp can thiệp giúp tăng cường hiệu quả
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2019 16
phục hồi chức năng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aviv J, et al (1996). Silent laryngopharyngeal sensory deficits
after stroke. Ann Otol Rhinol Laryngol, 105:92–97.
2. Dodds WJ (1989). Physiology of swallowing. Dysphagia,
3(4):171-8.
3. Donovan NJ, et al (2013). Dysphagia screening: state of the art:
invitational conference proceeding from the State-of-the-Art
Nursing Symposium, International Stroke Conference 2012.
Stroke, 44:e24–e31.
4. Fedder WN (2017). Review of Evidenced-Based Nursing
Protocols for Dysphagia Assessment. Stroke, 48:e99-e101.
5. Fraser S, Steele CM (2012). Dysphagia Management in Stroke
Rehabilitation. Can. J Speech Lang Pathol Aud, 36:142–8.
6. González-Fernánde M, et al (2013). Dysphagia after Stroke: an
Overview. Curr Phys Med Rehabil Rep Sep, 1(3):187–196.
7. Hamdy S and Aziz Q (1998). Recovery of swallowing after
dysphagic stroke relates to functional reorganization in the
intact motor cortex. Gastroenterology, 115: 1104–1112.
8. Jang S, et al (2017). Lesion Characteristics of Chronic Dysphagia
in Patients With Supratentorial Stroke. Ann Rehabil Med,
41(2):225-230.
9. Li S, et al (2009). Functional magnetic resonance imaging study
on dysphagia after unilateral hemispheric stroke: a preliminary
study. J Neurol Neurosurg Psychiatry, 80:1320–1329.
10. Mann G, Hankey G and Cameron D (1999). Swallowing
function after stroke prognosis and prognostic factors at 6
months. Stroke, 30:744–748.
11. Mann G, Hankey GJ and Cameron D (2000). Swallowing
disorders following acute stroke: prevalence and diagnostic
accuracy. Cerebrovasc Dis, 10: 380–386.
12. National Dysphagia Diet Task Force (2002). National Dysphagia
Diet: Standardization for Optimal Care. Chicago, IL: American
Dietetic Association.
13. Powers WJ, et al (2018). Guidelines for the Early Management
of Patients With Acute Ischemic Stroke. Stroke, 49:e46–e99.
14. Rofes L et al. https://doi.org/10.1111/nmo.13338.
15. Seenan P, Long M, Langhorne P (2007). Stroke units in the
natural habitat. Stroke, 38:1886–1892.
16. Smith C, et al (1999). Incidence and patient characteristics
associated with silent aspiration in the acute care setting.
Dysphagia, 14: 1–7.
17. Smithard DG (2016). Dysphagia Management and Stroke
Units. Curr Phys Med Rehabil Rep, 4:287–294
18. Sproson L, et al (2018). Combined electrical stimulation and
exercise for swallow rehabilitation post-stroke: a pilot
randomized control trial. Int J Lang Commun Disord, 53(2):405–417.
19. Westendorp W, et al (2011). Post-stroke infection: a systematic
review and meta-analysis. BMC Neurol, 11:110.
20. Winstein CJ, et al (2016). Guidelines for Adult Stroke
Rehabilitation and Recovery. Stroke, 47:e98–e169.
Ngày nhận bài báo: 15/05/2019
Ngày bài báo được đăng: 02/07/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phuc_hoi_chuc_nang_roi_loan_nuot_sau_dot_quy_nao.pdf