Tài liệu Phát triển tài nguyên số để trở thành một thư viện đặc thù (phục vụ đào tạo sau Đại học): BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012
4
PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN SỐ ĐỂ TRỞ
THÀNH MỘT THƯ VIỆN ĐẶC THÙ
(phục vụ đào tạo sau đại học)
PGS. TS VƯƠNG TOÀN
(Nguyên PVT Viện Thông tin Khoa học Xã hội)
1. Trung tâm Thông tin - Tư liệu -
Thư viện thuộc Học viện Khoa học Xã
hội với nhiệm vụ đào tạo sau đại học
Được thành lập theo Quyết định số
35/QĐ-TTg ngày 10/1/2010 của Thủ
tướng Chính phủ, Học viện Khoa học Xã
hội (KHXH) là cơ sở giáo dục có chức
năng và nhiệm vụ chính là đào tạo và cấp
văn bằng thạc sĩ (ThS) và tiến sĩ (TS) về
KHXH, và cũng từ đây, nó đảm nhiêm
việc quản lý thống nhất các hoạt động đào
tạo sau đại học của các cơ sở đào tạo (đã
hoạt động trước đây, vốn là các viện
chuyên ngành hay khu vực) thuộc Viện
KHXH Việt Nam1.
Đặt trong hệ thống các thư viện
thuộc cơ quan ngang Bộ này, Trung tâm
Thông tin – Tư liệu – Thư viện (dưới đây,
gọi tắt là Trung tâm) mới ra đời theo
Quyết định số 231/QĐ-HVKHXH ngày
18/4/2011 của G...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 430 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển tài nguyên số để trở thành một thư viện đặc thù (phục vụ đào tạo sau Đại học), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012
4
PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN SỐ ĐỂ TRỞ
THÀNH MỘT THƯ VIỆN ĐẶC THÙ
(phục vụ đào tạo sau đại học)
PGS. TS VƯƠNG TOÀN
(Nguyên PVT Viện Thông tin Khoa học Xã hội)
1. Trung tâm Thông tin - Tư liệu -
Thư viện thuộc Học viện Khoa học Xã
hội với nhiệm vụ đào tạo sau đại học
Được thành lập theo Quyết định số
35/QĐ-TTg ngày 10/1/2010 của Thủ
tướng Chính phủ, Học viện Khoa học Xã
hội (KHXH) là cơ sở giáo dục có chức
năng và nhiệm vụ chính là đào tạo và cấp
văn bằng thạc sĩ (ThS) và tiến sĩ (TS) về
KHXH, và cũng từ đây, nó đảm nhiêm
việc quản lý thống nhất các hoạt động đào
tạo sau đại học của các cơ sở đào tạo (đã
hoạt động trước đây, vốn là các viện
chuyên ngành hay khu vực) thuộc Viện
KHXH Việt Nam1.
Đặt trong hệ thống các thư viện
thuộc cơ quan ngang Bộ này, Trung tâm
Thông tin – Tư liệu – Thư viện (dưới đây,
gọi tắt là Trung tâm) mới ra đời theo
Quyết định số 231/QĐ-HVKHXH ngày
18/4/2011 của Giám đốc Học viện Khoa
học Xã hội (Học viện).
Đối tượng phục vụ của Trung tâm
bao gồm cán bộ giảng dạy và học viên cao
học, nghiên cứu sinh và những người đang
ôn tập chuẩn bị đăng kí theo học chương
1
thieu-Hoc-vien-khoa-hoc-xa-hoi-17
trình sau đại học tại 21 Khoa của Học viện,
nhằm hoàn thành “chức năng phục vụ hoạt
động đào tạo và nghiên cứu khoa học
trong lĩnh vực Thông tin – Tư liệu – Thư
viện; triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa
học và công nghệ nhằm tổ chức, xây dựng,
quản lý và khai thác có hiệu quả nguồn
Thông tin – Tư liệu của Trung tâm; hướng
dẫn và quản lý công tác quyền sở hữu trí
tuệ của Học viện theo các quy định của
pháp luật”.
Ngoài nguồn sách báo và tạp chí về
các ngành KHXH và nhân văn trực tiếp
mua, tài nguyên thông tin của Trung tâm
còn được bổ sung từ nguồn ấn phẩm của
Nhà xuất bản KHXH, và từ nhiều cá nhân
biếu tặng, đặc biệt là đã được nhận bàn
giao toàn bộ số sách và tạp chí từ quỹ Ford
(trong một chương trình hỗ trợ Viện
KHXH Việt Nam, qua Ban Hợp tác Quốc
tế).
Trung tâm cũng được giao nhiệm
vụ thu nhận các giáo trình, bài giảng và
sản phẩm của các đề tài nghiên cứu khoa
học các cấp mà Học viện là cơ quan chủ
quản (lâu nay được lưu trữ ở Ban Quản lý
Khoa học). Đây cũng là nguồn thông tin
nội sinh quan trọng có thể số hoá và đưa
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012
5
vào cơ sở dữ liệu (CSDL) phục vụ bạn đọc
thông qua thư viện điện tử của Học viện.
Sau một năm hoạt động, gần 8.000
đơn vị sách báo và tạp chí đã được đăng kí
và đưa vào CSDL, thuận tiện cho tìm kiếm
thông tin. Đặc biệt là kho luận văn ThS và
luận án TS hiện đã tập hợp được gần 500
đơn vị tài liệu2. Phòng đọc của Trung tâm
hiện có 14 tên báo và 30 tên tạp chí (trong
đó có 25 tạp chí của Viện KHXH Việt
Nam). Bạn đọc hiện nay đã có thể khai
thác trực tiếp gần 10 ngàn đơn vị tài liệu
tại Trung tâm phục vụ cho việc giảng dạy
và học tập sau đại học3.
Trong đường hướng hoạt động
thông tin – thư viện phi tập trung hóa ở cơ
quan ngang Bộ này [Xem; Vương Toàn
(2010)], Trung tâm cần tạo cho mình
(những) tài nguyên thông tin đặc thù, và
đương nhiên hoạt động của nó cũng cần có
những nét đặc thù so với các thư viện đã
có, với tinh thần mỗi thư viện cần tạo cho
mình (những) tài nguyên thông tin đặc thù
- Chúng tôi muốn chia sẻ quan niệm này
đối với hoạt động thư viện của một học
giả, đó là GS triết học Trần Văn Đoàn,
Việt kiều ở Đài Loan trong buổi thuyết
trình tại Viện Thông tin KHXH.
Với suy nghĩ ấy, chúng tôi muốn
chỉ ra trong bài viết này những lý do để
Trung tâm nên coi việc phát triển tài
2 Nghĩa là mới chỉ bắt đầu công việc này, vì được
biết: “Tính đến tháng 12 năm 2009, Viện
KHXH Việt Nam đã đào tạo được trên
1800 TS và ThS về KHXH và hiện đang
đào tạo 1300 TS và ThS trong đó có 739
TS và 561 ThS».
3 Thông tin do Mai Kim Hạnh, Phó Giám đốc phụ
trách Trung tâm này cung cấp (tháng
5/2012).
nguyên số, nhằm trở thành một thư viện
đặc thù, có chỗ đứng xứng đáng trong hệ
thống các thư viện ở cơ quan ngang Bộ
này nói riêng, ở Việt Nam nói chung.
2. Phát triển tài nguyên thư viện
số, góp phần đào tạo các chuyên gia
tương lai về KHXH
Nhằm góp phần phục vụ việc đào
tạo sau đại học ở Học viện, cần ứng dụng
những thành quả tiên tiến của công nghệ
thông tin vào hoạt động thư viện: coi việc
phát triển tài nguyên thư viện số như một
loại tài nguyên thông tin đặc thù ở Trung
tâm này, vì những lý do sau đây:
2.1. Để hoàn thành tốt các chức
năng và nhiệm vụ được giao
Phát triển tài nguyên thư viện nằm
trpng sáu nhiệm vụ chính được Trung tâm
được giao, đó là thực hiện các hoạt động
"Bổ sung và phát triển nguồn thông tin về
KHXH ở trong nước và nước ngoài nhằm
đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học tập,
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ của Học viện" và "Tổ chức xử lý, sắp
xếp, lưu trữ, bảo quản các loại tài liệu; xây
dựng hệ thống tra cứu thích hợp, thiết lập
mạng lưới truy cập và tìm kiếm thông tin
tự động hóa, xây dựng hệ thống CSDL, tạo
thuận lợi cho việc tra tìm tài liệu của cán
bộ nghiên cứu, giảng dạy và học viên của
Học viện".
Việc phát triển tài nguyên số sẽ
mang lại cho Trung tâm nét đặc trưng của
một thư viện hiện đại, bởi trong xã hội
thông tin, vốn tài liệu thu thập không nhất
thiết ở dạng giấy mà có thể / và nên là ở
dạng số hoá. Thư viện hiện đại phục vụ
giảng viên và nhất là học viên và nghiên
cứu sinh cũng hết sức dễ dàng, vì khả năng
tiếp cận với các phương tiện mang tin hiên
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012
6
đại của thế hệ nghiên cứu trẻ nay đã khác
xưa rất nhiều.
Như thế, các nhiệm vụ trên sẽ được
thực hiện tốt, nếu Trung tâm phát triển tài
nguyên thư viện số, cũng là ưu thế của một
đơn vị mới ra đời trong một cơ quan khoa
học có truyền thống lịch sử tuy mới hơn
nửa thế kỷ, nhưng có những tài liệu đã
được lưu trữ ở thư viện từ hơn một thế kỷ.
2.2. Để phát huy thế mạnh của một
thư viện “sinh sau đẻ muộn, nhưng đông
anh chị”
Là một cơ sở thư viện mới ra đời,
nguồn nhân lực và tài chính của Trung tâm
dù có được ưu tiên thì cũng còn hết sức
hạn chế, lại cần và phải đáp ứng nhu cầu
đa dạng về chuyên sâu của người dùng tin
(NDT), trong khi đã có 30 thư viện tại các
viện chuyên ngành hay khu vực (mà phần
lớn vốn là cơ sở có truyền thống đào tạo
sau đại học) và lại có Thư viện điện tử (dù
chỉ là một thư viện ảo, không xác định đối
tượng phục vụ riêng) trực thuộc Viện
KHXH Việt Nam, trong số đó đặc biệt là
Thư viện KHXH với truyền thống trăm
năm, đã lưu trữ được hàng triệu đơn vị tài
liệu [Xem; Hồ Sĩ Quý - Vương Toàn
(2010)], nhiều CSDL đã được xây dựng và
đưa vào khai thác.
Cũng cần phải nói ngay rằng tài
nguyên thông tin được sưu tập từ lâu, với
số lượng lớn và từng bước được số hóa
không chỉ có ở Thư viện KHXH mà một số
thư viện chuyên ngành hay khu vực, ví
như: Viện Văn học, Viện Sử học, Viện
Kinh tế Việt Nam, Viện Dân tộc học, Viện
Nghiên cứu Tôn giáo, và Thư viện
KHXH tại TP Hồ Chí Minh. Nhiều tài liệu
chắc chắn chỉ có ở Viện Khảo cổ học, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, Trung tâm được
giao nhiệm vụ “Liên kết và hợp tác với các
Thư viện, các cá nhân trong nước và nước
ngoài, trước hết của Viện KHXH Việt
Nam để trao đổi nguồn lực thông tin, kinh
nghiệm chuyên môn nhằm đáp ứng nhu
cầu đào tạo và nghiên cứu khoa học của
Học viện; tham gia các mạng thông tin thư
viện
Trong mối tương quan ấy, công
việc của Trung tâm là phối hợp các nguồn
lực con người và tài chính với tài nguyên
thông tin để xây dựng (những) CSDL thư
mục tích hợp. Đương nhiên, chúng ta đều
hiểu thư viện hiện đại không phải chỉ cần
dàn máy tính nối mạng, một vài CSDL
được gọi là tích hợp nhưng mới chỉ gồm
những dữ liệu được tich (từ nhiều nguồn)
mà chưa hợp được (một khi các biểu ghi
cho những tài liệu giống hệt nhau, được
tích vào những đợt nhập tin khác nhau,
vẫn nằm ở những vị trí khác nhau).
Do là một thư viên phục vụ đào tạo
sau đại học, ngoài những chuyên ngành
của Học viện KHXH, còn phải chú ý đến
những thông tin khoa học liên ngành.
Là một thư viện phục vụ đào tạo
sau đại học, Trung tâm cần xây dựng và
kết nối với các CSDL về một số chủ đề
then chốt nhất định mà KHXH và nhân
văn thường quan tâm. Ngoài phần miêu tả
thư mục, có tóm tắt và/hoặc toàn văn ở
dạng số hoá, với những tài liệu dự tính
nhiều NDT cần tham khảo và sao chụp.
Đưong nhiên, đã là CSDL thì cần có kế
hoạch thường xuyên bổ sung và cập nhật .
Nguồn thu thập được xác định là
gồm những tư liệu do các cơ quan, tổ
chức, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước
xuất bản (hoặc công bố) hiện đang được
các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trung ương
và địa phương lưu giữ, đặc biệt là luận
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012
7
văn ThS và luận án TS về KHXH và
nhân văn.
Nội dung dữ liệu thư mục rất cần có
(các) địa chỉ tài liệu,vì chúng giúp ta xác
định tài liệu có thể khai thác được tại cơ
quan lưu trữ nào, đang nằm ở chỗ/kho nào,
ký hiệu là bao nhiêu. Như thế, người cần
có thể phát huy mọi khả năng cá nhân để
tiếp cận cho được, khi Trung tâm không
thể thu thập và/hoặc chưa đủ điều kiện số
hoá toàn văn. Nếu tài liệu được biết chỉ là
của cá nhân thì ta cũng có thể chỉ rõ, vì
như vậy, người cần có thể tìm ra những
mói quan hệ riêng. Được biết, lâu nay trên
thị trường đã có không ít công trình thư
mục khá đồ sộ nhưng giá trị sử dụng còn
hạn chế: do không có yếu tố (các) địa chỉ
tài liệu nên bạn đọc khó tìm đến tài liệu
toàn văn, vì không biết nơi lưu trữ.
Tính chất đặc thù này có thể dược
thể hiện ở vốn tài liệu quý hiếm về các lĩnh
vực chuyên ngành của cơ sở đào tạo (nhờ
ưu thế được biếu tặng hay trao đổi mà ít
nơi có được, hay có nhưng thường không
đầy đủ, thiếu hệ thống, không thành bộ, đủ
tập - ở đây là do Trung tâm được quyền
“thu nhận các tài liệu do Học viện xuất
bản, công trình nghiên cứu khoa học các
cấp đã dược nghiệm thu, tài liệu các dự án,
hội nghị, hội thảo khoa học, chương trình
đào tạo, giáo trình, luận văn ThS, luận án
TS”, do có quyền “cấp giấy xác nhận đã
nộp luận văn ThS, luận án TS cho học viên
cao học và nghiên cứu sinh” được đào tạo
tại Học viện, cùng với các ấn phẩm tài trợ,
biếu tặng, tài liệu trao đổi giữa các thư
viện.
Để hấp dẫn người sử dụng, một khi
phải tồn tại trong thể thống nhất nhưng
không thể sáp nhập, nên cần duy trì tính đa
dạng trong khác biệt, Trung tâm phải thể
hiện rõ tính chất đăc thù, nhất là ở tài
nguyên thư viện số, nhằm phục vụ những
tìm kiếm thông tin cho (những) nghiên cứu
cũng đặc thù, đó là các luận văn/luận án
về KHXH và nhân văn.
Để tránh cho việc trùng lặp ngay từ
khâu lựa chọn đề tài, cũng nên thường
xuyên cập nhật thông tin về các đề tài luận
văn/luận án đã được một cơ sở đào tạo
chấp nhận và đang được tiến hành, ít nhất
là CSDL toàn bộ các luận văn và luận án
về KHXH đã được bảo vệ từ trước đến nay
(tại các cơ sở đào tạo nay thuộc Học viện
và các cơ sở đào tạo khác cũng có (các)
chuyên ngành này và các chuyên ngành có
liên quan) gồm những thông tin thư mục,
tóm tắt và cả nguyên văn (full text) - có
thể hoàn thiện dần dần, nhưng thông tin
cung cấp phải luôn chính xác. Cần lưu ý
rằng một CSDL dù được thực hiện tổt đến
đâu thì vẫn cần có ngay kế hoạch (và cùng
với nó là nguồn tài chính) cho việc bổ
sung và cập nhật. Để thu hút những người
quan tâm, nên thông tin về các buổi bảo vệ
(dù đã được đăng báo, theo quy định).
Xin nêu một ví dụ : Trong buổi bảo
vệ chính thức luận án TS ngày 04/8/2012
tại Học viện KHXH, một thành viên của
Hội đồng cho biết thông tin về luận án này
đã khiến cho một nữ nghiên cứu sinh ở
một Học viện nọ phải thay đôi đề tài luận
án của mình (vì có sự trùng lặp hoàn toàn
ngẫu nhiên), dù đã được cơ sở đào tạo này
cho phép triển khai từ một năm nay.
2.3. Phát huy lợi thế của công
nghệ thông tin trong xã hội hiện dại
Trong đời sống xã hội hiện nay, do
những tiện ích của công nghệ thông tin
được sử dụng phổ biến, cách đánh giá của
người sử dụng đối với thư viện đã khác
trước rất nhiều. Vì thế, nếu có nói đến một
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012
8
cuộc "cách mạng trong hoạt động thư
viện" kể cũng không có gì là quá đáng!
Thật vây, một thư viện ngày nay
được NDT xem là quý không hẳn chỉ vì cơ
sở đó sở hữu (những) toà nhà đồ sộ có hệ
thống điều hoà nhiệt độ chung cho các
phòng đọc và tra cứu/tham khảo, với số
lượng rất lớn tài liệu đang lưu giữ mà
nhiều NDT phải đến tân nơi khai thác.
Giờ đây, với các phương tiện kỹ
thuật truyền thông hiện đại, ta có thể gắn
với thư viện truyền thống một thư viện
điện tử mà nhiều người có thể cùng sử
dụng khai thác, khi thư viện cho phép truy
cập từ xa, ngay cả vào kho tài nguyên
thông tin quý hiếm, có thể nói là đặc thù,
đương nhiên là với chế độ khai thác hợp
lý, kiểu như eLibraryUSA.
Như vây,Trung tâm cần hình thành
(những) kho tài nguyên thông tin đặc thù,
đáp ứng nhu cầu riêng của việc day - học ở
cơ sở đào tạo sau đại học này, đồng thời
phối hợp khai thác các nguồn tài nguyên
thông tin của các đơn vị bạn (trong và
ngoài hệ thống đại học, theo những quy
định và thoả thuận sử dụng hợp lý, ở
những mức độ khác nhau). Và đương
nhiên là thư viện nào có (những) kho tài
nguyên thông tin đặc thù, thì chính là nhờ
chúng, việc chia sẻ thông tin trở nên bình
đẳng hơn, một khi trong hợp tác các bên
cùng có lợi, và điều đó phù hợp với quy
luật của nền kinh tế thị trường.
Phát triển tài nguyên thư viện số tại
Trung tâm là cách làm khoa học, tận dụng
những thành quả hiện đại của công nghệ
thông tin, cho phép Trung tâm này trong
một thời gian ngắn nhất có thể thỏa mãn
nhu cầu của NDT, do có thể liên kết với tất
cả các cơ sở thông tin – thư viện ở Viện
KHXH Việt Nam, vốn có truyền thống
hoạt động phi tập trung hóa.
Là một thư viện phục vụ đào tạo
sau đại học, Trung tâm có thể tổ chức tốt
các dịch vụ thư viện hỗ trợ khai thác và
phát triển tài nguyên thông tin cho NDT là
các cá nhân nhà nghiên cứu chuyên sâu, vì
đây chắc chắn là những người biết đánh
giá đúng mức giá trị của thông tin (khoa
học và cập nhật), lại có năng lực tài chính
nhưng thiếu thời gian (đôi khi cũng thiếu
cả kinh nghiệm tra cứu).cho việc tìm kiếm
và khai thác kịp thời, trong một khoảng
thời gian nhất định (trước khi hoàn thành
luận văn/luận án). Như thế, Trung tâm có
thể cung cấp cả tài liệu dưới dạng số hóa
phục vụ cho nghiên cứu, ngoài việc bán
giáo trình (của Học viện và các cơ sở đào
tạo khác).
3. Kết luận
Không chỉ phục vụ người học và
giảng viên trong Học viên, khi Trung tâm
trở thành môt thư viện hiện đại, với những
tài nguyên thông tin đặc thù thì đây sẽ là
một địa chỉ tìm tin cần tiếp cận đối với các
nhà KHXH và nhân văn ở các cơ sở đào
tạo khác trong nước và thế giới - ít ra là
đối với các học giả quan tâm đến nghiên
cứu về Việt Nam.
Đương nhiên, ngoài đối tượng
chính là giảng viên và sinh viên trong Học
viện, Trung tâm muốn trở thành thư viện
sau đại học đẳng cấp quốc tế không chỉ
phục vụ quốc gia (một khi các chuyên gia
trong nước muốn có được những thông tin
chính thức và đầy đủ) mà còn có đủ khả
năng đáp ứng nhu cầu thông tin của đồng
nghiệp và sinh viên quốc tế (trong những
chương trình hợp tác nghiên cứu và giảng
dạy) giữa các tổ chức đại học quốc gia
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012
9
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Sĩ Quý - Vương Toàn chb (2011).- Thư viện khoa học xã hội. Hà Nội, Nxb Khoa
học xã hội, 392 tr.
2. Vương Toàn (2007).- Thư viện khoa học với tài nguyên thông tin đặc thù. "Bản tin
Thư viện - Công nghệ thông tin". Trường ĐH Khoa học Tư nhiên TP Hồ Chí Minh,
tháng 10, tr. 9-13.
3. Vương Toàn (2010).- Phi tập trung hoá hoạt động thông tin - thư viện và chia sẻ tài
nguyên thông tin ở Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. "Bản tin Thư viện - Công nghệ
thông tin". Trường ĐH Khoa học Tư nhiên TP Hồ Chí Minh, tháng 12, tr. 38-43.
4. Vương Toàn (2012).- Dịch vụ thư viện: Kinh nghiệm về hỗ trợ khai thác và phát triển
tài nguyên thông tin. Bản tin Thư viện - Công nghệ thông tin, tháng 6, tr. 32-38.
và quốc tế hoặc giữa các chuyên gia hoặc
nhà khoa học.
Ngoài nỗ lực của đội ngũ cán bộ tại
Trung tâm, cần tranh thủ sự ủng hộ của
bên ngoài và bên trong Viện KHXH Việt
Nam đến mức tối đa để tạo điều kiện thuân
lợi nhất cho việc thực hiện (những) dự án
khả thi nhất. Với một cơ sở thư viện non
trẻ, đôi khi việc tranh thủ sự cộng tác của
những người có kinh nghiệm không chỉ là
cần thiết mà có tính kinh tế cao, bởi có thể
tiết kiệm thời gian và ngân sách hơn nhiều.
Trong những hoàn cảnh nhất định, những
gợi ý và đề xuất hợp lý của (nhiều) chuyên
gia với cấp trên hoặc đối tác thường mang
tính khách quan nên dễ được chấp nhận
hơn (chẳng hạn như việc một Trung tâm
thư viện đại học lớn đã nhận được một dự
án không nhỏ của quỹ hỗ trợ thư viện từ
nước ngoài, sau khi Ban Giám đốc và nhà
tài trợ được nghe những phân tích của các
chuyên gia tư vấn). Viết đến đây, tôi liên
tưởng đến nhận xét rất xác đáng của một
nữ ThS thư viện học: “Chính sách mà lãnh
đạo đề ra cho một cơ quan đôi khi làm cho
cơ quan đó hoặc phát triển hoặc dậm chân
tại chỗ, thậm chí còn trở thành lạc hậu so
với thời đại”.
Hà Nội
Tháng 8/2012
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai2_8987_2151462.pdf