Tài liệu Phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại tiểu vùng duyên hải phía đông đồng bằng Sông Cửu Long - Diệp Thanh Tùng: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
29Số 24 - Tháng 12 năm 2018
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO MÔ HÌNH
TĂNG TRƯỞNG XANH TẠI TIỂU VÙNG DUYÊN HẢI
PHÍA ĐÔNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Diệp Thanh Tùng
Đại học Trà Vinh; Email: dttung@tvu.edu.vn
Lê Thị Thu Diềm
Đại học Trà Vinh; Email: ltdiem@tvu.edu.vn
Tiểu vùng Duyên hải phía Đông đồng bằng sông Cửu Long gồm những tỉnh có thế mạnh về phát triển nông
nghiệp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây ở vùng này việc
sử dụng các nguồn lực chưa thực sự hiệu quả. Những thách
thức trong quá trình phát triển nông nghiệp của bối cảnh
toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, thách thức môi trường của
tiểu vùng Duyên hải phía Đông, cho thấy cần thiết phải có
phương án sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn trong tương
lai, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp theo mô hình tăng
trưởng xanh. Bài viết phân tích những thách thức trong phát
triển nông nghiệp hiện nay, qua đó đề xuất một số giải pháp
phát triển nông nghiệp theo m...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 427 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại tiểu vùng duyên hải phía đông đồng bằng Sông Cửu Long - Diệp Thanh Tùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
29Số 24 - Tháng 12 năm 2018
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO MÔ HÌNH
TĂNG TRƯỞNG XANH TẠI TIỂU VÙNG DUYÊN HẢI
PHÍA ĐÔNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Diệp Thanh Tùng
Đại học Trà Vinh; Email: dttung@tvu.edu.vn
Lê Thị Thu Diềm
Đại học Trà Vinh; Email: ltdiem@tvu.edu.vn
Tiểu vùng Duyên hải phía Đông đồng bằng sông Cửu Long gồm những tỉnh có thế mạnh về phát triển nông
nghiệp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây ở vùng này việc
sử dụng các nguồn lực chưa thực sự hiệu quả. Những thách
thức trong quá trình phát triển nông nghiệp của bối cảnh
toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, thách thức môi trường của
tiểu vùng Duyên hải phía Đông, cho thấy cần thiết phải có
phương án sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn trong tương
lai, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp theo mô hình tăng
trưởng xanh. Bài viết phân tích những thách thức trong phát
triển nông nghiệp hiện nay, qua đó đề xuất một số giải pháp
phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại
tiểu vùng Duyên hải phía Đông.
Abstract
The East Coastal sub-region of the Mekong delta consists
of provinces with strong agricultural development. However,
the use of resources in this area in recent years has not been
effective. Challenges in the development of agriculture
in the context of globalization, climate change and the
environmental challenge of the East Coastal sub-region
suggest a need for more efficient use of resources in the
future, especially in the field of agriculture under the green
growth model. This article analyzes the current challenges
in agricultural development, thereby proposing a number of
options for agricultural development under the green growth
model in the East Coastal sub-region.
1. Đặt vấn đề
Tiểu vùng Duyên Hải phía Đông (tiểu vùng
DHPĐ) bao gồm 4 tỉnh: Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh
Long và Trà Vinh thuộc vùng Đồng Bằng Sông Cửu
Long (ĐBSCL), có tốc độ phát triển kinh tế khá
cao so với trung bình vùng trong những năm gần
đây (năm 2017 tăng trưởng kinh tế của Trà Vinh
là 12,09%, Tiền Giang là 7,4%, Bến Tre là 7,23%,
Vĩnh Long là 5,62%)1. Đây là những tỉnh có thế
mạnh về phát triển nông nghiệp2, được thiên nhiên
ưu đãi với gần 70% diện tích đất phù sa, hệ thống
1. Tổng hợp từ báo cáo năm 2017 của các tỉnh thuộc tiểu vùng
2. Niên giám thống kê 2016, Khu vực kinh tế nông-lâm-thủy sản chiếm 34,2%
GDP toàn tiểu vùng Duyên hải phía Đông.
sông ngòi nối liền các tỉnh, là cửa ngõ ra biển đông,
với tổng dân số hơn 5 triệu người và có tổng diện
tích gần 8.788,9km2, chiếm 21,5% tổng diện tích
đất tự nhiên, 20% tổng diện tích đất nông nghiệp
của toàn vùng ĐBSCL. Trong đó có tới trên 85%
diện tích đất là dùng trong sản xuất nông nghiệp.
Hơn nữa, Tiểu vùng DHPĐ dẫn đầu cả vùng ĐB-
SCL về sản lượng thu hoạch cây ăn quả, số lượng
vật nuôi cũng khá phát triển và đóng vai trò quan
trọng cho ngành chăn nuôi ĐBSCL.
Tuy nhiên, vấn đề sử dụng các nguồn lực đang
có dấu hiệu suy giảm và chưa thực sự hiệu quả.
Các yếu tố đầu vào qui trình sản xuất nông nghiệp
Thông tin chung
Ngày nhận bài: 25/10/2018
Ngày phản biện: 29/10/2018
Ngày duyệt đăng: 9/11/2018
Title
DEVELOPMENT OF AGRICULTURE
BY MODELING GREEN GROWTH
IN EAST COASTAL SUB-REGION OF
THE MEKONG RIVER DELTA
Từ khóa
Phía đông Đồng bằng sông Cửu Long;
Tiểu vùng duyên hải phía đông Đồng
bằng sông Cửu Long; Mô hình tăng
trưởng xanh, Phát triển nông nghiệp,
nông thôn; Nguồn lực.
Keywords
East of the Mekong River Delta; The
East Coastal sub-region of the Mekong
river delta; Green growth model;
Agricultural and dural development;
Power.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
30 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
và thủy sản chưa mang tính bền vững. Bên cạnh
đó, các tỉnh tiểu vùng DHPĐ còn đương đầu với
khó khăn, thách thức do biến đổi khí hậu, sản xuất
nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản bị đe dọa và
đời sống nông dân nghèo trong khu vực sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng. Có thể thấy rõ, do việc xây
dựng các đập thủy điện của các nước thượng nguồn
như Campuchia, Lào, Thái Lan và Trung Quốc
nên nguồn nước ngọt đổ về từ thượng nguồn sông
Mekong hạn chế, gây ra tình trạng hạn hán. Tình
trạng đất nhiễm mặn ngày càng nghiêm trọng ở một
số tỉnh, điển hình, tại tỉnh Trà Vinh hiện nay, nước
mặn dâng cao trên sông Tiền và sông Hậu và xâm
nhập sâu hơn 60km; toàn tỉnh bị nước mặn 6 - 8%
bao vây3; nước trong nội đồng đang cạn kiệt, không
đủ bơm tát trong khi ban ngày nắng gắt kéo dài đã
khiến nhiều diện tích lúa bị chết khô, ngộ độc hữu
cơ. Đến nay toàn tỉnh đã có gần 3.000ha lúa bị mất
trắng, trong khi 38.000ha đông xuân không đủ nước
bơm tát. Tại Bến Tre, nước ngọt là vấn đề khó khăn
nhất, hiện nay, địa phương có trên 60.000 hộ dân
phải dùng nước sinh hoạt nhiễm mặn. Nhiều nghiên
cứu của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường chỉ ra tình
trạng suy giảm về nguồn nước ngầm và sụt lún đất,
thách thức về môi trường diễn ra phổ biến ở các tỉnh
tiểu vùng DHPĐ.
Xuất phát từ những thách thức trong quá trình
phát triển nông nghiệp trong bối cảnh toàn cầu quá,
biến đổi khí hậu, thách thức môi trường của tiểu
vùng DHPĐ, cho thấy cần thiết phải có phương án
sử dụng các nguồn lực nhằm đảm bảo hiệu quả,
năng suất và chất lượng hơn trong tương lai.
2. Cơ sở lý thuyết về tăng trưởng xanh và mô
hình tăng trưởng xanh trong nông nghiệp
Tăng trưởng xanh là một vấn đề thu hút sự quan
tâm đặc biệt của nhiều quốc gia và tổ chức trên thế
giới bởi đây được xem là mô hình tăng trưởng của
tương lai. Khái niệm “tăng trưởng xanh” có nguồn
gốc từ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Tăng
trưởng xanh được định nghĩa là kết hợp hài hòa tăng
trưởng kinh tế với sự bền vững môi trường, đồng
thời nâng cao hiệu quả sinh thái của tăng trưởng
kinh tế và tăng cường sự phối hợp giữa yếu tố kinh
tế và môi trường (UNDESA, 2012). Năm 2009,
nước thành viên OECD đã thông qua tuyên bố nhận
định rằng xanh hóa (green) và tăng trưởng (growth)
có thể đi cùng với nhau, theo đó chiến lược tăng
trưởng xanh mà có thể tích hợp các khía cạnh kinh
tế, môi trường, công nghệ, tài chính và phát triển
vào một khuôn khổ toàn diện. Tại Việt Nam, Hội
nghị cấp cao ASEAN năm 2010 đã thông qua chính
sách phục hồi và phát triển bền vững, trong đó
nhấn mạnh đến chiến lược dài hạn nhằm đảm bảo
sự bền vững về môi trường và sử dụng tài nguyên
thiên nhiên nhằm đa dạng hóa và bảo đảm khả năng
3. Theo trung tâm dự báo khí tượng thủy văn tỉnh Trà Vinh.
Trích: https://vov.vn/tin-24h/tra- vinh-ben-tre-no -luc-tiep -nuoc -khac -phuc
-han-man-4 89516.vov
phục hồi kinh tế. Theo quan điểm của World Bank
(2012), tăng trưởng xanh là mô hình tăng trưởng
hiệu quả, sạch và có tính đàn hồi (resilient) - hiệu
quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, sạch
trong giảm thiểu tác động gây ô nhiễm môi trường,
và có tính đàn hồi, chống chịu được trước các thiên
tai, thảm họa thiên nhiên (natural hazards) do tôn
trọng giới hạn tuyệt đối của môi trường sinh thái.
Nhìn chung, các định nghĩa đều nhấn mạnh đến
phát triển kinh tế nhưng vẫn đảm bảo môi trường,
hiệu quả sử dụng tài nguyên, đối phó với biến đổi
khí hậu, cộng hưởng các công nghệ và dịch vụ, sản
phẩm xanh từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản
xuất và chất lượng xã hội.
Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên
Hiệp Quốc (FAO, 2012), khái niệm tăng trưởng
xanh trong nông nghiệp được xem xét trong khuôn
khổ của Xanh hóa nền kinh tế với Nông nghiệp
(Greening the Economy with Agriculture - GE).
Theo đó, xanh hóa nền kinh tế với Nông nghiệp
(GEA) bao gồm các nội dung: (i) đảm bảo an ninh
lương thực và dinh dưỡng thông qua sự cân bằng
thích hợp giữa sản lượng sản xuất và thương mại,
(ii) đảm bảo sinh kế ở khu vực nông thôn, (iii) sử
dụng kiến thức truyền thống và khoa học để duy trì
bền vững các hệ sinh thái.
Việc nghiên cứu mô hình tăng trưởng xanh trong
nông nghiệp trong bối cảnh hiện nay là thật sự cần
thiết, góp phần điều chỉnh trong sử dụng nhân lực,
nguồn lực tài chính trong ngắn hạn, đồng thời có
tác động tích cực trong củng cố về môi trường bền
vững, tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội trong
dài hạn.
3. Thực trạng và những thách thức trong
phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng
xanh
Tiểu vùng DHPĐ là nơi có sản lượng lúa và thủy
sản lớn nhất vùng ĐBSCL. Trong thực tế, các tỉnh
trong tiểu vùng DHPĐ cũng đã chủ động xây dựng,
thực hiện các quy hoạch phát triển nông nghiệp,
nuôi trồng thủy sản, vùng sản xuất lúa, chiến lược
phát triển nông thôn, chương trình nông thôn mới...
Đến nay Tiểu vùng DHPĐ đã đạt được những kết
quả đáng tự hào như: thuộc nhóm các địa phương
dẫn đầu ĐBSCL về sản lượng cây ăn trái, sản lượng
thủy sản nuôi trồng và giá trị xuất khẩu hàng nông
thủy sản. Về trồng trọt, vùng DHPĐ đóng góp 3.487
ngàn tấn (khoảng 14% sản lượng ĐBSCL), cây ăn
quả có diện tích 157 ngàn ha (chiếm 51% tổng diện
tích trồng ĐBSCL), dừa có sản lượng 1.014 ngàn
trái (chiếm 94% tổng sản lượng ĐBSCL). Lĩnh
vực chăn nuôi của tiểu vùng DHPĐ cũng khá phát
triển, chiếm 50% sản lượng heo, 45% sản lượng gia
cầm, 64% sản lượng bò trong ngành chăn nuôi của
ĐBSCL. Về thủy sản, sản lượng khai thác đạt 347
ngàn tấn (chiếm 27% sản lượng ĐBSCL) và sản
lượng nuôi trồng đạt 613 ngàn tấn (15% sản lượng
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
31Số 24 - Tháng 12 năm 2018
ĐBSCL)4. Tuy nhiên, đi kèm với những thành tựu trên là những thách thức về môi trường, cùng những áp
lực từ tình trạng biến đổi khí hậu đang diễn ra, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển nông nghiệp
và chất lượng cuộc sống của người dân tiểu vùng DHPĐ.
Biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu là quá trình nhiệt độ tăng lên, thay đổi mực nước biển, sự suy giảm tổng lượng mưa,
dẫn đến gia tăng quá trình xâm nhập mặn, từ đó các vấn đề cấp thoát nước, xử lý môi trường gặp khó khăn
(Bảng 1)
Bảng 1: Nhiệt độ trung bình khá cao các tháng trong năm tại ĐBSCL
Nguồn: Bộ Khoa học và Công Nghệ (2016)
Nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô sẽ gia tăng từ 33-350C lên 35-370C (hình 1)
Hình 1: Sự thay đổi nhiệt độ lớn nhất trung bình thập niên 2030 so với thập niên 1980
Nguồn: Lê Anh Tuấn (2009)
Các ước lượng cho thấy nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng 1-30C, kết hợp với nồng độ cao hơn của
khí carbon dioxide và thay đổi lượng mưa có thể làm giảm sản lượng nông nghiệp ở những nước nằm ở
vĩ độ thấp. Nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng vượt quá 30C, có thể làm giảm năng suất ở mọi khu vực
trên thế giới (Parry và cộng sự, 2007). Ngoài tác động tiêu cực làm giảm sản lượng nông nghiệp, biến đổi
khí hậu làm gia tăng tần suất các sự kiện khí hậu cực đoan như stress nhiệt, hạn hán, lũ lụt, cũng như tăng
nguy cơ cháy và bùng phát dịch hại và mầm bệnh; do đó, làm tăng sự bất ổn của sản xuất nông nghiệp trên
toàn cầu (OECD, 2012). Việc suy giảm trữ lượng nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong
điều kiện nắng nóng kéo dài, nhu cầu nước của cây trồng cao, cùng với tác động của nước biển dâng lên,
ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng và chất lượng cây ăn quả, lúa, và nuôi trồng thủy sản.
4. Dự thảo tầm nhìn chiến lược Đề án “Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng Duyên hải phía Đông”
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
32 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
Tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống
người dân và phát triển kinh tế xã hội sẽ được thể
hiện qua sơ đồ 1
Sơ đồ 1: Chuỗi dây chuyền tác động của
hiện tượng biến đổi khí hậu lên hệ sinh thái, sản
xuất và đời sống
Nguồn: Lê Anh Tuấn (2009)
Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không
bền vững với môi trường
Trong sản xuất nông nghiệp, một trong những
vấn đề nổi cộm là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật không bền vững với môi trường. Hàng năm có
hàng chục ngàn tấn thuốc bảo vệ thực vật được sử
dụng ở vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, tỷ lệ hấp thụ qua
cây trồng chỉ khoảng 20%, bốc hơi 15-20%, còn lại
thấm vào đất và hòa vào nước, gây ra ô nhiễm môi
trường trầm trọng (Bộ Tài nguyên và Môi trường,
2012). Đối với người nông dân trực tiếp phun xịt,
việc tiếp xúc cường độ cao với thuốc bảo vệ thực
vật mà thiếu các biện pháp bảo hộ lao động cần thiết
gây nguy cơ nhiễm độc, ảnh hưởng lâu dài đến sức
khỏe, có thể dẫn đến các bệnh như ung thư, rối loạn
nội tiết tố, bệnh ngoài da, bệnh phổi,...Một bộ phận
nông dân thường có xu hướng sử dụng các thuốc
bảo vệ thực vật không rõ nguồn gốc với giá rẻ và
công dụng mạnh mà ít quan tâm đến tính an toàn
cho nông sản, bản thân, và môi trường.
Ô nhiễm nguồn nước
Nước thải từ sản xuất công nghiệp phần lớn
chưa được xử lý, làm cho sông rạch gần các đô
thị vùng ĐBSCL như An Giang, Vĩnh Long, Cần
Thơ, Long An, Hậu Giang, Cà Mau,... đều có hàm
lượng các chất thải BOD, SS, N- NH3, amoniac,
coliforms,... cao hơn tiêu chuẩn cho phép, làm ô
nhiễm nghiêm trọng các sông, kênh rạch ĐBSCL
(2013). Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường còn gia
tăng do hoạt động nông nghiệp. Mỗi năm, nông dân
ĐBSCL sử dụng đến hàng ngàn tấn thuốc bảo vệ
thực vật, lượng phân bón dư thừa trong sản xuất lúa
tại ĐBSCL đã phát thải gần 140.000 tấn/năm và ô
nhiễm môi trường trong ngành thủy sản cũng đang
ở mức báo động với khoảng 5.000ha mặt nước nuôi
cá tra, ước tính mỗi năm có gần 1 triệu tấn chất thải
có nguồn gốc từ thức ăn nuôi cá trong các ao thải
ra môi trường, đã ảnh hưởng không nhỏ đến môi
trường, sức khỏe của chính bà con.
Thêm vào đó, nguồn nước dưới đất có vai trò
đặc biệt trò quan trọng cho cấp nước sinh hoạt đô
thị, nông thôn, công nghiệp ở ĐBSCL (80% dân
số nông thôn sử dụng nguồn nước dưới đất, nhiều
đô thị phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nước dưới
đất, như các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,
Trà Vinh...). Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn
nước sạch của người dân ĐBSCL còn hạn chế và
gặp nhiều khó khăn với tỷ lệ hộ gia đình sử dụng
nước mưa làm nguồn nước ăn uống chính chiếm
đến 14,6% (cao hơn so với mặt bằng chung của cả
nước 12,8%). Ngoài ra, có 17,9% hộ gia đình chọn
nguồn nước sinh hoạt khác, chủ yếu trong bối cảnh
ĐBSCL là nước từ sông, kênh rạch không đảm bảo
vệ sinh (Tổng Cục Thống kê, 2010).
Suy giảm chất lượng nguồn nước ngầm
Hiện trạng sử dụng nước ngầm tại Trà Vinh cho
các hoạt động nông nghiệp (canh tác hoa màu) chăn
nuôi heo, thuỷ sản (nuôi tôm), công nghiệp- tiểu thủ
công nghiệp (chế biến thuỷ sản, nước lọc, nước đá);
dịch vụ (nhà hàng, khách sạn) và sinh hoạt (bệnh
viện, trường học, cơ quan,...) cho thấy nguồn nước
ngầm được người dân khai thác liên tục trên khu
vực đất trồng cát trong thời gian khoảng 6 tháng
mùa khô cho thâm canh màu đang ở mức báo động.
Số lượng nước ngầm khai thác cho sinh hoạt và
dịch vụ liên tục tăng hàng năm. Kết quả nghiên cứu
của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sánh (2010) cho
thấy lượng nước sử dụng trong năm 2004 là khoảng
80.000 m3 /tháng và lượng nước tiêu thu liên tục
tăng trung bình/tháng là 180.000 m3 /tháng và hơn
200.000 m3 /tháng tương ứng với năm 2006 và năm
2008. Tốc độ gia tăng khai thác và sử dụng nước
ngầm tăng gấp 10 lần trong khoảng 2 năm 2004-
2006. Tổng khối lượng nước sinh hoạt của cả năm
2004 là 1 triệu m3 /năm, trong khi đó lượng nước
sinh hoạt năm 2008 là hơn 2.5 triệu m3 /năm. Chất
lượng nước ngầm đối với các chỉ tiêu hóa lý đều đạt
tiêu chuẩn (TCVN 5944-1995). Tuy nhiên, trong
nước ngầm tại hầu hết các điểm trên địa bàn tỉnh
đều nhiễm vi sinh vật Coliform khá cao. Công tác
quản lý và sử dụng nguồn nước ngầm đối với chính
quyền địa phương chưa chặt chẽ do nhiều vướng
mắc trong tổ chức thực hiện và quản lý. Hiện tại
và tương lai các thách thức cho người dân đó là sự
sụt giảm mực nước ngầm do khai thác gần như quá
mức. Người dân cần thiết được tiếp cận với các biện
pháp kỹ thuật nhằm giảm chi phí bơm tưới và tiết
kiệm nước nhằm bảo về tài nguyên nước ngầm bền
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
33Số 24 - Tháng 12 năm 2018
vững (Nguyễn Văn Sánh, 2010).
Thách thức về đất nhiễm mặn
Vùng DHPĐ là vùng có tài nguyên đất đai đa
dạng với tỷ trọng đất phù sa chiếm 26,4% tổng diện
tích đất tự nhiên toàn vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, diện
tích đất nhiễm mặn của tiểu vùng cũng khá lớn, tập
trung tại Bến Tre (24,1%), Tiền Giang (14,6%)
và Trà Vinh (25,7%). Bên cạnh đó, đất phèn cũng
khá lớn, chiếm khoảng 17,8% diện tích toàn vùng
(trong đó Vĩnh Long (29,7%), Tiền Giang (19,4%)
và Trà Vinh (18%). Trong đó, toàn ĐBSCL có đến
92 ngàn ha diện tích rừng ngập mặn (Cà Mau chiếm
70,2%, còn lại phân bố rải rác dọc theo ven biển các
tỉnh Long An, Bến Tre, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc
Trăng, Bạc Liêu và Tiền Giang (Tổng Cục Thống
kê, 2017). Việc tăng diện tích đất nhiễm mặn sẽ dẫn
đến giảm hiệu suất sử dụng đất cũng như làm gia
tăng tăng giá thành chi phí cho cải tạo đất. Bên cạnh
đó, xâm nhập mặn cũng làm biến đổi hệ sinh thái
ven biển
Thực tiễn trên cho thấy thách thức về môi
trường và sự suy giảm về chất lượng các nguồn lực
tự nhiên đã kéo theo là môi trường sống của người
dân ngày càng suy thoái trầm trọng. Thật vậy, sự ô
nhiễm này thách thức chất lượng tăng trưởng, chất
lượng cuộc sống người dân và tính bền vững của
môi trường. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển bền vững
nông nghiệp thì rất cần có các giải pháp để nhân
rộng mô hình tăng trưởng xanh trong nông nghiệp.
Qua phân tích thực trạng về phát triển nông
nghiệp như trên cho thấy tiểu vùng DHPĐ đang
theo đuổi mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào
các yếu tố đầu vào là đất đai, nguồn nước sông
Mekong, nguồn lực tự nhiên. Bên cạnh điều kiện
sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên, giá cả
các nguyên liệu đầu vào biến động theo xu hướng
ngày càng tăng, qui trình sản xuất nông nghiệp và
thủy sản chưa mang tính bền vững, khả năng gây
hại môi trường còn cao đã bộc lộ quá nhiều bất cập
trong khi những sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy
sản thế mạnh của tiểu vùng DHPĐ đang phải chịu
sức ép lớn từ cạnh tranh ở cả thị trường nội địa và
thị trường quốc tế. Điều này tạo áp lực đòi hỏi tiểu
vùng DHPĐ phải chuyển đổi sang mô hình tăng
trưởng mới, hiệu quả và bền vững hơn cho tỉnh, một
mô hình tăng trưởng theo chiều sâu theo điều kiện
đặc thù của tỉnh.
Trong bối cảnh tái cơ cấu kinh tế và đổi mới
môi hình tăng trưởng, tiểu vùng DHPĐ cũng phê
duyệt các đề án tái cơ cấu ngành, tái cơ cấu nền
kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng
lực cạnh tranh... Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Bến
Tre đã ban hành Chương trình hành động số 604/
CTr-UBND thực hiện đề án tái cơ cấu kinh tế gắn
với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh
tranh tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016-2020, tỉnh Vĩnh
Long ban hành kế hoạch thực hiện Đề án cơ cấu
lại ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long theo hướng
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững giai
đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030, UBND
tỉnh Tiền Giang đã có Kế hoạch hành động 83/KH-
UBND tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng
xác định sản phẩm chủ lực, có lợi thế để tập trung
đầu tư về khoa học - công nghệ, cơ sở hạ tầng, hạ
tầng kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất, hình thành chuỗi
giá trị các ngành hàng để tạo bước đột phá về sức
cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền
vững, góp phần xây dựng nông thôn mới. Tỉnh Trà
Vinh cũng ban hành kế hoạch thực hiện đề án tái cơ
cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị
gia tăng và phát triển bền vững. Tuy nhiên, các đề
án trên chỉ mới dừng lại ở việc thúc đẩy dịch chuyển
tỷ trọng đóng góp về lượng giữa các ngành mà chưa
đề cập đến mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, gắn
với những thách thức về biến đổi khí hậu. Do đó,
việc đề xuất các giải pháp để thúc đẩy phát triển
nông nghiệp theo mô hình là thật sự cần thiết và qua
đó đảm bảo phát triển nông nghiệp bền vững của
tiểu vùng DHPĐ trong điều kiện thích ứng với biến
đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan, đó
là mô hình tăng trưởng xanh.
4. Một số giải pháp phát triển nông nghiệp
theo mô hình tăng trưởng xanh
Những thách thức trên đặt ra yêu cầu phải
hướng đến một nền sản xuất nông nghiệp xanh hơn,
bền vững hơn và hướng đến tất cả mọi người. Theo
“Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ
2011-2020 và tầm nhìn đến 2050” được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt năm 2012, tập trung vào 3
nhiệm vụ chiến lược: (i) giảm cường độ phát thải
khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo; (ii) xanh hóa sản xuất; (iii) xanh
hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Trên
cơ sở chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và
những thách thức trong phát triển nông nghiệp của
tiểu vùng DHPĐ, chúng tôi xin đề xuất một số giải
pháp góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo
mô hình tăng trưởng xanh, cụ thể như sau:
4.1. Nhóm giải pháp thể chế, chính sách, quản
lý nhà nước
Về thể chế, chính sách, quản lý nhà nước đối với
phát triển bền vững nông nghiệp theo mô hình tăng
trưởng xanh, một số giải pháp đề xuất như sau:
- Tăng cường hợp tác toàn diện, liên tỉnh trong
tiểu vùng DHPĐ, vùng ĐBSCL và toàn khu vực
phía nam trên nhiều mặt, trên cơ sở tài nguyên
nước, đảm bảo cân bằng nước phù hợp với các xu
thế diễn biến nguồn nước trong tương lai và phải
bảo đảm tính tổng thể, thống nhất. Giải pháp cấp
nước quy mô vùng bằng cách kết hợp giữa các nhà
máy cấp nước ở các tỉnh, đảm bảo hài hòa, phù hợp
với điều kiện nguồn nước của khu vực.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
34 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
- Thực hiện rà soát lại các quy hoạch liên quan
bao gồm các quy hoạch hệ sinh thái rừng ngập mặn
ven biển, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát
triển các ngành nghề. Cụ thể rà soát thống nhất
quản lý giữa lâm nghiệp, thủy lợi, đê điều, thủy sản;
đánh giá thực trạng phát triển các ngành nghề nuôi
trồng thủy sản ở các vùng ven biển như nuôi sò,
vạng, các loài có giá trị kinh tế cao để dần thay thế
nghề nuôi trồng thủy, hải sản trong vùng rừng ngập
mặn; đánh giá thực trạng nông nghiệp hiện tại về
nguồn lực, năng suất và tiềm năng tương lai; đánh
giá các nguồn tài nguyên kinh tế, các tác động tới
môi trường của các mô hình kinh tế nông nghiệp
đã thực hiện trước đây nhằm rút ra bài học kinh
nghiệp, tập trung thực hiện, phát triển những mô
hình hiệu quả, xóa bỏ, thay thế những mô hình kém
hiệu quả.
- Tăng cường công tác quản lý sản xuất, cụ thể
có kế hoạch chủ động trong bố trí mùa vụ phù hợp
trên cơ sở các kịch bản ứng phó biến đổi khí và các
dự báo đánh giá tác động của môi trường lên vùng
sản xuất nông nghiệp.
- Có chính sách ưu tiên, phát triển, khuyến khích
hộ dân tham gia các mô hình liên kết sản xuất, bao
tiêu sản phẩm cây trồng sạch, theo các tiêu chí GAP
(Global Gap). Hỗ trợ khuyến khích phát triển các
hợp tác xã nông nghiệp xanh, liên kết hợp tác giữa
các hợp tác xã trên địa bàn tỉnh, trong tiểu vùng,
trên cơ sở chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị các sản
phẩm nông nghiệp thế mạnh của từng địa phương
cũng như của toàn tiểu vùng. Nhà nước đóng vai trò
chủ đạo, mạnh mẽ, là trung gian kết nối giữa nông
dân và nông dân, giữa nông dân và doanh nghiệp,
đảm bảo hoạt động ổn định của các mắc xích trong
chuỗi cung ứng, chuỗi liên kết giữa các hợp tác
xã, các đối tượng xã hội tham gia phát triển nông
nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh. Thực hiện
liên kết “4 nhà” để đáp ứng các điều kiện cần và đủ
xây dựng nền nông nghiệp hiện đại.
- Tập trung rà soát lại hệ thống hạ tầng kỹ thuật
phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt,
cần hướng tới những công trình đảm bảo được
mục tiêu phát triển nông nghiệp xanh, sạch. Có kế
hoạch xây dựng hạ tầng đảm bảo phục vụ phát triển
sản xuất hiện đại, tăng năng xuất, chất lượng theo
hướng xanh, chuẩn quốc tế.
- Quy hoạch một cách đồng bộ, hoàn chỉnh
trong khâu bố trí, xây dựng các khu công nghiệp,
sao cho đảm bảo không gây ra những hậu quả với
môi trường.
- Đưa ra các quy định chế tài xử lý những đối
tượng cố tình gây ô nhiễm, nhất là các cơ sở sản
xuất cố tình không chịu xử lý nước thải trước khi
đổ ra sông, rạch.
- Có kế hoạch đào tạo, nâng cao năng lực kỹ
thuật chuyên môn cho cán bộ quản lý, đáp ứng kịp
thời nhu cầu trong phát triển nền sản xuất nông
nghiệp xanh.
- Có kế hoạch tài chính nhằm đảm bảo đủ nguồn
ngân sách trong các chương trình mục tiêu cho phát
triển nông nghiệp xanh.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin cho
các hoạt động tăng trưởng xanh, tuyên truyền nâng
cao nhận thức về tăng trưởng xanh đến các cơ quan,
công sở, các tổ chức xã hội đại diện cho các nhóm
cộng đồng trong xã hội.
- Tạo trang web, cung cấp thông tin các dữ liệu
được thu thập về sản xuất nông nghiệp xanh trong
đó bao gồm các dữ liệu về phía cung, cầu trong phát
triển nông nghiệp xanh. Cụ thể cung cấp các thông
tin liên quan về đất, nước, phân bón, giống, kỹ thuật
sản xuất, phương pháp nuôi trồng, các mô hình sản
xuất hiệu quả, thông tin của các doanh nghiệp thu
mua, đầu ra, các doanh nghiệp cung ứng các dịch vụ
nông nghiệp. Coi đây như một diễn đàn, đóng vai
trong cung cấp thông tin, kết nối tất cả các nhà trong
nền sản xuất của cách mạng 4.0.
- Xây dựng các kế hoạch về thông tin, truyền
thông nhằm tuyên truyền, nâng cao nhận thức, đưa
thông tin về tình trạng biến đổi khí hậu, về tăng
trưởng xanh đến toàn bộ các tầng lớp xã hội.
4.2. Nhóm giải pháp đối với các hộ dân sản
xuất nông nghiệp
- Nâng cao nhận thức của các hộ dân về biến đổi
khí hậu, nông nghiệp xanh. Cụ thể hóa các chương
trình hành động về các hoạt động nông nghiệp xanh
qua các hội chợ, hội thảo, buổi sinh hoạt hợp tác
xã, các buổi tiếp xúc trực tiếp của các cấp quản lý
chính quyền với người dân. Phổ biến về thực trạng
biến đổi khí hậu, hậu quả, diễn biến thiên tai, các
hậu quả môi trường do các phương thức sản xuất
truyền thống và truyền bá những nhận thức mới về
nâng cao chất lượng đời sống, bảo vệ môi trường,
tăng chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập qua các
mô hình sản xuất theo phương pháp xanh trong tăng
trưởng xanh.
- Mở các lớp tập huấn miễn phí, khuyến khích
các nhóm hộ dân tham gia để nâng cao nhận thức,
kiến thức về các phương pháp sản xuất xanh.
- Đẩy mạnh liên kết cộng đồng trong các sản
xuất, liên kết giữa các hộ nông dân nhằm chia sẻ
thông tin, nhân rộng các mô hình sản xuất xanh.
- Hỗ trợ các hộ dân tham gia các chương trình
ưu đãi vay vốn, ưu đãi chính sách trong mô hình
tăng trưởng xanh về thuốc bảo vệ thực vật, về nước,
về đất, về phân bón, giống và phương thức sản xuất.
4.3. Nhóm giải pháp đối với các doanh nghiệp
- Đẩy mạnh thu hút đầu tư, có chính sách ưu
đãi về thuế, về vay vốn đối với các ngành nghề liên
quan trong chuỗi giá trị nông nghiệp như các dự án
sản xuất chế biến nông sản, các doanh nghiệp cung
cấp các dịch vụ nông nghiệp, bao tiêu sản phẩm,
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
35Số 24 - Tháng 12 năm 2018
phát triển thị trường nông nghiệp.
- Có các chương trình liên kết, đưa doanh nghiệp
với hộ nông dân trực tiếp làm việc với nhau, nhằm
rút ngắn các giai đoạn trung gian trong chuỗi cung
ứng, giảm giá thành sản phẩm nông nghiệp, nâng
cao hiệu quả kinh tế. Đặc biệt ưu tiên tổ chức các
chương trình hội thảo, tọa đàm và ra mắt phẩm
nông nghiệp xanh.
4.4. Nhóm giải pháp khác
Xây dựng mô hình sản xuất lúa hữu cơ trong hệ
thống canh tác lúa - tôm theo hướng liên kết sản
xuất với tiêu thụ sản phẩm. Trà Vinh hiện là tỉnh
có diện tích đất ngập mặn ven biển khá lớn, thích
hợp cho sản xuất lúa hữu cơ theo phương pháp luân
canh tôm - lúa. Phát triển nông nghiệp theo phương
pháp canh tác hữu cơ không chỉ góp phần tạo ra
những sản phẩm có lợi cho sức khỏe con người
mà còn góp phần cải tạo thổ nhưỡng, bảo vệ môi
trường sinh thái. Từ vùng biển sản xuất lúa-tôm,
nông dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre đã liên
kết với doanh nghiệp phát triển sản xuất lúa hữu cơ
mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, các hộ chăn nuôi nhỏ
lẻ, phân tán từng bước chuyển sang nuôi tập trung,
trang trại theo quy hoạch. Khuyến khích chăn nuôi
tập trung an toàn sinh học để khắc phục tình trạng
ô nhiễm môi trường và kiểm soát được dịch bệnh./.
Tài liệu tham khảo
Hoàng Thị Chỉnh, (2010), Để nông nghiệp VN
phát triển bền vững, Tạp chí Phát triển Kinh
tế, số 273.
Nguyễn Mậu Dũng, (2010), Biến đổi khí hậu và
sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng sông
Hồng: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí
Kinh tế và Phát triển, số 159.
Lê Thu Hoa, (2011), Mô hình sản xuất và tiêu
thụ bền vững trong chiến lược phát triển kinh
tế và ứng phó v ới biến đổi khí hậu ở Việt
Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 173.
Nguyễn Trọng Hoài và các tác giả, (2013),
Tiếp cận tăng trưởng xanh cho cho khu vực
ĐBSCL.
Lê Trung Kiên, (2009), Lựa chọn nào đối với
phát tri ển bền vững trong du lịch ở Việt
Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 148.
Ngô Thắng Lợi, (2010), Đô thị hoá ở Hà Nội
nhìn từ góc độ phát triển bền vững, Tạp chí
Kinh tế và Phát triển, số 160.
Lê Anh Tuấn, (2009), Tác động của biến đổi khí
hậu lên hệ sinh thái và phát triển nông thôn
ở Đồng bằng sông Cửu Long. Viện Nghiên
cứu Biến đổi khí hậu, Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Văn Sánh, (2010), Nghiên cứu tài
nguyên nước Trà Vinh: Hiện trạng khai thác,
sử dụng và các giải pháp quản lý sử dụng bền
vững. Đại học Cần Thơ.
Parry, M. L. và cộng sự, (2007); Contribution of
Working Group II to the Fourth Assessment
Report on Climate Change, 2007. Cambridge
University Press, Cambridge, UK.
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, (2010),
Tác động biến đổi khí hậu ở các tỉnh ĐBSCL
(https://www.mard.gov.vn/Pages/tac-dong-
bien-doi-khi-hau-o-cac-tinh-dbscl-1538.
aspx).
Bộ Khoa học và Công Nghệ, (2016), Xâm nhập
mặn tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, nguyên
nhân, tác động và các giải pháp ứng phó.
Bộ Tài nguyên và Môi trường, (2010), Báo cáo
môi trường quốc gia năm 2010 - Tổng quan
môi trường Việt Nam.
Bộ Tài nguyên và Môi trường, (2012), Thuốc
bảo vệ thực vật - mối nguy hại lớn tới môi
trường và sức khỏe.
Tổng Cục Thống kê, (2010), Khảo sát mức sống
Hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) 2010;
Tổng cục thống kê Việt Nam, (2017), Niên giám
thống kê.
Thông tấn xã Việt Nam, (2013), Đồng bằng
sông Cửu Long suy thoái môi trường ở mức
đáng báo động.
Viện Thủy Lợi Việt Nam, (2016), Dự báo xâm
nhập mặn tại các cửa sông vùng ven biển;
FAO (Food and agriculture organization of
the United Nations), (2012), Greening the
economy with agriculture.
UNDESA (UN Department of Economic
and Social Affairs), (2012), A guidebook
To The Green Economy Issue 1: Green
Economy, Green Growth, and Low-Carbon
Development -history, definitions and a
guide to recent publications. Division for
Sustainable Development, UNDESA.
OECD, (2012b), OECD Green Growth Studies
Food and Agricuỉture, OECD Publishing.
World Bank, (2012), Inclusive green growth:
The pathway to sustainable development.
Washington D.C. - The Worldbank.
Dự thảo tầm nhìn chiến lược Đề án “Liên kết
phát triển bền vững tiểu vùng Duyên Hải
Phía Đông”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62_308_1_pb_2241_2132987.pdf