Phê bình sinh thái qua một số tác phẩm thơ đương đại

Tài liệu Phê bình sinh thái qua một số tác phẩm thơ đương đại: KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 3 S Ố 0 6 N Ă M 2 0 19 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do nghiên cứu Trong kỉ nguyên hiện đại, đồng hành cùng ngành khoa học phát triển là nền kinh tế tăng trưởng, nhờ đó chất lượng sống và đời sống tiện nghi của con người được nâng lên đáng kể nhưng cái giá của sự phát triển và thách thức mang tính toàn cầu là môi trường sống ngày càng bị tàn phá, con người đang đứng trước nhiều mối đe dọa từ thời tiết khí hậu, nguồn thực phẩm, bệnh tật, thiên tai... Vấn đề môi trường sinh thái là vấn đề sống còn của nhân loại và trở thành mối quan tâm hàng đầu của các ngành khoa học và văn chương cũng cùng chung sứ mệnh nên từ nửa cuối thế kỉ XX, trên thế giới đã xuất hiện xu hướng sáng tác mới: Văn học sinh thái và ngành phê bình sinh thái được ra đời. Trong dòng chảy chung của văn chương nhân loại, Việt Nam chúng ta cũng xuất hiện văn chương sinh thái và phê bình sinh thái. Tuy còn khá non trẻ nhưng thời gian gần đây xu hướng vă...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 471 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phê bình sinh thái qua một số tác phẩm thơ đương đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 3 S Ố 0 6 N Ă M 2 0 19 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do nghiên cứu Trong kỉ nguyên hiện đại, đồng hành cùng ngành khoa học phát triển là nền kinh tế tăng trưởng, nhờ đó chất lượng sống và đời sống tiện nghi của con người được nâng lên đáng kể nhưng cái giá của sự phát triển và thách thức mang tính toàn cầu là môi trường sống ngày càng bị tàn phá, con người đang đứng trước nhiều mối đe dọa từ thời tiết khí hậu, nguồn thực phẩm, bệnh tật, thiên tai... Vấn đề môi trường sinh thái là vấn đề sống còn của nhân loại và trở thành mối quan tâm hàng đầu của các ngành khoa học và văn chương cũng cùng chung sứ mệnh nên từ nửa cuối thế kỉ XX, trên thế giới đã xuất hiện xu hướng sáng tác mới: Văn học sinh thái và ngành phê bình sinh thái được ra đời. Trong dòng chảy chung của văn chương nhân loại, Việt Nam chúng ta cũng xuất hiện văn chương sinh thái và phê bình sinh thái. Tuy còn khá non trẻ nhưng thời gian gần đây xu hướng văn học này đã gặt hái một số thành tựu đáng quý và còn một khoảng trống lớn chờ đợi người nghiên cứu để góp phần thúc đẩy xu hướng văn học sinh thái phát triển phục vụ Phê bình sinh thái qua một số tác phẩm thơ đương đại ĐẶNG VĂN DU Trường Trung học phổ thông Pleiku, tỉnh Gia Lai cộng đồng. Nhận thức vai trò quan trọng của văn chương sinh thái nên các trường đại học ở châu Âu đã bắt buộc giảng dạy môn Văn học và sinh thái. Trường học phổ thông Việt Nam chúng ta cũng nên cập nhật lĩnh vực kiến thức này theo quan điểm: Giáo dục nhà trường phải gắn với cuộc sống, học đi đôi với hành, đó là lí do mà đề tài này được chọn. Văn học sinh thái đã xuất hiện trong các thể loại nhưng kịch thì còn im lặng. Thơ và truyện đã xuất hiện những thành tựu đáng kể; như truyện của Nguyễn Ngọc Tư, Võ Diệu Thanh, Trần Duy Phiên... thơ thì có Mai Văn Phấn, Đặng Bá Tiến, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Văn Toan... Chúng tôi chỉ lựa chọn tác phẩm thơ tiêu biểu cho xu hướng này để thuận lợi hơn trong việc nghiên cứu. 2. Mục tiêu nghiên cứu Phổ biến kiến thức cơ bản về văn chương sinh thái trong học sinh phổ thông Đánh thức trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái, khôi phục cân bằng sinh thái; thay đổi tập quán sinh hoạt, phương thức sống; thay đổi tư duy nhận thức mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên; xây dựng thái độ tôn trọng người mẹ thiên nhiên trong độc giả. KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN4 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Khái luận về văn học sinh thái và phê bình sinh thái 1.1. Khái luận về văn học sinh thái Mỗi nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác nhau về văn học sinh thái, thừa hưởng từ thành quả của người đi trước Giáo sư Vương Nặc (Trung Hoa) định nghĩa tương đối hoàn chỉnh: “Văn học sinh thái là loại văn học lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất để khảo sát và biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh thái”. Còn Vương Nhạc Xuyên thì cho rằng: “Theo tôi, cái gọi là văn học sinh thái chủ yếu là chỉ những tác phẩm mẫn cảm góp phần phơi bày nguy cơ sinh thái thế giới hiện đại, phê phán quan điểm giá trị chủ nghĩa nhân loại trung tâm, phản tỉnh đối với nền văn minh hiện đại dẫn đến nguy cơ sinh thái. Văn học sinh thái không coi con người là trung tâm của thế giới tự nhiên, cũng phản đối coi lợi ích của con người là thước đo tuyệt đối phán đoán giá trị tự nhiên”. Từ đó có thể hiểu rõ tác phẩm văn học sinh thái lấy tự nhiên làm đối tượng trung tâm, quan tâm đến số phận của nó ảnh hưởng đến con người và con người ảnh hưởng đến tự nhiên, phơi bày thực trạng và lên tiếng cảnh báo và đánh động ý thức bảo vệ tự nhiên. Một tác phẩm có thể không có hình tượng tự nhiên nhưng có góc nhìn sinh thái, tư tưởng sinh thái thì vẫn xem là văn học sinh thái. Tư tưởng ấy là trách nhiệm sinh thái, phân tích căn nguyên đạo đức phản sinh thái, nhìn nhận sinh thái là một giá trị ngang hàng với các giá trị con người... nói chung là lí tưởng sinh thái. 1.2. Khái luận về phê bình sinh thái Nhà phê bình sinh thái hàng đầu Cheryll Glotfelty nói: “Phê bình sinh thái là phê bình bàn về mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên... Phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu văn học”. Nguyên tắc của phê bình sinh thái là lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm tư tưởng chủ đạo và lập trường là đạo đức sinh thái, nhìn thế giới tự nhiên trong văn bản bằng ý thức sinh thái. Chú trọng đến sự hài hòa giữa con người với tự nhiên, thống nhất quyền tồn tại và phát triển trong sự tương hỗ giữa hai sinh mệnh, từ đó thay đổi quan niệm về cách nhìn nhận thế giới, xây dựng ý thức sinh thái, tinh thần sinh thái. Phê bình sinh thái thực chất là phê bình đạo đức sinh thái. Môi trường bị phá hoại là do hệ thống đạo đức của loài người, đặt bên cạnh chỉ tiêu phát triển kinh tế thì chỉ tiêu bảo vệ môi trường còn xem nhẹ, thậm chí vì mục tiêu kinh tế mà có Chính phủ đã hi sinh môi trường. Hệ thống luật pháp nhiều khi chưa đủ tính răn đe trước hành động khai thác tài nguyên vượt mức cho phép. Do đó cần bồi dưỡng, khơi dậy năng lực sinh thái nhân văn trong cộng đồng. Phê bình sinh thái nhất thiết phải kết hợp văn học với các ngành khoa học khác: Sinh vật, địa lí, lịch sử, đạo đức... thậm chí là thần học, để có nhiều góc nhìn mới mẻ, làm phong phú nội dung và thuyết phục. Như các mục tiêu phê bình khác, phê bình sinh thái cũng lấy tác phẩm văn học làm đối tượng nghiên cứu chính, phân tích phát hiện vấn đề thông qua hệ thống hình tượng và các yếu tố thẩm mĩ, nhờ đó mới thấy giá trị sinh thái trong giá trị thẩm mĩ của tác phẩm. 2. Phê bình một số tác phẩm thơ đương đại viết về sinh thái và ý nghĩa của nó 2.1. Sự xuất hiện của xu hướng văn chương sinh thái Việt Nam Từ tự phát đến tự giác... Văn chương nói chung và thơ ca nói riêng, hấp dẫn bạn đọc một phần bởi tiếng nói hồn KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 5 S Ố 0 6 N Ă M 2 0 19nhiên trước cuộc sống. Tiếng nói ấy được bật lên khi tâm hồn va chạm với những vấn đề đau đớn của cuộc đời, những trằn trọc suy tư về phận mình, về phận người, về thế giới xung quanh. Thế giới vốn bình yên bỗng dưng bị sụp đổ, môi trường bị tàn phá, thiên tai dữ dội hơn... Bức xúc và đau đớn, lo âu và bất bình, mẫn cảm với vấn đề môi trường có ý nghĩa toàn cầu, cũng có nghĩa là tính mệnh con người bị đe dọa, những tiếng nói tự phát bằng văn nghệ đã cất lên. Không cần chịu ảnh hưởng hay học tập từ nước ngoài, tự thân văn học Việt Nam đã vận động và hình thành xu hướng mới: Văn chương sinh thái. Bài thơ Xin đổi kiếp này của Nguyễn Bích Ngân (14 tuổi) là một minh chứng. Nhờ đó văn chương sinh thái Việt Nam hòa chung dòng chảy với văn chương thế giới đương đại. Đến khi lí luận phê bình sinh thái được khởi xướng từ Hoa Kỳ ở thập niên 90 của thế kỉ XX, lan rộng ảnh hưởng sang các nước châu Âu và châu Á trong đó có Việt Nam thì hoạt động sáng tác chuyển sang giai đoạn tự giác và gặt hái những thành công vượt trội với đội ngũ nhà văn đông đảo. Văn xuôi có những tên tuổi như Nguyễn Huy Thiệp, Lê Văn Thảo, Nguyễn Ngọc Tư, Võ Diệu Thanh, Trương Gia Hòa... Thơ ca thì có Mai Văn Phấn, Đặng Bá Tiến, Trần Anh Thái, Đỗ Hồng Ngọc... Con đường phía trước... Phê bình sinh thái không chỉ giúp người đọc lĩnh hội tác phẩm văn chương ở góc nhìn mới theo lập trường sinh thái mà còn đưa ra quan niệm mỹ học sinh thái - cái đẹp của tự nhiên không phụ thuộc vào lợi ích của con người, mỹ học này sẽ tác động lại hoạt động sáng tác, mở rộng chân trời sáng tạo và hứa hẹn những điều kì diệu, bất ngờ ở tương lai. Nhà thơ Mai Văn Phấn quan niệm: “Thơ ca nhằm khai mở tiếng nói mới, hoặc tìm lại thuở hoàn nguyên đã mất”. Tiếng nói mới ấy là một xu hướng sinh thái, phản ánh quy luật vận động phát triển của văn chương. 2.2. Nội dung đề tài, cảm hứng và tư tưởng chính của các bài thơ sinh thái tiêu biểu Đề tài chính của văn chương sinh thái là thiên nhiên - môi trường. Thiên nhiên đã xuất hiện từ lâu trong văn chương nhưng đó là đối tượng thẩm mĩ, cái hình xác bên ngoài, nếu có sự sống linh hồn riêng thì vẫn chưa quan hệ tương sinh với con người như trong văn chương sinh thái. Có khi thiên nhiên chuyển sang sinh thái tinh thần cho con người nương náu ẩn dật: Núi láng giềng, chim bầu bạn / Mây khách khứa, nguyệt anh tam (Nguyễn Trãi). Thiên nhiên cũng còn là môi trường khắc nghiệt trong thế giới vô tri: Sương như búa, bổ mòn gốc liễu / Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô (Chinh phụ ngâm). Phần lớn thiên nhiên trong thơ cũ là hình tượng ẩn dụ, là đối thể trữ tình theo quan niệm Thiên - Nhân nhất thể của phương Đông: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Nguyễn Du). Còn thiên nhiên trong văn chương sinh thái là hình tượng độc lập, được khám phá với sự sống riêng, những vận động nội tại riêng, chuẩn thẩm mĩ riêng mà không lệ thuộc vào ý chí con người: Thần rừng không bao giờ ngủ (Nguyễn Văn Toan) và Trái đất cũng biết rùng mình (Đỗ Hồng Ngọc). Trong thơ Trần Anh Thái, khi con người bổ chiếc rìu vào đất để khai phá thiên nhiên vì sự sinh tồn của nòi giống thì biển thức giấc gào lên giận dữ: “Sóng gào biển động”; “Sóng gió bập bùng”; “Sóng đổ dưới chân người tê buốt”. Có thể nói tri thức khoa học liên ngành giúp nhà thơ có cái nhìn mới về thiên nhiên, hình tượng thiên nhiên đã và đang nổi loạn trước sự tàn phá của con người, khác hẳn với loại thiên nhiên vô tri khắc nghiệt của thơ xưa. Từ đó, văn chương sinh thái giúp thay đổi quan niệm và ý thức về môi trường. Trong đề tài sinh thái, thiên nhiên là hình tượng chính như một chủ thể tự biểu hiện: Rừng, biển, sông, núi, cây cỏ... bị tàn phá nên luôn ở trong trạng thái nổi giận và mang một sự sống khác hẳn trong thơ xưa. Mai Văn Phấn cho rằng: “Mục đích của thi ca là tạo lập một từ trường, để trong không gian đặc biệt ấy, tất KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN6 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G cả từ đồ vật đến linh hồn đều được cất tiếng nói, được công bằng như nhau trong một trật tự mới”. Nó là hình tượng sinh thái chỉnh thể bị phá vỡ cấu trúc nên nảy ra tai họa như một lời thông báo. Nhà văn chỉ nói hộ nó như thay lời cho nhà khoa học: Trái đất cũng đang rùng mình tự hỏi vì sao những ngọn núi cứ triền miên đổ sập? Đó là vì mũi đao cứ xoáy sâu vào lòng đất (Đỗ Hồng Ngọc) và tất nhiên là do rừng bị phá, bị trọc hóa. Nếu theo thi pháp cũ thì thiên nhiên trong thơ sinh thái còn là đối thể trữ tình, cái tôi trữ tình cảm nhận đối tượng sinh thái bị phá vỡ với niềm cảm thông sâu xa, những đau đớn, lo âu khắc khoải để truyền đi thông điệp về tai họa môi trường: Xin đổi kiếp này - Nguyễn Bích Ngân, Chiều trên dòng Vu Gia - Nguyên Cẩn, Tiếng tù-và Ma Kông - Đặng Bá Tiến... Và đối tượng này vẫn được thể hiện là một sinh thể riêng có linh hồn riêng cần tôn trọng. Từ đề tài cho thấy chủ đề sinh thái là thái độ quan tâm, tôn trọng môi trường - trái đất, là ý thức bảo vệ môi sinh và phải nhận thức con người và trái đất song hành quyền lợi và tồn tại: Ta nương tựa vào nhau Nay đã có vẻ đã không cần nhau nữa! Đất rùng mình phận đất... Người rùng mình phận người... (Đỗ Hồng Ngọc) Theo Laurence Buell (Anh): Văn học sinh thái là văn học viết vì một thế giới lâm nguy” nên cảm hứng cơ bản của thơ sinh thái là cảm hứng phê phán. Phê phán thói cẩu thả, vô đạo, vô ơn của con người gây nên thảm họa sinh thái. Bao nhiêu cảm xúc giận dữ, ai oán, đau đớn, dặn vặt, buồn thương xa xót... Rừng xưa, giờ đã về đâu Hỏi ai đây giữa ngàn lau bạc đầu? Ngàn lau xao xác u sầu: Rừng xưa đã hóa nỗi đau nhân tình... (Trần Bá Tiến) Nhưng tất cả đều dồn vào chiếc túi phê phán: ...Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần cứ triền miên hết ngày này sang ngày khác Vì sao núi lửa cứ phun trào? Vì sao băng tan vì sao bão táp? Vì sao trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát như món đồ chơi của một đứa trẻ đang giận dữ? Vì sao và vì sao? (Đỗ Hồng Ngọc) Từ cảm hứng và chủ đề, thơ sinh thái nói riêng và văn chương sinh thái nói chung góp tiếng nói phản biện để lay gọi, thức tỉnh thái độ, thay đổi tư duy của con người về môi trường. Có thể nói cảm hứng là điểm gặp gỡ của văn học sinh thái với văn học hiện thực phê phán. 2.3. Vài nét về thi pháp sinh thái qua các bài thơ tiêu biểu a. Không gian nghệ thuật sinh thái là không gian hẹp. Biển cả mênh mông nhưng cá vẫn chết hàng loạt vì ô nhiễm hóa chất và rác thải; sông cạn dòng thổi cát vào đồng khô; rừng bị thu hẹp dần, núi sạt lở nên bầy nai ngơ ngác bị đẩy ra khỏi môi trường của nó: Lời tha thiết vọng từ thăm thẳm núi Bầy hươu sao tán loạn chạy trên đồng (Nguyên Cẩn) Cánh đồng cũng rướm máu chiều loang vì bị cắt đi cho những công trình... Nhiều không gian sinh thái tự nhiên chỉ còn trong nỗi nhớ xa xăm: Còn đâu những tháng ba trời đất thơm lừng trăm thứ hoa rừng đua nhau khoe sắc ong đập cánh cho ngợp trời phấn rắc  mật ngọt như mưa dưới tán biếc ròng ròng Còn đâu điệu múa xòe của những bầy công cánh rừng bên sông chỉ còn đất trống KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 7 S Ố 0 6 N Ă M 2 0 19lau phơ phất một màu tang trắng hồn cẩm, hương... cũng hết gốc nương nhờ Nơi đàn voi quần tụ dưới trăng mơ giơ những đống xương khô tàn lạnh mùa săn voi chỉ còn ảo ảnh trong hoài niệm hằng đêm lại vỗ cánh bay về (Đặng Bá Tiến) Rừng xưa đã mất, muôn loài vắng bóng, chỉ còn lại một thứ duy nhất là màu trắng khăn tang của hoa lau. Còn đau xót, mất mát nào hơn! Không gian hẹp này cũng là không gian ô nhiễm, bức bách, phản ánh thế giới sinh thái trên đà rạn vỡ gần như không thể cứu vãn. Từ đó ảnh chiếu về sự sa đọa đạo đức con người: Nhoài lên mỏm đá sắc Thân thể gió trầy xước Máu của gió là mưa Nắng nhỏ xuống Núi cuốn nụ hôn lên cao Cụm mây xám đúc thành khối (Mai Văn Phấn) Bầu khí quyển ô nhiễm đến mức cơn gió đi ngang qua cũng bị cào xé rồi thổ huyết. Núi đá trần trụi lạnh lùng chém bất cứ vật gì bay ngang qua và dần hóa thành núi lửa phun khói độc muôn đời không tan. Hình tượng vận động thật khốc liệt...đầy dự báo. Hệ quả của không gian tự nhiên ấy đẩy không gian con người cũng bó hẹp trong bốn bức tường bê tông, cả cộng đồng được dồn sống trong những tổ ong là những tòa chung cư chọc trời ngột ngạt: Khói bụi ngày đêm, ngột ngạt trưa hè (Nguyễn Bích Ngân). Cấu trúc sinh thái hài hòa với con người bị phá vỡ. Vì thương nhớ môi trường nên con người nghĩ ra cảnh giả, biển giả, ao giả, cây giả...nhưng làm sao thay thế. Con người đô thị thật tội nghiệp. Vậy, chính sách đô thị hóa nông thôn có còn đúng đắn? Những tiện nghi vật chất có cứu sống muôn loài, những viên thuốc kháng sinh có thay thế mật ong rừng? Đôi khi những viên thuốc ấy cũng được lấy từ rừng. Đó là không gian vật chất, không gian sinh thái. Bên cạnh ấy còn có không gian tinh thần - không gian tâm hồn thi nhân. Được kết nối và cảm thông với sinh thái nên không gian tinh thần nếu không ngột ngạt như lời con hổ trong vườn bách thú (Nhớ rừng, Thế Lữ) thì cũng trống rỗng: Bầy thây ma nhảy múa man dại quanh thần Người chỉ còn một mình trên đỉnh ngôi nhà hoang tàn (Nguyễn Văn Toan) Cảm thức không gian sinh thái nên thời gian nghệ thuật gần như vắng bóng, nếu có thì chỉ là thời gian quá khứ giả định, một thời gian hồi niệm lấp lánh những hình ảnh mĩ lệ; nó được nhắc đến chủ yếu để đối chiếu với thời gian hiện tại, do đó thời gian nghệ thuật thơ sinh thái là phi thời gian hay đồng chất với không gian. b. Cái tôi hướng ngoại Phong trào Thơ Mới (1932-1942) có thể nói là một cuộc cách mạng thơ, thay cái ta của thơ trung đại bằng cái Tôi, cái Tôi bản ngã được khai thác tối đa thế giới tinh thần phong phú và đòi được khẳng định giá trị cá nhân. Đó là cái Tôi hướng nội còn thơ sinh thái là cái tôi hướng ngoại. Một cái tôi mở rộng các giác quan để thấu cảm với muôn loài (Nguyễn Bích Ngân...), cái tôi trải ra ba chiều không gian để lắng nghe gió rít, núi thở, sông than (Mai Văn Phấn, Trần Anh Thái, Đỗ Hồng Ngọc...). Nhờ tư tưởng sinh thái nâng đỡ mà cái tôi (cũng là tiếng nói của cái ta) lớn lao mang tầm vóc thời đại. c. Chất bi ca Từ cảm hứng phê phán mà các tác phẩm thơ đều đượm chất bi ca, dư âm của mỗi tác phẩm là nỗi buồn đau khắc khoải, là niềm sám hối của lương tri con người. Chất bi ca này biểu hiện qua những hình ảnh sống động giàu tính khái quát: Đồng ngập KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN8 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G mặn, triều cường, núi lửa, sóng thần, cơn mưa đen, mưa máu... dội lên từng hình ảnh sinh thái là một niềm đau nhức nhối: Tôi ngồi thương cội hương già / Ngỡ cưa còn siết trên da thịt mình! (Trần Bá Tiến) để từ đó bật lên niềm khát vọng: Tôi nhận về bao nhiêu? Tôi lấy gì trả lại? Tôi phá hoại những gì? Tôi đã từng hối cải? Xin đổi được kiếp này...! Trời đất có cho tôi ??? (Nguyễn Bích Ngân) Chất bi ca còn biểu hiện qua giọng điệu. Mỗi tác giả có một giọng điệu riêng. Dửng dưng như Mai Văn Phấn, Nguyễn Văn Toan; dằn vặt như Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Bích Ngân... nhưng giọng chung là buồn đau da diết mà tiêu biểu Đặng Bá Tiến và Nguyên Cẩn. Đó là điệu hồn chung của các nhà thơ dù giọng điệu bên ngoài có khác nhau: Biết nói gì cho con khi tắt niềm vui Dòng điện sáng là rừng xưa vĩnh biệt Lời tha thiết vọng từ thăm thẳm núi Bầy hươu sao tán loạn chạy trên đồng Đêm qua ai khóc - không chỉ một dòng sông Riêng Vu Gia nhớ Thu Bồn đứt ruột Rượu Hồ Đào sao lại ném sông trôi? (Nguyên Cẩn) Giọng điệu buồn đau đắng đót ấy đã phản ánh thời đại bi kịch của chúng ta: Khoa học phát triển nhưng bệnh tật thì nhiều hơn, có bệnh bị trẻ hóa. Có thể nói nội hàm văn học sinh thái có ý nghĩa giáo dục bằng con đường phản cảm. Văn học phải cất lên tiếng nói đánh động ý thức, thay đổi quan niệm về sinh thái để cân bằng bảo vệ môi sinh và thời gian không chờ đợi. III. TỔNG KẾT, ĐỀ NGHỊ Văn chương sinh thái nói chung và thơ ca sinh thái nói riêng đã xuất hiện tại Việt Nam gần ba thập niên trở lại đây, đạt được những thành tựu cơ bản về nội dung tư tưởng song về thi tứ và bút pháp thì vẫn còn vận động theo quỹ đạo của văn chương nói chung, đã có những cách tân trong nghệ thuật biểu hiện nhưng chưa tạo ra diện mạo riêng, khả năng lôi cuốn độc giả còn hạn chế. Trong cuốn Lược sử loài người, tác giả Yuval Noah Harari luôn đau đáu một câu hỏi: Liệu người hiện đại có sung sướng bằng người trung đại hay cổ đại? Câu trả lời là chưa chắc. Vậy nhân loại nên chăng giảm bớt các chỉ số phát triển kinh tế để cân bằng văn hóa và phục hồi sinh thái. Bởi cơ sở khoa học xã hội cho biết là của cải được làm ra chỉ rơi vào túi của người giàu, mà họ chỉ chiếm tỷ lệ 20% dân số, nhưng toàn bộ ít nhiều đều là nạn nhân của môi trường. Cuối cùng đấu tranh bảo vệ môi trường cũng chính là bảo vệ ngôi nhà của chúng ta, bảo vệ tuổi thọ của trái đất./. TƯ LIỆU THAM KHẢO 1. Nhiều tác giả (2018), Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam Bộ, NXB Văn hóa văn nghệ, Hà Nội 2. Dương Thị Phú (2018), Thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn sinh thái. Luận văn thạc sĩ 3. Vương Nhạc Xuyên, (Đỗ Văn Hiểu dịch, 2016). Văn học sinh thái và lí luận phê bình sinh thái. 4. Trần Đình Sử. Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nay. (khoavanhoc-ngonngu.edu.vn) 5. Hải Ngọc. Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học. (khoavanhoc-ngonngu.edu.vn) 6. Mai Văn Phấn (1997), Tập thơ Bầu trời không mái che, NXB. Hải Phòng. 7. Đặng Bá Tiến (2017) Tập thơ Hồn cẩm hương, NXB Hội Nhà văn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf34_1699_2207540.pdf
Tài liệu liên quan