Tài liệu Phê bình sinh thái qua một số tác phẩm thơ đương đại: KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 3
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
19
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do nghiên cứu
Trong kỉ nguyên hiện đại, đồng hành cùng
ngành khoa học phát triển là nền kinh tế tăng
trưởng, nhờ đó chất lượng sống và đời sống
tiện nghi của con người được nâng lên đáng kể
nhưng cái giá của sự phát triển và thách thức
mang tính toàn cầu là môi trường sống ngày
càng bị tàn phá, con người đang đứng trước
nhiều mối đe dọa từ thời tiết khí hậu, nguồn
thực phẩm, bệnh tật, thiên tai... Vấn đề môi
trường sinh thái là vấn đề sống còn của nhân
loại và trở thành mối quan tâm hàng đầu của
các ngành khoa học và văn chương cũng cùng
chung sứ mệnh nên từ nửa cuối thế kỉ XX, trên
thế giới đã xuất hiện xu hướng sáng tác mới:
Văn học sinh thái và ngành phê bình sinh thái
được ra đời.
Trong dòng chảy chung của văn chương
nhân loại, Việt Nam chúng ta cũng xuất hiện
văn chương sinh thái và phê bình sinh thái.
Tuy còn khá non trẻ nhưng thời gian gần đây
xu hướng vă...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 471 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phê bình sinh thái qua một số tác phẩm thơ đương đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 3
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
19
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do nghiên cứu
Trong kỉ nguyên hiện đại, đồng hành cùng
ngành khoa học phát triển là nền kinh tế tăng
trưởng, nhờ đó chất lượng sống và đời sống
tiện nghi của con người được nâng lên đáng kể
nhưng cái giá của sự phát triển và thách thức
mang tính toàn cầu là môi trường sống ngày
càng bị tàn phá, con người đang đứng trước
nhiều mối đe dọa từ thời tiết khí hậu, nguồn
thực phẩm, bệnh tật, thiên tai... Vấn đề môi
trường sinh thái là vấn đề sống còn của nhân
loại và trở thành mối quan tâm hàng đầu của
các ngành khoa học và văn chương cũng cùng
chung sứ mệnh nên từ nửa cuối thế kỉ XX, trên
thế giới đã xuất hiện xu hướng sáng tác mới:
Văn học sinh thái và ngành phê bình sinh thái
được ra đời.
Trong dòng chảy chung của văn chương
nhân loại, Việt Nam chúng ta cũng xuất hiện
văn chương sinh thái và phê bình sinh thái.
Tuy còn khá non trẻ nhưng thời gian gần đây
xu hướng văn học này đã gặt hái một số thành
tựu đáng quý và còn một khoảng trống lớn chờ
đợi người nghiên cứu để góp phần thúc đẩy
xu hướng văn học sinh thái phát triển phục vụ
Phê bình sinh thái qua một số
tác phẩm thơ đương đại
ĐẶNG VĂN DU
Trường Trung học phổ thông Pleiku, tỉnh Gia Lai
cộng đồng. Nhận thức vai trò quan trọng của
văn chương sinh thái nên các trường đại học ở
châu Âu đã bắt buộc giảng dạy môn Văn học
và sinh thái. Trường học phổ thông Việt Nam
chúng ta cũng nên cập nhật lĩnh vực kiến thức
này theo quan điểm: Giáo dục nhà trường phải
gắn với cuộc sống, học đi đôi với hành, đó là lí
do mà đề tài này được chọn.
Văn học sinh thái đã xuất hiện trong các
thể loại nhưng kịch thì còn im lặng. Thơ và
truyện đã xuất hiện những thành tựu đáng
kể; như truyện của Nguyễn Ngọc Tư, Võ Diệu
Thanh, Trần Duy Phiên... thơ thì có Mai Văn
Phấn, Đặng Bá Tiến, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn
Văn Toan... Chúng tôi chỉ lựa chọn tác phẩm thơ
tiêu biểu cho xu hướng này để thuận lợi hơn
trong việc nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Phổ biến kiến thức cơ bản về văn chương
sinh thái trong học sinh phổ thông
Đánh thức trách nhiệm bảo vệ môi trường
sinh thái, khôi phục cân bằng sinh thái; thay đổi
tập quán sinh hoạt, phương thức sống; thay đổi
tư duy nhận thức mối quan hệ giữa con người
với thiên nhiên; xây dựng thái độ tôn trọng
người mẹ thiên nhiên trong độc giả.
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN4
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Khái luận về văn học sinh thái và phê
bình sinh thái
1.1. Khái luận về văn học sinh thái
Mỗi nhà nghiên cứu đưa ra những định
nghĩa khác nhau về văn học sinh thái, thừa
hưởng từ thành quả của người đi trước Giáo sư
Vương Nặc (Trung Hoa) định nghĩa tương đối
hoàn chỉnh: “Văn học sinh thái là loại văn học
lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư
tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh
thái làm giá trị cao nhất để khảo sát và biểu hiện
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và truy
tìm nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh thái”.
Còn Vương Nhạc Xuyên thì cho rằng: “Theo tôi,
cái gọi là văn học sinh thái chủ yếu là chỉ những
tác phẩm mẫn cảm góp phần phơi bày nguy cơ
sinh thái thế giới hiện đại, phê phán quan điểm
giá trị chủ nghĩa nhân loại trung tâm, phản tỉnh
đối với nền văn minh hiện đại dẫn đến nguy cơ
sinh thái. Văn học sinh thái không coi con người
là trung tâm của thế giới tự nhiên, cũng phản
đối coi lợi ích của con người là thước đo tuyệt
đối phán đoán giá trị tự nhiên”.
Từ đó có thể hiểu rõ tác phẩm văn học sinh
thái lấy tự nhiên làm đối tượng trung tâm, quan
tâm đến số phận của nó ảnh hưởng đến con
người và con người ảnh hưởng đến tự nhiên,
phơi bày thực trạng và lên tiếng cảnh báo và
đánh động ý thức bảo vệ tự nhiên. Một tác
phẩm có thể không có hình tượng tự nhiên
nhưng có góc nhìn sinh thái, tư tưởng sinh thái
thì vẫn xem là văn học sinh thái. Tư tưởng ấy là
trách nhiệm sinh thái, phân tích căn nguyên
đạo đức phản sinh thái, nhìn nhận sinh thái
là một giá trị ngang hàng với các giá trị con
người... nói chung là lí tưởng sinh thái.
1.2. Khái luận về phê bình sinh thái
Nhà phê bình sinh thái hàng đầu Cheryll
Glotfelty nói: “Phê bình sinh thái là phê bình bàn
về mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên... Phê
bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận
trái đất là trung tâm (earth-centered approach)
để nghiên cứu văn học”.
Nguyên tắc của phê bình sinh thái là lấy
chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm tư tưởng chủ
đạo và lập trường là đạo đức sinh thái, nhìn
thế giới tự nhiên trong văn bản bằng ý thức
sinh thái. Chú trọng đến sự hài hòa giữa con
người với tự nhiên, thống nhất quyền tồn tại
và phát triển trong sự tương hỗ giữa hai sinh
mệnh, từ đó thay đổi quan niệm về cách nhìn
nhận thế giới, xây dựng ý thức sinh thái, tinh
thần sinh thái.
Phê bình sinh thái thực chất là phê bình
đạo đức sinh thái. Môi trường bị phá hoại là do
hệ thống đạo đức của loài người, đặt bên cạnh
chỉ tiêu phát triển kinh tế thì chỉ tiêu bảo vệ
môi trường còn xem nhẹ, thậm chí vì mục tiêu
kinh tế mà có Chính phủ đã hi sinh môi trường.
Hệ thống luật pháp nhiều khi chưa đủ tính răn
đe trước hành động khai thác tài nguyên vượt
mức cho phép. Do đó cần bồi dưỡng, khơi dậy
năng lực sinh thái nhân văn trong cộng đồng.
Phê bình sinh thái nhất thiết phải kết hợp
văn học với các ngành khoa học khác: Sinh vật,
địa lí, lịch sử, đạo đức... thậm chí là thần học, để
có nhiều góc nhìn mới mẻ, làm phong phú nội
dung và thuyết phục.
Như các mục tiêu phê bình khác, phê bình
sinh thái cũng lấy tác phẩm văn học làm đối
tượng nghiên cứu chính, phân tích phát hiện
vấn đề thông qua hệ thống hình tượng và các
yếu tố thẩm mĩ, nhờ đó mới thấy giá trị sinh thái
trong giá trị thẩm mĩ của tác phẩm.
2. Phê bình một số tác phẩm thơ đương
đại viết về sinh thái và ý nghĩa của nó
2.1. Sự xuất hiện của xu hướng văn
chương sinh thái Việt Nam
Từ tự phát đến tự giác...
Văn chương nói chung và thơ ca nói riêng,
hấp dẫn bạn đọc một phần bởi tiếng nói hồn
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 5
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
19nhiên trước cuộc sống. Tiếng nói ấy được bật
lên khi tâm hồn va chạm với những vấn đề
đau đớn của cuộc đời, những trằn trọc suy tư
về phận mình, về phận người, về thế giới xung
quanh. Thế giới vốn bình yên bỗng dưng bị
sụp đổ, môi trường bị tàn phá, thiên tai dữ dội
hơn... Bức xúc và đau đớn, lo âu và bất bình, mẫn
cảm với vấn đề môi trường có ý nghĩa toàn cầu,
cũng có nghĩa là tính mệnh con người bị đe dọa,
những tiếng nói tự phát bằng văn nghệ đã cất
lên. Không cần chịu ảnh hưởng hay học tập từ
nước ngoài, tự thân văn học Việt Nam đã vận
động và hình thành xu hướng mới: Văn chương
sinh thái. Bài thơ Xin đổi kiếp này của Nguyễn
Bích Ngân (14 tuổi) là một minh chứng. Nhờ
đó văn chương sinh thái Việt Nam hòa chung
dòng chảy với văn chương thế giới đương đại.
Đến khi lí luận phê bình sinh thái được khởi
xướng từ Hoa Kỳ ở thập niên 90 của thế kỉ XX,
lan rộng ảnh hưởng sang các nước châu Âu
và châu Á trong đó có Việt Nam thì hoạt động
sáng tác chuyển sang giai đoạn tự giác và gặt
hái những thành công vượt trội với đội ngũ nhà
văn đông đảo. Văn xuôi có những tên tuổi như
Nguyễn Huy Thiệp, Lê Văn Thảo, Nguyễn Ngọc
Tư, Võ Diệu Thanh, Trương Gia Hòa... Thơ ca thì
có Mai Văn Phấn, Đặng Bá Tiến, Trần Anh Thái,
Đỗ Hồng Ngọc...
Con đường phía trước...
Phê bình sinh thái không chỉ giúp người
đọc lĩnh hội tác phẩm văn chương ở góc nhìn
mới theo lập trường sinh thái mà còn đưa ra
quan niệm mỹ học sinh thái - cái đẹp của tự
nhiên không phụ thuộc vào lợi ích của con
người, mỹ học này sẽ tác động lại hoạt động
sáng tác, mở rộng chân trời sáng tạo và hứa
hẹn những điều kì diệu, bất ngờ ở tương lai.
Nhà thơ Mai Văn Phấn quan niệm: “Thơ ca
nhằm khai mở tiếng nói mới, hoặc tìm lại thuở
hoàn nguyên đã mất”. Tiếng nói mới ấy là một
xu hướng sinh thái, phản ánh quy luật vận động
phát triển của văn chương.
2.2. Nội dung đề tài, cảm hứng và tư
tưởng chính của các bài thơ sinh thái tiêu biểu
Đề tài chính của văn chương sinh thái là
thiên nhiên - môi trường. Thiên nhiên đã xuất
hiện từ lâu trong văn chương nhưng đó là đối
tượng thẩm mĩ, cái hình xác bên ngoài, nếu có
sự sống linh hồn riêng thì vẫn chưa quan hệ
tương sinh với con người như trong văn chương
sinh thái. Có khi thiên nhiên chuyển sang sinh
thái tinh thần cho con người nương náu ẩn dật:
Núi láng giềng, chim bầu bạn / Mây khách khứa,
nguyệt anh tam (Nguyễn Trãi). Thiên nhiên cũng
còn là môi trường khắc nghiệt trong thế giới
vô tri: Sương như búa, bổ mòn gốc liễu / Tuyết
dường cưa xẻ héo cành ngô (Chinh phụ ngâm).
Phần lớn thiên nhiên trong thơ cũ là hình tượng
ẩn dụ, là đối thể trữ tình theo quan niệm Thiên
- Nhân nhất thể của phương Đông: Cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn cảnh có vui đâu
bao giờ (Nguyễn Du). Còn thiên nhiên trong văn
chương sinh thái là hình tượng độc lập, được
khám phá với sự sống riêng, những vận động
nội tại riêng, chuẩn thẩm mĩ riêng mà không lệ
thuộc vào ý chí con người: Thần rừng không bao
giờ ngủ (Nguyễn Văn Toan) và Trái đất cũng biết
rùng mình (Đỗ Hồng Ngọc). Trong thơ Trần Anh
Thái, khi con người bổ chiếc rìu vào đất để khai
phá thiên nhiên vì sự sinh tồn của nòi giống thì
biển thức giấc gào lên giận dữ: “Sóng gào biển
động”; “Sóng gió bập bùng”; “Sóng đổ dưới chân
người tê buốt”. Có thể nói tri thức khoa học liên
ngành giúp nhà thơ có cái nhìn mới về thiên
nhiên, hình tượng thiên nhiên đã và đang nổi
loạn trước sự tàn phá của con người, khác hẳn
với loại thiên nhiên vô tri khắc nghiệt của thơ
xưa. Từ đó, văn chương sinh thái giúp thay đổi
quan niệm và ý thức về môi trường.
Trong đề tài sinh thái, thiên nhiên là hình
tượng chính như một chủ thể tự biểu hiện:
Rừng, biển, sông, núi, cây cỏ... bị tàn phá nên
luôn ở trong trạng thái nổi giận và mang một
sự sống khác hẳn trong thơ xưa. Mai Văn Phấn
cho rằng: “Mục đích của thi ca là tạo lập một
từ trường, để trong không gian đặc biệt ấy, tất
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN6
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G cả từ đồ vật đến linh hồn đều được cất tiếng
nói, được công bằng như nhau trong một trật
tự mới”. Nó là hình tượng sinh thái chỉnh thể
bị phá vỡ cấu trúc nên nảy ra tai họa như một
lời thông báo. Nhà văn chỉ nói hộ nó như thay
lời cho nhà khoa học: Trái đất cũng đang rùng
mình tự hỏi vì sao những ngọn núi cứ triền miên
đổ sập? Đó là vì mũi đao cứ xoáy sâu vào lòng
đất (Đỗ Hồng Ngọc) và tất nhiên là do rừng bị
phá, bị trọc hóa.
Nếu theo thi pháp cũ thì thiên nhiên trong
thơ sinh thái còn là đối thể trữ tình, cái tôi trữ
tình cảm nhận đối tượng sinh thái bị phá vỡ với
niềm cảm thông sâu xa, những đau đớn, lo âu
khắc khoải để truyền đi thông điệp về tai họa
môi trường: Xin đổi kiếp này - Nguyễn Bích Ngân,
Chiều trên dòng Vu Gia - Nguyên Cẩn, Tiếng tù-và
Ma Kông - Đặng Bá Tiến... Và đối tượng này vẫn
được thể hiện là một sinh thể riêng có linh hồn
riêng cần tôn trọng.
Từ đề tài cho thấy chủ đề sinh thái là thái
độ quan tâm, tôn trọng môi trường - trái đất, là
ý thức bảo vệ môi sinh và phải nhận thức con
người và trái đất song hành quyền lợi và tồn tại:
Ta nương tựa vào nhau
Nay đã có vẻ đã không cần nhau nữa!
Đất rùng mình phận đất...
Người rùng mình phận người...
(Đỗ Hồng Ngọc)
Theo Laurence Buell (Anh): Văn học sinh
thái là văn học viết vì một thế giới lâm nguy” nên
cảm hứng cơ bản của thơ sinh thái là cảm hứng
phê phán. Phê phán thói cẩu thả, vô đạo, vô ơn
của con người gây nên thảm họa sinh thái. Bao
nhiêu cảm xúc giận dữ, ai oán, đau đớn, dặn vặt,
buồn thương xa xót...
Rừng xưa, giờ đã về đâu
Hỏi ai đây giữa ngàn lau bạc đầu?
Ngàn lau xao xác u sầu:
Rừng xưa đã hóa nỗi đau nhân tình...
(Trần Bá Tiến)
Nhưng tất cả đều dồn vào chiếc túi phê
phán:
...Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng
thần cứ triền miên hết ngày này sang ngày khác
Vì sao núi lửa cứ phun trào?
Vì sao băng tan vì sao bão táp?
Vì sao trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu
đốt thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát như
món đồ chơi của một đứa trẻ đang giận dữ?
Vì sao và vì sao?
(Đỗ Hồng Ngọc)
Từ cảm hứng và chủ đề, thơ sinh thái nói
riêng và văn chương sinh thái nói chung góp
tiếng nói phản biện để lay gọi, thức tỉnh thái độ,
thay đổi tư duy của con người về môi trường.
Có thể nói cảm hứng là điểm gặp gỡ của văn
học sinh thái với văn học hiện thực phê phán.
2.3. Vài nét về thi pháp sinh thái qua các
bài thơ tiêu biểu
a. Không gian nghệ thuật sinh thái là
không gian hẹp. Biển cả mênh mông nhưng
cá vẫn chết hàng loạt vì ô nhiễm hóa chất và
rác thải; sông cạn dòng thổi cát vào đồng khô;
rừng bị thu hẹp dần, núi sạt lở nên bầy nai ngơ
ngác bị đẩy ra khỏi môi trường của nó:
Lời tha thiết vọng từ thăm thẳm núi
Bầy hươu sao tán loạn chạy trên đồng
(Nguyên Cẩn)
Cánh đồng cũng rướm máu chiều loang vì
bị cắt đi cho những công trình... Nhiều không
gian sinh thái tự nhiên chỉ còn trong nỗi nhớ
xa xăm:
Còn đâu những tháng ba trời đất thơm lừng
trăm thứ hoa rừng đua nhau khoe sắc
ong đập cánh cho ngợp trời phấn rắc
mật ngọt như mưa dưới tán biếc ròng ròng
Còn đâu điệu múa xòe của những bầy công
cánh rừng bên sông chỉ còn đất trống
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 7
S
Ố
0
6
N
Ă
M
2
0
19lau phơ phất một màu tang trắng
hồn cẩm, hương... cũng hết gốc nương nhờ
Nơi đàn voi quần tụ dưới trăng mơ
giơ những đống xương khô tàn lạnh
mùa săn voi chỉ còn ảo ảnh
trong hoài niệm hằng đêm lại vỗ cánh bay về
(Đặng Bá Tiến)
Rừng xưa đã mất, muôn loài vắng bóng,
chỉ còn lại một thứ duy nhất là màu trắng khăn
tang của hoa lau. Còn đau xót, mất mát nào
hơn! Không gian hẹp này cũng là không gian
ô nhiễm, bức bách, phản ánh thế giới sinh thái
trên đà rạn vỡ gần như không thể cứu vãn. Từ
đó ảnh chiếu về sự sa đọa đạo đức con người:
Nhoài lên mỏm đá sắc
Thân thể gió trầy xước
Máu của gió là mưa
Nắng nhỏ xuống
Núi cuốn nụ hôn lên cao
Cụm mây xám đúc thành khối
(Mai Văn Phấn)
Bầu khí quyển ô nhiễm đến mức cơn gió
đi ngang qua cũng bị cào xé rồi thổ huyết. Núi
đá trần trụi lạnh lùng chém bất cứ vật gì bay
ngang qua và dần hóa thành núi lửa phun khói
độc muôn đời không tan. Hình tượng vận động
thật khốc liệt...đầy dự báo.
Hệ quả của không gian tự nhiên ấy đẩy
không gian con người cũng bó hẹp trong bốn
bức tường bê tông, cả cộng đồng được dồn
sống trong những tổ ong là những tòa chung
cư chọc trời ngột ngạt: Khói bụi ngày đêm, ngột
ngạt trưa hè (Nguyễn Bích Ngân). Cấu trúc sinh
thái hài hòa với con người bị phá vỡ. Vì thương
nhớ môi trường nên con người nghĩ ra cảnh giả,
biển giả, ao giả, cây giả...nhưng làm sao thay
thế. Con người đô thị thật tội nghiệp. Vậy, chính
sách đô thị hóa nông thôn có còn đúng đắn?
Những tiện nghi vật chất có cứu sống muôn
loài, những viên thuốc kháng sinh có thay thế
mật ong rừng? Đôi khi những viên thuốc ấy
cũng được lấy từ rừng. Đó là không gian vật
chất, không gian sinh thái. Bên cạnh ấy còn có
không gian tinh thần - không gian tâm hồn thi
nhân. Được kết nối và cảm thông với sinh thái
nên không gian tinh thần nếu không ngột ngạt
như lời con hổ trong vườn bách thú (Nhớ rừng,
Thế Lữ) thì cũng trống rỗng:
Bầy thây ma nhảy múa man dại quanh thần
Người chỉ còn một mình trên đỉnh ngôi nhà
hoang tàn
(Nguyễn Văn Toan)
Cảm thức không gian sinh thái nên thời
gian nghệ thuật gần như vắng bóng, nếu có
thì chỉ là thời gian quá khứ giả định, một thời
gian hồi niệm lấp lánh những hình ảnh mĩ lệ;
nó được nhắc đến chủ yếu để đối chiếu với
thời gian hiện tại, do đó thời gian nghệ thuật
thơ sinh thái là phi thời gian hay đồng chất với
không gian.
b. Cái tôi hướng ngoại
Phong trào Thơ Mới (1932-1942) có thể
nói là một cuộc cách mạng thơ, thay cái ta của
thơ trung đại bằng cái Tôi, cái Tôi bản ngã được
khai thác tối đa thế giới tinh thần phong phú và
đòi được khẳng định giá trị cá nhân. Đó là cái
Tôi hướng nội còn thơ sinh thái là cái tôi hướng
ngoại. Một cái tôi mở rộng các giác quan để
thấu cảm với muôn loài (Nguyễn Bích Ngân...),
cái tôi trải ra ba chiều không gian để lắng nghe
gió rít, núi thở, sông than (Mai Văn Phấn, Trần
Anh Thái, Đỗ Hồng Ngọc...). Nhờ tư tưởng sinh
thái nâng đỡ mà cái tôi (cũng là tiếng nói của
cái ta) lớn lao mang tầm vóc thời đại.
c. Chất bi ca
Từ cảm hứng phê phán mà các tác phẩm
thơ đều đượm chất bi ca, dư âm của mỗi tác
phẩm là nỗi buồn đau khắc khoải, là niềm sám
hối của lương tri con người.
Chất bi ca này biểu hiện qua những hình
ảnh sống động giàu tính khái quát: Đồng ngập
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN8
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G mặn, triều cường, núi lửa, sóng thần, cơn mưa
đen, mưa máu... dội lên từng hình ảnh sinh thái
là một niềm đau nhức nhối: Tôi ngồi thương cội
hương già / Ngỡ cưa còn siết trên da thịt mình!
(Trần Bá Tiến) để từ đó bật lên niềm khát vọng:
Tôi nhận về bao nhiêu? Tôi lấy gì trả lại?
Tôi phá hoại những gì? Tôi đã từng hối cải?
Xin đổi được kiếp này...!
Trời đất có cho tôi ???
(Nguyễn Bích Ngân)
Chất bi ca còn biểu hiện qua giọng điệu.
Mỗi tác giả có một giọng điệu riêng. Dửng dưng
như Mai Văn Phấn, Nguyễn Văn Toan; dằn vặt
như Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Bích Ngân... nhưng
giọng chung là buồn đau da diết mà tiêu biểu
Đặng Bá Tiến và Nguyên Cẩn. Đó là điệu hồn
chung của các nhà thơ dù giọng điệu bên ngoài
có khác nhau:
Biết nói gì cho con khi tắt niềm vui
Dòng điện sáng là rừng xưa vĩnh biệt
Lời tha thiết vọng từ thăm thẳm núi
Bầy hươu sao tán loạn chạy trên đồng
Đêm qua ai khóc - không chỉ một dòng sông
Riêng Vu Gia nhớ Thu Bồn đứt ruột
Rượu Hồ Đào sao lại ném sông trôi?
(Nguyên Cẩn)
Giọng điệu buồn đau đắng đót ấy đã phản
ánh thời đại bi kịch của chúng ta: Khoa học
phát triển nhưng bệnh tật thì nhiều hơn, có
bệnh bị trẻ hóa.
Có thể nói nội hàm văn học sinh thái có ý
nghĩa giáo dục bằng con đường phản cảm. Văn
học phải cất lên tiếng nói đánh động ý thức,
thay đổi quan niệm về sinh thái để cân bằng
bảo vệ môi sinh và thời gian không chờ đợi.
III. TỔNG KẾT, ĐỀ NGHỊ
Văn chương sinh thái nói chung và thơ ca
sinh thái nói riêng đã xuất hiện tại Việt Nam gần
ba thập niên trở lại đây, đạt được những thành
tựu cơ bản về nội dung tư tưởng song về thi tứ
và bút pháp thì vẫn còn vận động theo quỹ đạo
của văn chương nói chung, đã có những cách
tân trong nghệ thuật biểu hiện nhưng chưa
tạo ra diện mạo riêng, khả năng lôi cuốn độc
giả còn hạn chế.
Trong cuốn Lược sử loài người, tác giả Yuval
Noah Harari luôn đau đáu một câu hỏi: Liệu
người hiện đại có sung sướng bằng người trung
đại hay cổ đại? Câu trả lời là chưa chắc. Vậy nhân
loại nên chăng giảm bớt các chỉ số phát triển
kinh tế để cân bằng văn hóa và phục hồi sinh
thái. Bởi cơ sở khoa học xã hội cho biết là của
cải được làm ra chỉ rơi vào túi của người giàu,
mà họ chỉ chiếm tỷ lệ 20% dân số, nhưng toàn
bộ ít nhiều đều là nạn nhân của môi trường.
Cuối cùng đấu tranh bảo vệ môi trường cũng
chính là bảo vệ ngôi nhà của chúng ta, bảo vệ
tuổi thọ của trái đất./.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Nhiều tác giả (2018), Phê bình sinh thái với văn xuôi
Nam Bộ, NXB Văn hóa văn nghệ, Hà Nội
2. Dương Thị Phú (2018), Thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn
sinh thái. Luận văn thạc sĩ
3. Vương Nhạc Xuyên, (Đỗ Văn Hiểu dịch, 2016). Văn học
sinh thái và lí luận phê bình sinh thái.
4. Trần Đình Sử. Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên
cứu văn học hiện nay. (khoavanhoc-ngonngu.edu.vn)
5. Hải Ngọc. Những tương lai của phê bình sinh thái và
văn học. (khoavanhoc-ngonngu.edu.vn)
6. Mai Văn Phấn (1997), Tập thơ Bầu trời không mái che,
NXB. Hải Phòng.
7. Đặng Bá Tiến (2017) Tập thơ Hồn cẩm hương, NXB
Hội Nhà văn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34_1699_2207540.pdf