Tài liệu Phẫu thuật cắt toàn bộ u nguyên bào thần kinh sau phúc mạc bao quanh các mạch máu lớn: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi
21
PHẪU THUẬT CẮT TOÀN BỘ U NGUYÊN BÀO THẦN KINH
SAU PHÚC MẠC BAO QUANH CÁC MẠCH MÁU LỚN
Trần Ngọc Sơn*, Dương Văn Mai*
TÓM TẮT
Mục đích: Báo cáo 2 bệnh nhân được phẫu thuật thành công cắt toàn bộ u nguyên bào thần kinh (UNBTK)
sau phúc mạc bao quanh các mạch máu lớn.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu báo cáo 2 ca bệnh.
Kết quả: Có 01 trẻ gái 3 tuổi và 1 trẻ trai 5 tuổi và với chẩn đoán u nguyên bào thần kinh đã được điều trị
hóa chất và được chỉ định điều trị phẫu thuật. Hình ảnh CT cho thấy khối u bao quanh động mạch chủ bụng, động
mạch thân tạng, động mạch mạc treo tràng trên, động mạch thận 2 bên; 1 phần tĩnh mạch chủ dưới và tĩnh mạch
thận 2 bên ở cả 2 bệnh nhân. Cả 2 bệnh nhân dã được phẫu thuật bộc lộ, tách các mạch máu khỏi u và cắt hết toàn
bộ khối u. Không có tai biến trog mổ. Thời gian mổ là 7- 8 giờ. Sau mổ trẻ trai bị rò dưỡng chấp điều trị nội khoa
không kết...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật cắt toàn bộ u nguyên bào thần kinh sau phúc mạc bao quanh các mạch máu lớn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi
21
PHẪU THUẬT CẮT TOÀN BỘ U NGUYÊN BÀO THẦN KINH
SAU PHÚC MẠC BAO QUANH CÁC MẠCH MÁU LỚN
Trần Ngọc Sơn*, Dương Văn Mai*
TÓM TẮT
Mục đích: Báo cáo 2 bệnh nhân được phẫu thuật thành công cắt toàn bộ u nguyên bào thần kinh (UNBTK)
sau phúc mạc bao quanh các mạch máu lớn.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu báo cáo 2 ca bệnh.
Kết quả: Có 01 trẻ gái 3 tuổi và 1 trẻ trai 5 tuổi và với chẩn đoán u nguyên bào thần kinh đã được điều trị
hóa chất và được chỉ định điều trị phẫu thuật. Hình ảnh CT cho thấy khối u bao quanh động mạch chủ bụng, động
mạch thân tạng, động mạch mạc treo tràng trên, động mạch thận 2 bên; 1 phần tĩnh mạch chủ dưới và tĩnh mạch
thận 2 bên ở cả 2 bệnh nhân. Cả 2 bệnh nhân dã được phẫu thuật bộc lộ, tách các mạch máu khỏi u và cắt hết toàn
bộ khối u. Không có tai biến trog mổ. Thời gian mổ là 7- 8 giờ. Sau mổ trẻ trai bị rò dưỡng chấp điều trị nội khoa
không kết quả phải can thiệp phẫu thuật. 2 bệnh nhân đươc ra viện trong tình trạng sức khỏe tốt. Theo dõi sau ra
viện 14 tháng bệnh nhân ổn định, không thấy tái phát.
Kết luận: Phẫu thuật cắt toàn bộ u nguyên bào thần kinh bao quanh các mạch máu lớn ổ bụng là có tính khả
thi. Tuy nhiên đây là 1 phẫu thuật lớn, nhiều nguy cơ tai biến và biến chứng, nên được thực hiện ở trung tâm có
nhiều kinh nghiệm phẫu thuật và hồi sức trẻ em.
Từ khóa: U nguyên bào thần kinh, bao quanh mạch máu lớn phẫu thuật cắt u.
ABSTRACT
COMPLETE SURGICAL RESECTION OF RETROPERITONEAL NEUROBLASTOMA ENCASING
GREAT ABDOMINAL VESSELS
Tran Ngoc Son, Duong Van Mai
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 21- 25
Objectives: To report 2 patients with complete surgical resection of retroperitoneal neuroblastoma encasing
great abdominal vessel.
Methods: Retrospective study of 2 cases.
Results: A 3-years old girl and 5 years old boy with diagnosis of neuroblastoma after chemotherapy were
indicated for surgical resection. CT scan showed encasement of abdominal aorta, celiac trunk, superior mesenteric
artery, bilateral renal arteries, and a part of inferior vena cava by the tumor in both patients. Both patients
underwent surgery with exposure and dissection of all those great vessels off from the tumor and complete
resection of the tumor. There were no intraoperative complications. Operative duration was 7 and 8 hours. After
the operation the boy suffered from chylous leak which was repaired by relaparotomy after unsuccessful
conservative treatment. Both patients were discharged in good health. At follow up of 14 months, they were in
stable condition, without recurrence.
Conclusions: Complete surgical resection of neuroblastoma encasing great abdominal vessels is feasible.
However this is a high risk surgical procedure and should be performed in centers experience in pediatric surgery
and resuscitation.
*Bệnh viện đa khoa Saint Paul.
Tác giả liên lạc: PGS. TS. BS Trần Ngọc Sơn, ĐT: 0904138502, Email: drtranson@yahoo.com.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 22
Keywords: Neurobalstoma, great vessel encasement, surgical resection.
ĐẶT VẤN ĐỀ
U nguyên bào thần kinh (UNBTK) là các u
của hệ thần kinh giao cảm có nguồn gốc từ tế
bào phôi thai của mào thần kinh, là khối u phổ
biến nhất ở trẻ sở sinh với tỉ lệ gặp 1/10000 trẻ
em, u thường phát triển tại tủy thượng thận hoặc
từ các chuỗi hạch giao cảm cạnh sống, có đến
80% u ở trong ổ bụng(1,7,8).
Phẫu thuật cắt bỏ khối u có ý nghĩa quan
trọng trong điều trị bệnh(2,7). Tuy nhiên với
những khối u nguyên bào thần kinh trong ổ
bụng bao quanh hệ thống động tĩnh mạch lớn,
việc phẫu thuật cắt bỏ hết khối u là một thách
thức lớn đối với các phẫu thuật viên vì trong quá
trình phẫu tích cắt u nguy cơ tổn thương mạch
máu là rất lớn. Y văn có rất ít tài liệu về phẫu
thuật cắt u trong các trường hợp u bao quanh
mạch máu lớn ổ bụng, Koltuksuz(4) báo cáo 1
trường hợp u nguyên bào thần kinh giai đoạn III
bao quanh động mạch (ĐM) lớn được phẫu
thuật, quá trình phẫu thuật có tổn thương tĩnh
mạch (TM) chậu chung bên phải, bệnh nhân
được sử dụng nhánh của tĩnh mạch mạc treo
tràng trên vá lại vị trí thủng. Kiely E (2007)(3) báo
cáo tổng kết 22 năm kinh nghiệm về phẫu thuật
u nguyên bào thần kinh có 17/255 bệnh nhân u
nguyên bào thần kinh bao quanh động mạch chủ
bụng, trong đó có 11% số bệnh nhân không cắt
được hết u, tại Việt Nam chưa có báo cáo nào về
phẫu thuật u nguyên bào thần kinh bao quanh
động tĩnh mạch lớn trong ổ bụng. Chúng tôi báo
cáo 2 ca bệnh u nguyên bào thần kinh bao quanh
động mạch chủ bụng đã được phẫu thuật cắt u
thành công tại khoa Phẫu thuật Nhi - Bệnh viện
Đa khoa Xanh Pôn.
Mục đích nghiên cứu
Báo cáo 2 bệnh nhân (BN) được phẫu thuật
thành công cắt toàn bộ u nguyên bào thần kinh
(UNBTK) sau phúc mạc bao quanh các mạch
máu lớn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi hồi cứu báo cáo 2 ca bệnh được
phẫu thuật tại bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn
năm 2017.
BÁO CÁO CA BỆNH
Bệnh nhân 1
Trẻ nữ 3 tuổi với chẩn đoán u nguyên bào
thần kinh nguy cơ trung bình (bằng sinh thiết
kim) đã được điều trị hóa chất và hội chẩn có chỉ
định phẫu thuật. Thăm khám lâm sàng sờ thấy
khối u lớn ổ bụng chắc, không di động. Chụp CT
có khối u lớn sau phúc mạc kích thước 8 cm, bao
quanh các mạch máu lớn ổ bụng (ĐM chủ bụng,
ĐM thân tạng, ĐM mạc treo tràng trên, ĐM thận
2 bên, 1 phần TM chủ dưới).
Hình 1. CT ổ bụng bệnh nhân: Nguyễn Thị Q. C.
3 tuổi (mã số 17023963)
Bệnh nhân được phẫu thuật ngày 24/02/2017.
Khi phẫu thuât, chúng tôi đã cắt mở phần u phía
trước, bộc lộ toàn bộ ĐM chủ từ phía dưới lên
trên cùng các ĐM thân tạng, ĐM mạc treo tràng
trên, ĐM thận 2 bên; bộc lộ TM chủ dưới và TM
thận 2 bên; sau đó phẫu tích cắt từng phẩn cho
đến khi lấy hết toàn bộ khối u. Thời gian mổ là 7
tiếng. Lượng máu mất trong mổ 300 ml. Sau mổ
BN có tình trạng nhiễm khuẩn, rối loạn nội môi,
phục hồi chậm. Qua 40 ngày điều trị, bệnh nhân
đã được ra viện trong trạng thái sức khỏe tốt.
Theo dõi sau mổ 14 tháng, BN ổn định, không
thấy tái phát.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi
23
Hình 2. Bệnh nhân: Nguyễn Thị Quế C. 3 tuổi (mã số 17023963)
Bệnh nhân 2
Trẻ trai 5 tuổi chẩn đoán u nguyên bào
thần kinh (bằng sinh thiết kim) nguy cơ cao đã
được điều trị hóa chất và hội chẩn có chỉ định
phẫu thuật. Thăm khám lâm sàng sờ thấy khối
u lớn ổ bụng chắc, không di động. Chụp CT có
khối u lớn sau phúc mạc kích thước 10 cm, bao
quanh các mạch máu lớn ổ bụng (động mạch
(ĐM) chủ bụng, ĐM thân tạng, ĐM mạc treo
tràng trên, ĐM thận 2 bên, 1 phần tĩnh mạch
(TM) chủ dưới). Bệnh nhân được phẫu thuật
ngày 28/02/2017. Khi phẫu thuât, chúng tôi đã
cắt mở phần u phía trước, bộc lộ toàn bộ ĐM
chủ từ phía dưới lên trên cùng các ĐM thân
tạng, ĐM mạc treo tràng trên, ĐM thận 2 bên;
bộc lộ TM chủ dưới và TM thận 2 bên; sau đó
phẫu tích cắt từng phẩn cho đến khi lấy hết
toàn bộ khối u. Thời gian mổ 8 giờ. Lượng
máu mất trong mổ 400 ml. Sau mổ BN có tình
trạng nhiễm khuẩn, phục hồi chậm. BN bị rò
dưỡng chấp 300 – 400 ml/ngày điều trị nội
khoa (nhịn ăn, nuôi dưỡng tĩnh mạch,
Sandostatin) 50 ngày không kết quả, phải
phẫu thuật khâu lại chỗ rò. Sau đó 60 ngày BN
ra viện trong tình trạng sức khỏe tốt. BN sau
đó được điều trị tia xạ tại 1 bệnh viện Trung
Ương. Theo dõi sau ra viện 14 tháng BN bệnh
nhân còn sống, trở lại học tập và không thấy u
tái phát.
BÀN LUẬN
U nguyên bào thần kinh là khối u ác tính ở
trẻ em, chẩn đoán dựa vào thăm khám phát hiện
khối u, siêu âm ổ bụng và chụp cắt lớp vi tính
giúp đánh giá tính chất và đặc điểm khối u, giải
phẫu bệnh là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán xác
định u nguyên bào thần kinh. Điều trị u nguyên
bào thần kinh theo đa mô thức kết hợp điều trị
hóa chất và phẫu thuật cắt bỏ hết khối u. Việc
phẫu thuật cắt hết khối u có ý nghĩa quan trọng
trong điều trị bệnh, theo nghiên cứu của Mc
Gregor(5) thời gian sống trên 5 năm ở nhóm bệnh
nhân được cắt hoàn toàn khối u là 83%. Tuy
nhiên cắt bỏ hoàn toàn khối u là tương đối khó
khăn, đặc biệt với những khối u trong ổ bụng
bao quanh các mạch máu lớn, phẫu thuật cắt bỏ
hết khối u là một thách thức lớn đối với các phẫu
thuật viên, quá trình phẫu tích cắt u nguy cơ tổn
thương mạch máu là rất lớn.
Năm 2009, một hệ thống phân loại quốc tế
các yếu tố rủi ro của u nguyên bào thần kinh
(International Neuroblastoma Risk Group
Staging System - INRGSS) dựa trên yếu tố lâm
sàng và các yếu tố nguy cơ hình ảnh xác định
(image-defined risk factors - IDRF)(6). Tác giả
Polh(9) nhận thấy rằng ở những bệnh nhân có
IDRF dương tính thì tỉ lệ cắt hết được khối u
giảm đi (p <0,001), có 21% bệnh nhân có biến
Tĩnh mạch thận trái
Tĩnh mạch chủ dưới Động mạch thận T
Động mạch chủ bụng
Động mạch thân tạng
Động mạch mạc treo
tràng trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 24
chứng trong và sau phẫu thuật. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, cả hai bệnh nhân đều có IDRF
dương tính, khối u bao quanh mạch máu lớn
trong ổ bụng, tuy nhiên chúng tôi đã phẫu thuật
thành công cắt hoàn toàn khối u.
Việc phẫu thuật cắt bỏ khối u xung quanh
mạch máu lớn trong ổ bụng là cực kì khó khăn
và dễ tổn thương mạch máu lớn, do đó quá trình
phẫu thuật bóc tách u khỏi mạch máu và lấy u
cần hết sức nhẹ nhàng và khéo léo, với trường
hợp bệnh nhân có tổn thương mạch máu lớn
trong ổ bụng thì ghép mạch là một giải pháp, tuy
nhiên việc ghép mạch nhân tạo ở trẻ nhỏ có thể
gây hẹp mạch về sau do trẻ phát triển theo lứa
tuổi, mà kích thước mạch ghép không thay đổi,
nếu theo dõi sau mổ bệnh nhân có hẹp ở vị trí
mảnh ghép thì việc phẫu thuật thay mảnh ghép
cần đặt ra. Tác giả Paran(7) báo cáo 5 trường hợp
bệnh nhân có khối u bao quanh các mạch máu
lớn trong ổ bụng, quá trình phẫu thuật có 3 bệnh
nhân tổn thương động mạch trong quá trình
phẫu tích, 1 bệnh nhân được vá động mạch bằng
mảnh ghép, 2 bệnh nhân được dùng đoạn mạch
nhân tạo lập lại lưu thông mạch máu, theo dõi
sau mổ có một bệnh nhân bị thiếu máu đại tràng,
phải tiến hành cắt bỏ toàn bộ đại tràng và dẫn
lưu hồi tràng, 1 bệnh nhân có tắc bán phần động
mạch tá tràng, được điều trị nội khoa ổn đinh. 1
trẻ được nối mạch bằng đoạn mạch nhân tạo,
theo dõi sau 10 năm mạch thông tốt trên phim
chụp, tuy nhiên kích thước đoạn ghép nhỏ hơn
so với đoạn mạch lân cận.
Theo kinh nghiệm của tác giả Kiely E(3)
nghiên cứu trên 255 bệnh nhân mục đích của
phẫu thuật là cắt hết khối u, bảo tồn giải phóng
mạch máu bị u bao quanh, giải phóng khối u với
các tổ chức xung quanh được thực hiện tốt nhất
bằng dao mổ vì sử dụng dao mổ giúp diện cắt
được sắc gọn, tránh lan tràn tổ chức u ra xung
quanh. Các mạch máu nhỏ được cắt đốt cầm
máu bằng dao lưỡng cực, những mạch máu lớn
hơn được kéo hỗ trợ giúp tách rời khối u trong
quá trình phẫu tích, tuy nhiên tác giả có 11% số
bệnh nhân không phẫu thuật cắt hết được khối
u. Trong nghiên cứu, có 02 bệnh nhân tử vong
sau mổ: 1 bệnh nhân hạ đường huyết sau mổ 24
giờ, tác giả nhận thấy rằng những bệnh nhân
trên 12 tháng tuổi sau mổ có nguy cơ hạ đường
huyết cao hơn, vì vậy tác giả khuyến cáo cần
theo dõi đường huyết sau mổ 4 -6 giờ/ lần trong
2 ngày đầu. 1 bệnh nhân tử vong sau mổ do vỡ
động mạch chủ bụng ở ngày thứ 8 sau phẫu
thuật, nguyên nhân được ghi nhận do thành
mạch quá mỏng sau quá trình phẫu tích tách u
khỏi thành mạch, mặc dù bệnh nhân được phẫu
thuật cấp cứu cầm được máu nhưng bệnh nhân
tử vong sau đó 2 ngày. Tiêu chảy gặp ở 30% số
bệnh nhân do quá trình phẫu tích gây tổn
thương dây thần kinh chi phối của ruột, tuy
nhiên biến chứng này không ảnh hưởng xấu đến
tiên lượng bệnh, sử dụng Loperamid có kết quả
tốt trong phần lớn các trường hợp, nhiễm khuẩn
vết mổ hay gặp tuy nhiên điều trị nội khoa
thường đạt kết quả.
Năm 1999, tác giả Koltuksuz(4) báo cáo 1
trường hợp u nguyên bào thần kinh giai đoạn III
bao quanh động mạch lớn được phẫu thuật, quá
trình phẫu thuật có tổn thương tĩnh mạch chậu
chung bên phải, bệnh nhân được sử dụng nhánh
của tĩnh mạch mạc treo tràng trên vá lại vị trí
thủng, sau 6 tháng chụp cắt lớp vi tính ổ bụng
không thấy hình ảnh phình mạch.
Rò dưỡng chấp cũng là một biến chứng có
thể xảy ra. Theo nghiên cứu của Qureshi(10) trong
số 160 bệnh nhân phẫu thuật u nguyên bào thần
kinh trong ổ bụng, 20% có biến chứng rò dưỡng
chấp, các bệnh nhân thường rò khoảng 100
ml/ngày và điều trị nội khoa bằng Sandostatin,
nhịn ăn, không dùng dịch truyền lipid cao phân
tử, trung bình sau 12 ngày bệnh nhân ổn định.
Như vậy, quá trình phẫu thuật có tổn thương
mạch máu lớn trong ổ bụng, cách xử trí có thể là
vá mạch tự thân hoặc bằng mảnh ghép nhân tạo,
tuy nhiên cả hai phương pháp này đều có những
nguy cơ rủi ro cho người bệnh. Trong phẫu thuật
của chúng tôi, chúng tôi sử dụng kéo phẫu tích
kết hợp với dao điện để tách khối u ra khỏi mạch
máu và tổ chức xung quanh, bóc tách lớp áo
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi
25
ngoài của động mạch, thắt các nhánh mạch nhỏ
đến nuôi u bằng chỉ buộc, quá trình phẫu tích
nhẹ nhàng, tỉ mỉ giúp giảm thiểu nguy cơ tổn
thương mạch máu mà vẫn cắt hết khối u, kết quả
cả hai trường hợp đều cắt hoàn toàn khối u mà
không gây tổn thương mạch. Báo cáo của chúng
tôi, không có bệnh nhân nào có biểu hiện hạ
đường huyết, xét nghiệm đường huyết sau mổ
trong giới hạn bình thường, không có bệnh nhân
nào biểu hiện tiêu chảy, tuy nhiên có 1 bệnh
nhân biểu hiện rò dịch dưỡng chấp, bước đầu
được chúng tôi điều trị nội khoa bằng
Sandostatin không kết quả, bệnh nhân được
phẫu thuật khâu lại lỗ rò, sau phẫu thuật bệnh
nhân ổn định.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật cắt toàn bộ UNBTK bao quanh
các mạch máu lớn ổ bụng là có tính khả thi. Tuy
nhiên do đây là 1 phẫu thuật lớn, nhiều nguy cơ
tai biến và biến chứng, nên được thực hiện ở
trung tâm có nhiều kinh nghiệm phẫu thuật và
hồi sức trẻ em.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bernstein ML, Bunin G (1992). A population-based study of
neuroblastoma incidence, survival, and mortality in North
America. J Clin Oncol. 10, pp.323-329.
2. Castel V (2002). The role of surgery in stage IV neuroblastoma. J
Pediatr Surg, 37, pp.1574-1578.
3. Kiely E (2007). A Technique for Excision of Abdominal and
Pelvic Neuroblastomas. Ann R Coll Surg Engl. 4, pp.342-348.
4. Koltuksuz U (1999). Injuries of large vessels in high stage
neuroblastoma surgery. A case report. J Cardiovasc Surg (Torino).
5, pp.711-713.
5. McGregor LM (2005). The impact of early resection of primary
neuroblastoma on the survival of children older than 1 year of
age with stage 4 disease: the St. Jude Children's Research
Hospital Experience. Cancer. 104(12), pp.2837-2846.
6. Monclair T (2009). The International Neuroblastoma Risk Group
(INRG) staging system: an INRG Task Force report. J Clin Oncol.
2, pp.298-303.
7. Paran TS (2008). Experience with aortic grafting during excision
of large abdominal neuroblastomas in children. J Pediatr Surg. 2,
pp.335-340.
8. Phùng Tuyết Lan (2007). Nghiên cứu phân loại và nhận xét kết
quả điều trị u nguyên bào thần kinh ở trẻ em tại bệnh viện Nhi
Trung Ương (2002 - 2006). Luận án tiến sĩ y học, chuyên ngành
Nhi Khoa, mã số 3.01.43, tr.37-39.
9. Pohl A (2016). Image-defined Risk Factors Correlate with
Surgical Radicality and Local Recurrence in Patients with
Neuroblastoma. Klin Padiatr. 3. pp.118-123.
10. Qureshi S (2016). Chyle leak following surgery for abdominal
neuroblastoma. J Pediatr Surg. 19, pp.1557-1560.
Ngày nhận bài báo: 20/06/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/06/2018
Ngày bài báo được đăng: 15/08/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phau_thuat_cat_toan_bo_u_nguyen_bao_than_kinh_sau_phuc_mac_b.pdf