Tài liệu Phông và vật liệu che chắn Detector: KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 31
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
19
Vì bức xạ vũ trụ chiếu liên tục vào khí quyển của trái đất và có hoạt độ phóng xạ tự nhiên trong môi trường, nên tất
cả các detector đều ghi được tín hiệu phông
nào đó. Bản chất của phông này thay đổi nhiều
theo kích thước, loại detector và việc che chắn
quanh detector. Tốc độ đếm phông có thể cao
hàng ngàn số đếm trên giây đối với các chất
nhấp nháy thể tích lớn hoặc nhỏ hơn một số
đếm trên giây trong các ứng dụng đặc biệt. Bởi
vì độ lớn phông ảnh hưởng đến việc xác định
mức bức xạ cực tiểu, nên rất có ý nghĩa trong
những ứng dụng có chứa nguồn bức xạ hoạt
độ thấp. Các detector thường được che chắn
ngoài để cách ly các nguồn bức xạ khác trong
phòng thí nghiệm.
1. Nguồn phông
Có thể chia bức xạ phông thành 5 loại:
+ Hoạt độ phóng xạ tự nhiên từ các vật liệu
cấu thành detector.
+ Hoạt độ phóng xạ tự nhiên của các thiết
bị phụ thuộc, giá đỡ và che chắn được đặt trong
vùng lân cận trực tiếp của d...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 628 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phông và vật liệu che chắn Detector, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 31
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
19
Vì bức xạ vũ trụ chiếu liên tục vào khí quyển của trái đất và có hoạt độ phóng xạ tự nhiên trong môi trường, nên tất
cả các detector đều ghi được tín hiệu phông
nào đó. Bản chất của phông này thay đổi nhiều
theo kích thước, loại detector và việc che chắn
quanh detector. Tốc độ đếm phông có thể cao
hàng ngàn số đếm trên giây đối với các chất
nhấp nháy thể tích lớn hoặc nhỏ hơn một số
đếm trên giây trong các ứng dụng đặc biệt. Bởi
vì độ lớn phông ảnh hưởng đến việc xác định
mức bức xạ cực tiểu, nên rất có ý nghĩa trong
những ứng dụng có chứa nguồn bức xạ hoạt
độ thấp. Các detector thường được che chắn
ngoài để cách ly các nguồn bức xạ khác trong
phòng thí nghiệm.
1. Nguồn phông
Có thể chia bức xạ phông thành 5 loại:
+ Hoạt độ phóng xạ tự nhiên từ các vật liệu
cấu thành detector.
+ Hoạt độ phóng xạ tự nhiên của các thiết
bị phụ thuộc, giá đỡ và che chắn được đặt trong
vùng lân cận trực tiếp của detector.
+ Bức xạ từ hoạt độ của bề mặt trái đất
(bức xạ trên mặt đất), phòng thí nghiệm hoặc
các cấu trúc khác.
+ Hoạt độ phóng xạ trong không khí bao
quanh detector.
Phông và vật liệu che chắn
+ Thành phần sơ cấp và thứ cấp của bức
xạ vũ trụ.
1.1. Hoạt độ phóng xạ của các vật liệu
thông thường
Phần lớn hoạt độ phóng xạ của các vật
liệu cấu trúc thông thường là do nồng độ thấp
của các nguyên tố phóng xạ tự nhiên thường
được coi là tạp chất. Các thành phần quan trọng
nhất là potassium-K, thorium-Th, uranium-U và
radium-Ra.
Kali tự nhiên chứa 0,012% K40, nó phân rã
với chu kỳ bán rã 1,26.109 năm qua sơ đồ phân
rã như hình 1.
Detector
ThS. NGUYỄN ANH HÒA
Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Gia Lai
Hình 1: Sơ đồ phân rã K40
Các bức xạ phát ra là hạt bêta với năng
lượng cực đại 1,314 MeV (hiệu suất 89%), tia
gamma năng lượng 1,460 MeV (hiệu suất 11%)
và tia X đặc trưng của argon-Ar theo sự bắt
electron. Detector gamma có thể ghi được tia
gamma năng lượng cao này trong phổ phông,
vì kali là thành phần phổ biến trong bê tông và
các vật liệu xây dựng khác.
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ32
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
Hình 2: Phổ gamma trên mặt đất thu được sau 170 giờ sử
dụng detector Ge 60 cm3 cách mặt đất 1 m.
Ngoài hoạt độ có nguồn gốc xuất hiện tự
nhiên. Phông cũng bao gồm một số các hoạt
độ do sản phẩm phân hạch mà bắt nguồn do
rơi lắng phóng xạ khí quyển từ các vụ thử vũ
khí đã qua. Trong hình 2 phần đóng góp đáng
chú ý nhất là cesium-Cs137, nhưng cũng thấy
được: zirconium-Zr95, niobium-Nb95, ruthenium-
Ru106, antimony-Sb125 và cerium-Ce144. Bảng 1
liệt kê hoạt độ riêng đo được đối với một số
vật liệu thông thường được sử dụng trong kết
cấu của các hệ thống detector. Một số vật liệu
như thủy tinh pyrex chứa hoặc là K hoặc là Th
như là thành phần thông thường, và do đó
có mức phông khá cao. Có thể giảm hoạt độ
phóng xạ do tạp chất gây ra bằng việc chọn
các mẫu có độ sạch cao. Vì vậy copper-Cu hoặc
magnesium-Mg được chế tạo bằng điện phân
thì thích hợp để sử dụng trong kết cấu của các
ống đếm phông thấp. Thép không rỉ thường có
mức phông thấp. Aluminum-Al thông thường
có chứa tạp chất U và Ra nên không thích hợp
để dùng để tạo ống đếm phông thấp. Đồng
thau có hoạt độ thấp nếu thành phần chì trong
nó thấp. Chất hàn điện và một vài vật liệu bảng
mạch có thể có hoạt độ tương đối cao, chúng
cũng đóng góp vào tốc độ đếm phông của
detector gamma.
Bảng 1: Hoạt độ phóng xạ tự nhiên trong
các vật liệu cấu trúc thông thường
Vật liệu 232Th (583 keV) 238U 40K
Nhôm (6061 từ Harshaw) 0,42 0,04 < 0,05
Nhôm (1100 từ Harshaw) 0,24 < 0,017 <0,06
Nhôm (1100 từ ALCOA) 0,08 < 0,026 < 0,11
Nhôm (3003 từ ALCOA) 0,10 < 0,026 0,56
Thép sạch (304) < 0.006 < 0,007 < 0,06
Thép sạch (304-L) < 0.005 < 0,005 < 0,02
Magiê (thanh) 0.06 < 0,04 0,1
Magiê (thỏi) < 0.01 < 0,002 < 0,02
Magiê (ϕ 4in, cao 4in từ Dow) < 0.005 < 0,002 < 0,02
Magiê (từ PGT) < 0.05 < 0,03 < 0,05
Hợp kim Bery và đồng < 0.02 < 0,06 < 0,2
Đồng (tấm) < 0.05 < 0,06 < 0,2
Cửa thủy tinh Pyrex 0,45 0,27 3,8
Cửa thạch anh < 0.018 < 0,018 < 0,07
Phân tử sieve 4,4 3,0 9,0
Ncopiene < 0.008 < 0,01 0,36
Cao su 0,12 1,0 2,0
Apiezon Q 4,5 4,5 2,7
Dây điện-3M < 0.04 < 0,06 < 0,1
Xi măng (Poriland) 0,25 1,3 4,5
Epoxy 0,006 0,01 0,19
Sơn 0,002 0,005 0,04
Th, U và Ra là thành viên của các dãy phân
rã dài chứa các sản phẩm con cháu mà phát ra
phổ tổ hợp của tia alpha, bêta và gamma. Trong
phổ gamma trên mặt đất như hình 2, hoạt độ
trong dãy Th: actinium-Ac228, Ra224, bismuth-
Bi212, lead-Pb212, thallium-Tl208; trong dãy U: Ra226,
Pb214, Bi214. Hoạt độ tự nhiên sống dài của U235
và K40 cũng là hiễn nhiên. Cũng có thể xác định
được một đỉnh nhỏ do beryllium-Be7 được sinh
ra bởi tương tác vũ trụ.
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 33
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
19Đối với ống đếm nhấp nháy, vỏ thủy tinh
của ống nhân quang và chân ống hoặc các vật
liệu cấu tạo khác cũng là nguồn phông tiềm
tàng. Ống làm bằng thạch anh thì có hoạt độ
thấp hơn đáng kể so với thủy tinh. Trước đây,
tạp chất K trong NaI là nguồn phông, nhưng kỹ
thuật chế tạo hiện đại ngày nay cho phép tạo
ra NaI nhiễm bẩn K không đáng kể. Bismuth
germanate (BGO) có thể cho thấy rõ phông
được cho bởi nhân phóng xạ Bi207 với chu kỹ
bán rã 38 năm, nó được sinh ra bởi tác dụng
của proton vũ trụ với Pb206 vì người ta thấy rằng
BGO thu được từ quặng chì không mang nhiễm
bẩn phóng xạ này. Đối với hệ detector Ge, thì
yêu cầu vật liệu detector phải rất sạch để đảm
bảo hoạt độ phóng xạ là thấp.
Việc che chắn được đặt quanh detector để
giảm phông khỏi tia vũ trụ hoặc bức xạ trên mặt
đất lại có thể tạo ra phông mức thấp. Bề mặt
che chắn cũng có thể là nguồn hoạt độ đáng kể
do rơi lắng phóng xạ hoặc nhiễm bẩn bề mặt
từ tai nạn sự cố. Do vậy, bề mặt bên trong của
các vật liệu che chắn phông thấp thường được
sand-blast (phun luồng cát để rửa sạch mặt
kim loại) trước khi khử bất kỳ hoạt độ phóng
xạ bề mặt nào. Việc sơn cũng có thể làm giảm
hoạt độ alpha bề mặt, mặc dù hoạt độ phóng
xạ của bản thân sơn cũng cần được kiểm tra
trước khi sử dụng.
1.2. Hoạt độ phóng xạ không khí
Lượng phông đo được có thể bắt nguồn
từ không khí xung quanh mang hoạt độ phóng
xạ hoặc dưới dạng lượng vết của khí phóng xạ
hoặc hạt bụi: radon-Rn222 và Rn220 là khí phóng
xạ sống ngắn, chúng là sản phẩm trong dãy
phân rã của U và Th có trong đất hoặc trong các
vật liệu cấu trúc của phòng thí nghiệm. Hoạt
độ của chúng có thể phụ thuộc đáng kể vào
thời điểm trong ngày và điều kiện khí tượng.
Để loại bỏ ảnh hưởng của radon vào phông thì
xung quanh detector có thể được chế tạo kín
và làm sạch khí radon tự do. Một vài phòng thí
nghiệm sử dụng khí nitrogen từ bình nitrogen
lỏng để cung cấp cho detector Ge. Bụi phóng
xạ có thể bao gồm hoạt độ phóng xạ tự nhiện
hoặc rơi lắng phóng xạ khí quyển và có thể bị
loại bỏ đáng kể bằng phin lọc đặt tại nơi cung
cấp không khi cho phòng thí nghiệm.
1.3. Bức xạ vũ trụ
Thành phần có ý nghĩa của phông detector
phát sinh do các bức xạ thứ cấp được sinh ra
bởi tương tác của các tia vũ trụ trong khí quyển
trái đất. Bức xạ vũ trụ sơ cấp có thể có nguồn
gốc từ thiên hà hay mặt trời, nó tạo nên các hạt
tích điện và các ion nặng với động năng rất cao.
Trong tương tác của chúng với khí quyển sẽ tạo
nên sự phân loại lớn các hạt thứ cấp gồm π và
μ mezon, e-, p, 0n
1 và photon có năng lượng trải
rộng hàng trăm MeV. Những bức xạ này tới mặt
đất và có thể tạo nên các xung phông trong
nhiều loại detector.
Vì động năng của chúng rất cao, nên các
hạt vũ trụ sơ cấp và thứ cấp có độ mất năng
lượng tương đối đặc biệt (-dE/dx) so với độ mất
năng lượng của electron nhanh. Do vậy, biên độ
xung tương ứng là nhỏ trong detector “mỏng”
để dừng các hạt tích điện nhưng không dừng
các electron. Tuy nhiên, trong các detector rắn
có chiều dày lớn như chất nhấp nháy NaI(Tl)
hoặc detector Ge, năng lượng đọng lại có thể
là nhiều MeV và lúc đó các xung tương ứng có
thể lớn so với các xung tín hiệu.
Các thành phần thứ cấp khác nhau là khác
nhau về độ cứng hoặc khả năng đâm xuyên
qua vật chất. Tại bề mặt trái đất, bức xạ vũ trụ
thứ cấp thường hướng xuống, để che chắn có
hiệu quả thì vật liệu che chắn được đặt trên
detector. Các notron nhanh từ các tương tác
của bức xạ vũ trụ (hay từ bất kỳ nguồn nào
khác) cũng có thể tạo nên các tia gamma thứ
cấp trong che chắn detector. Tia gamma được
sinh ra khi notron được làm chậm và bị hấp thụ,
khi trong chất che chắn có chứa hydro (chẳng
hạn bê tông). Vì vậy tia gamma 2,22 MeV có thể
được thấy trong phổ phông.
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ34
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G 2. Vật liệu che chắn
2.1. Vật liệu thông thường dùng cho che
chắn phông thấp
2.1.1. Chì
Bời vì chì có mật độ cao và số nguyên tử lớn
nên nó là vật liệu được sử dụng rộng rãi nhất
cho việc xây dựng che chắn detector. Tiết diện
hấp thụ quang điện chiếm ưu thế đối với năng
lượng gamma 0,5 MeV, và do đó tia gamma
tương đối cứng từ các nguồn phông ngoài (như
tia 1,46 MeV của K40) có thể bị hấp thụ có hiệu
quả. Vì có mật độ cao nên chiều dày của vài cm
chì sẽ làm giảm đáng kể phông cho detector
gamma. Chì có hiệu quả trong việc loại bỏ đáng
kể thành phần phông vũ trụ, nhưng không làm
giảm tốc độ đếm vì sự tích lũy bức xạ thứ cấp
do tương tác của tia vũ trụ với chì.
Chì được sử dụng rộng rãi dưới dạng “gạch
chì” hình chữ nhật trong việc xây dựng các vật
che chắn gamma đơn giản. Vấn đề từ các vết
nứt giữa hai viên gạch có thể khắc phục được
bằng việc xây dựng vật che chắn nhiều lớp
hoặc sử dụng gạch có dạng đặc biệt với bề mặt
khóa liên động. Chì cũng được đúc tương đối
dễ dàng thành các hình dạng rắn, tuy nhiên cần
cẩn thận trong quá trình đúc để tránh bị xốp
hoặc tạo ra các lỗ trống. Để việc đúc được thuận
lợi và chính xác người ta thường tạo ra các
khuôn đúc có kích thước và hình dạng mong
muốn. Một phương pháp khả dụng khác để tạo
ra các vật che chắn có mật độ thấp hơn, bằng
cách thêm chì vào plastic hoặc nhựa epoxy (là
loại nhựa có nhiều ưu điểm tốt như độ bám
dính cao trên bề mặt kim loại, có tính ổn định
hoá học, bền hoá chất), với vật liệu như thế có
thể tạo khuôn đúc và tạo dáng dễ dàng hơn.
Chì thường có hoạt độ tự nhiên đáng kể
do có chứa các nhiễm bẩn mức thấp, và do đó
chì được tinh chế đặc biệt hoặc là chì được tái
chế từ nguồn chì cũ thì hay được sử dụng để
tạo ra vật che chắn dùng trong các ứng dụng
phông thấp. Khi vừa được tinh chế, chì có thể
chứa lượng đáng kể Pb210, là sản phẩm phân rã
của Ra226. Đồng vị này phân rã với chu kỳ bán rã
20,4 năm, nên các mẫu chì có tuổi nhiều thập
niên thì sẽ gần như không còn hoạt độ này.
Chì đã tinh chế cũng có thể có hoạt độ
phóng xạ do tạp chất từ rơi lắng phóng xạ khí
quyển. Phông khác có thể sinh ra từ con cháu
của thorium-Th hoặc tạp chất phosphorous-P
phổ biến trong antimony-Sb là hợp kim của chì.
Một số mẫu chì có hoạt độ cao như 1,5 Bq/g,
nhưng với chì sạch thì hoạt độ thấp hơn một
hoặc hai bậc về độ lớn.
2.1.2. Thép
Sắt hoặc thép cũng là vật liệu che chắn
gamma phổ biến, và thường được sử dụng
trong trường hợp cấu hình che chắn có kích
thước lớn, nếu chỉ dùng chì thì rất tốn kém.
Trong trường hợp này thì lớp thép ở ngoài và
lớp chì bên trong là rất hiệu quả. Sắt hoặc thép
được lấy từ các tàu sản xuất từ trước những năm
1950 thì thường được sử dụng để chế tạo các
vật che chắn phông thấp. Sắt hoặc thép được
lấy từ các tàu sản xuất sau những năm 1950 thì
có hoạt độ mức thấp nào đó vì nhà sản xuất đã
đưa vào Co60 để kiểm tra độ ăn mòn.
Vì số nguyên tử và mật độ sắt hoặc thép
(52 và 7,86 g/cm3) là thấp hơn nhiều so với chì
(202 và 11,34 g/cm3) nên trong các ứng dụng
đếm phông thấp thì cần chiều dày sắt hoặc
thép cỡ vài chục cm.
2.1.3. Thủy ngân
Mặc dù tương đối đắt nhưng thủy ngân là
vật liệu che chắn rất hiệu quả trong trường hợp
đếm phông thấp. Có thể làm sạch nó ở mức độ
cao qua việc chưng cất và do đó nó có hoạt độ
phóng xạ dư ở mức thấp. Nó thường được sử
dụng như là thành phần trong cùng của các
che chắn gamma lớn. Bởi vì thủy ngân có dạng
lỏng ở nhiệt độ phòng nên nó được giữ trong
các công tai nơ thích hợp, thường được chế tạo
từ chất lucite (là polymer tổng hợp của methyl
methacrylate, đôi khi được gọi là thủy tinh
acrylic, vật liệu có hoạt độ phóng xạ thấp), mà
có thể được định dạng để làm khớp các đường
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 35
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
19viền phía ngoài của detector. Vì mật độ của thủy
ngân (13,55 g/cm3) lớn hơn mật độ của chì và
số nguyên tử thì giống nhau (tùy đồng vị), nên
khi che chắn tia gamma nếu dùng thủy ngân
dày của vài cm thì cho hiệu quả lớn hơn.
2.1.4. Bê tông
Bê tông có giá thành thấp nên nó thường
được sử dụng trong hầu hết các vật che chắn
có thể tích lớn. Tuy nhiên hoạt độ của nó tương
đối cao vì trong thành phần của nó có K40, U
và các sản phẩm rơi lắng phóng xạ. Do đó, nó
được sử dụng như là thành phần bên ngoài
của vật che chắn, với hoạt độ của bản thân nó
được che chắn bởi các lớp thép, chì hoặc vật
liệu che chắn khác có hoạt độ thấp hơn ở bên
trong. Hiệu quả khác nhau của chiều dày bê
tông đối với việc làm giảm thành phần phông
vũ trụ được minh họa ở hình 3. Nếu các phòng
thí nghiệm được bố trí trong các nhà cao tầng
thì sẽ lợi dụng được các sàn nhà bê tông để làm
giảm đáng kể các thành phần phông vũ trụ.
Mặc dù bê tông gồm các thành phần chủ
yếu là nước và các nguyên tố có số khối nhỏ,
nhưng bê tông baryte (bê tông nặng sản xuất
với barit) chứa phần trăm đáng kể các thành
phần nặng, và do đó nó hiệu quả hơn nhiều
trong che chắn gamma.
2.2. Che chắn neutron
Việc che chắn neutron là quan trọng, bất
kỳ detector nào được thiết kế để đếm neutron
thì phải được che chắn đối với nguồn phông
ngoài để tăng tỉ số tín hiệu-phông. Tuy nhiên,
các loại detector khác, gồm các hệ đếm gamma
phông thấp cũng có thể bị ảnh hưởng bởi
phông neutron nhanh. Phần lớn độ nhạy xuất
hiện vì các tia gamma được tạo ra do sự hấp
thụ của neutron trong detector hoặc các vật
liệu bên cạnh. Việc che chắn neutron rõ ràng là
quan trọng nhất là xung quanh các thiết bị tạo
neutron, những thành phần neutron có thể đo
được cũng có mặt trong phông tự nhiên do các
sản phẩm thứ cấp của tương tác vũ trụ.
Các nguyên lý khác nhau hoàn toàn áp
dụng cho việc chọn lựa các vật liệu che chắn
neutron như đã được so sánh với vật liệu che
chắn gamma. Quan trọng nhất là làm chậm
nhanh các neutron xuống các năng lượng thấp,
mà ở đó nó có thể dể dàng bị bắt trong vật liệu
có tiết diện hấp thụ cao. Chất làm chậm hiệu
quả nhất là các nguyên tố có số nguyên tử thấp,
và do đó, vật liệu chứa hydro là thành phần
chính của hầu hết các vật che chắn neutron.
Trong ứng dụng này nước, bê tông và paraphin
là những nguồn che chắn khối rẻ tiền. Bởi
vì quãng chạy tự do trung bình của neutron
nhanh là cỡ hàng chục cm trong các vật liệu
như vậy, nên chiều dày một mét hoặc lớn hơn
là cần thiết cho việc làm chậm hiệu quả đối với
hầu hết các neutron nhanh.
Một khi neutron được làm chậm, nó có
thể bị khử qua phản ứng bắt thích hợp. Sự hấp
thụ này có thể là có sự có mặt của hydro đối với
nước làm chậm, mặc dù tiết diện bắt là tương
Hình 3: Phổ phông từ detector nhấp nháy NaI(Tl) 7,62cm x
7,62cm được che chắn paraphin và 10,2cm chì. Cho thấy sự sai
khác nhau theo chiều dày của bê tông. Dùng paraphin để ngăn
tương tác của notron với hydro tạo đỉnh gamma 2,22 MeV.
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ36
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G đối nhỏ. Do đó, neutron nhiệt có thể khuếch
tán một khoảng cách thấy rõ trước khi bị bắt,
làm giảm tính hiệu dụng của vật che chắn. Hơn
nữa, việc bắt hydro dẫn đến tạo ra tia gamma
2,22 MeV, điều này thực sự không mong muốn
trong nhiều loại detector. Do đó, thành phần
thứ hai thường được sử dụng trong che chắn
neutron, hoặc chộn lẫn đồng nhất với chất làm
chậm, hoặc là có mặt như một lớp hấp thụ gần
bề mặt. Vật liệu này được lựa chọn để có tiết
diện bắt neutron cao, nên các neutron đã làm
chậm sẽ bị hấp thụ một cách ưu tiên trong vật
liệu này.
Trong che chắn neutron, cùng với việc làm
chậm là khử nó. Vì vậy, boron-B và lithium-Li
là các thành phần phổ biến của vật che chăn
neutron. Phản ứng 10B(n,α) có tiết diện bắt cao
tại năng lượng thấp, và có thể dễ dàng đưa B
vào paraphin và các vật liệu khác. Tuy nhiên,
phần lớn các phản ứng bắt dẫn đến trạng thái
kích thích trong các hạt nhân sản phẩm, mà
sau đó phân rã bằng việc phát ra tia gamma
0,48 MeV. Do đó, đối với những ứng dụng nhạy
đối với phông gamma thì tốt hơn là thay thế B
bằng Li. Bởi vì phản ứng 6Li(n,α) biến đổi trực
tiếp thành trạng thái cơ bản của sản phẩm và
không phát ra tia gamma.
Hiệu quả của việc tổ hợp polyethylene với
B hoặc Li trong việc che chắn neutron nhanh
được so sánh với graphit và paraphin được chỉ
ra trong hình 4. Từ hình này cho thấy hỗn hợp
của polyethylenn và các chất hấp thụ nhiệt là
có hiệu quả đáng kể trên một đơn vị chiều dày
so với các vật liệu còn lại.
Hình 4: Tính hiệu dụng tương đối của các vật liệu che chắn
khác nhau đối với neutron 2,6 MeV được chỉ thị bởi thông
lượng neutron nhiệt đối với chiều dày khác nhau.
Cadmium cũng được ứng dụng rộng rãi
như là chất hấp thụ neutron nhiệt, do tiết diện
hấp thụ của nó cao. Lớp mỏng 0,5 mm là vật
hấp thụ rất hiệu quả đối với neutron nhiệt,
nhưng phản ứng (n,γ) tiếp theo cũng sẽ thêm
vào phông gamma thứ cấp./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] R.R. Finck, K. Liden and R.B.R. Persson, Nuclear
Instruments and Methods, 135 (1976), p.550.
[2] D.C. Camp, C. Gatrousis, L.A. Maynard, Nuclear
Instruments and Methods, 117 (1974), p.189.
[3] J.H. Kaye, F.P. Brauer, J.E. Fager, H.G. Rieck Jr,
Nuclear Instruments and Methods, 113 (1973), p.5.
[4] S.C. Gujrathi, J.M. D’Auria, Nuclear Instruments and
Methods, 100 (1972), p.445.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9_9812_2207515.pdf