Tài liệu Phát triển nguồn nhân lực ngành xây dựng - Đề xuất một số giải pháp thiết thực: 6 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Xây dựng dân dụng, công nghiệp và hạ tầng cơ sở tại mỗi quốc gia luôn là lĩnh vực quan trọng, đi trước để hỗ trợ,
kích thích các lĩnh vực khác hoạt động và phát triển thuận lợi. Trong bối cảnh hội nhập, rất nhiều các vấn đề liên quan
đến thực tiễn xây dựng đã nảy sinh như: Vật liệu, công nghệ mới, các quy trình thiết kế hiện đại đòi hỏi đội ngũ nhân
lực cũng cần phải được chuẩn bị, đào tạo, nâng cao về mọi mặt với nhiều cấp độ khác nhau. Phát triển nguồn nhân lực
ngành Xây dựng từ đó càng trở nên cấp bách. Dựa vào kết quả quy hoạch nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2020, sau khi
tổ chức điều tra chỉ tiêu và đánh giá về nguồn nhân lực xây dựng, đồng thời tham khảo một số kinh nghiệm của các nước
trong khu vực và thế giới, cần đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng, đáp ứng nhu
cầu phát triển của Ngành và đất nước.
Về chính sách, nên coi trọng xuất khẩu lao động thông
qua nhận thầu xây dựng ở nước...
4 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 392 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển nguồn nhân lực ngành xây dựng - Đề xuất một số giải pháp thiết thực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Xây dựng dân dụng, công nghiệp và hạ tầng cơ sở tại mỗi quốc gia luôn là lĩnh vực quan trọng, đi trước để hỗ trợ,
kích thích các lĩnh vực khác hoạt động và phát triển thuận lợi. Trong bối cảnh hội nhập, rất nhiều các vấn đề liên quan
đến thực tiễn xây dựng đã nảy sinh như: Vật liệu, công nghệ mới, các quy trình thiết kế hiện đại đòi hỏi đội ngũ nhân
lực cũng cần phải được chuẩn bị, đào tạo, nâng cao về mọi mặt với nhiều cấp độ khác nhau. Phát triển nguồn nhân lực
ngành Xây dựng từ đó càng trở nên cấp bách. Dựa vào kết quả quy hoạch nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2020, sau khi
tổ chức điều tra chỉ tiêu và đánh giá về nguồn nhân lực xây dựng, đồng thời tham khảo một số kinh nghiệm của các nước
trong khu vực và thế giới, cần đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng, đáp ứng nhu
cầu phát triển của Ngành và đất nước.
Về chính sách, nên coi trọng xuất khẩu lao động thông
qua nhận thầu xây dựng ở nước ngoài. Đây là kinh nghiệm
của Hàn Quốc thuở phát triển ban đầu, họ kiếm ngoại tệ
không phải bằng trực tiếp xuất khẩu lao động như nước ta
đang làm mà thông qua nhận thầu xây dựng trên khắp thế
giới. Sau này khi đã phát triển, họ vẫn nhận thầu ở nước
ngoài nhưng chuyển sang dùng lao động nước sở tại vì lao
động Hàn Quốc đắt đỏ hơn. Nếu làm theo phương thức này,
nước ta vừa kiếm được nhiều ngoại tệ, ngành Xây dựng tiến
bộ nhanh hơn và lại không có tình trạng lao động trốn ở lại
do sợ bị thất nghiệp khi trở về.
Về thể chế, cần ban hành các quy định pháp luật về
cung ứng nhân lực, trên cơ sở bảo đảm quyền lợi người lao
động, thu hẹp rồi xóa bỏ thị trường nhân lực không chính
thức; Xem xét việc cho các trường đào tạo nghề xây dựng
kiêm nhiệm chức năng cung ứng nhân lực hoặc sáp nhập
vào công ty cung ứng nhân lực; Theo kinh nghiệm Trung
Quốc, các Tổng công ty xây dựng Nhà nước lớn nên dồn
phần lớn lao động lại và giao cho một công ty cung ứng
nhân lực quản lý và cung ứng cho toàn bộ các công trường
của Tổng công ty (xe máy cũng tương tự); Một số địa
phương dồi dào lao động nên được xây dựng thành “căn cứ
địa” cung ứng nhân lực xây dựng bằng cách khuyến khích
thành lập các công ty cung ứng nhân lực và mở các trường
đào tạo công nhân xây dựng.
Ngành Xây dựng là một ngành công nghiệp dịch vụ
đặc biệt, sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc, thời gian
dài, phải làm việc ngoài trời, phụ thuộc vào thời tiết, địa
điểm làm việc biến động nhiều khi phải xa nhà, xa gia đình.
Việc làm không ổn định, lúc làm việc ngày đêm, lúc nhàn
rỗi Nhà nước cần có cơ chế chính sách trong đào tạo,
chế độ đãi ngộ thông qua các chính sách theo cơ chế
thị trường, giao quyền cho các nhà thầu trả lương theo
yêu cầu của công việc nhằm thu hút nguồn nhân lực giỏi
và hoạt động xây dựng (như ở Mỹ; lương công nhân xây
dựng được xếp hạng I so sới các ngành nghề khác).
CẦN TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ THỊ TRƯỜNG NHÂN LỰC XÂY DỰNG
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
TS. Trần Hữu Hà*
7Số 64.2019 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng
hóa các hình thức sở hữu, nhằm huy
động tối đa các nguồn lực của các
thành phần kinh tế, kể cả thu hút đầu
tư nước ngoài cho giáo dục Đại học
và giáo dục nghề nghiệp; tăng đầu tư
của Nhà nước cho các cơ sở đào tạo
trọng điểm, nhằm xây dựng một số
trường có chất lượng đào tạo ngang
bằng các nước tiên tiến trong khu vực
và thế giới;
Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề
thông qua những chính sách khuyến
khích và ưu tiên, thậm chí bằng cả các
chế tài đủ mạnh để thu hút người học
vào học nghề, nhằm khắc phục tình
trạng tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo
tại các doanh nghiệp thuộc Ngành với
tỷ lệ không nhỏ như hiện nay;
Hoàn thiện các chế độ, chính
sách, tiền lương và tiền công đối với
những người làm công tác dạy nghề
có kỹ năng tay nghề cao và đặc biệt là
đối với học sinh học các nghề có nhu
cầu lớn nhưng khó tuyển sinh như
nghề nề - hoàn thiện, cốp pha - giàn
giáo, cốt thép - hàn để thu hút người
vào học nghề;
Có cơ chế, chính sách tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp thuộc
Ngành, như: Tăng kinh phí cho quỹ
đào tạo, tuyển dụng của doanh
nghiệp và khuyến khích doanh
nghiệp chi hết, chi đủ các khoản chi
cho đào tạo nhân lực, đặc biệt là nhân
lực chất lượng cao.
Đổi mới mạnh mẽ về thể chế,
chính sách. Hoàn thiện hệ thống pháp
luật về Giáo dục nghề nghiệp (GDNN).
Luật GDNN đã được Quốc hội thông
qua có quy định về cơ chế để cơ sở
GDNN là một chủ thể độc lập, tự chủ;
người đứng đầu cơ sở GDNN phải tự
chịu trách nhiệm trước pháp luật và
phải được đào tạo về quản lý GDNN.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách về dạy
nghề, học nghề.
Có chính sách đãi ngộ, thu hút
giáo viên GDNN; chính sách đối với
người lao động qua đào tạo nghề
nghiệp; chính sách đào tạo liên thông,
hỗ trợ người học nghề. Xây dựng cơ
chế để doanh nghiệp, cơ sở sử dụng
lao động tham gia xây dựng, đánh
giá, điều chỉnh chương trình đào tạo,
hướng dẫn thực hành, thực tập và
đánh giá năng lực người học, hướng
tới doanh nghiệp phải là một trong
những chủ thể đào tạo nghề nghiệp
chứ không chỉ là “đối tác”, là người thụ
hưởng sản phẩm đào tạo. Đổi mới
chính sách tài chính về GDNN; thực
hiện cơ chế đặt hàng đào tạo cho các
cơ sở GDNN, không phân biệt hình
thức sở hữu.
Các cơ sở đào tạo phải xây dựng
và công bố chuẩn đầu ra người học
cần phải đạt, sau khi tốt nghiệp ở mỗi
trình độ và ngành nghề đào tạo theo
khung trình độ quốc gia. Mỗi trình độ
và mỗi ngành nghề đào tạo cần làm rõ
những kỹ năng, năng lực cơ bản, đáp
ứng yêu cầu thực tiễn, từ đó liên
hệ với các mô đun đào tạo hiện có
trong chương trình. Xây dựng chuẩn
chương trình đào tạo, chuẩn thiết
bị dạy học và chuẩn đánh giá theo
định hướng khung trình độ quốc gia
tham chiếu khung trình độ khu vực.
Đánh giá chuẩn đầu ra và bảo đảm
chất lượng sẽ là điều kiện thực hiện
việc công nhận văn bằng/trình độ
và kỹ năng, năng lực hành nghề lẫn
nhau giữa Việt Nam và các nước trong
ASEAN và trên thế giới.
Một chương trình khung áp dụng
trong toàn quốc có thể làm giảm tính
linh hoạt, chủ động của cơ sở đào tạo
trong việc thực thi phù hợp với tính
đặc thù và những thay đổi kỹ thuật -
công nghệ, với những đặc điểm vùng
miền. Mặt khác, khung thời gian và
thời lượng cần phải mềm dẻo hơn,
giành thời lượng thích đáng cho thực
hành kỹ năng nghề phù hợp với trình
độ công nghệ và tổ chức dịch vụ. Từ
CÓ CHÍNH SÁCH THÍCH HỢP
Ở TẦM VĨ MÔ ĐỂ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC
XÂY DỰNG CHUẨN ĐẦU RA GẮN
VỚI KHUNG TRÌNH ĐỘ QUỐC GIA
PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH
ĐÀO TẠO VÀ ĐÁNH GIÁ THEO
NĂNG LỰC
Ngành Xây dựng là một ngành công nghiệp dịch vụ đặc biệt, sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc,
thời gian dài, phải làm việc ngoài trời
8 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
đó, tăng cường tính tự chủ chương
trình của nhà trường theo khung
chương trình do cơ quan quản lý Nhà
nước về giáo dục hoặc dạy nghề ban
hành.
Các mô đun đào tạo cần phải xác
định rõ ràng đầu ra tương ứng với đơn
vị tiêu chuẩn năng lực (TCNL). Các tiêu
chuẩn kỹ năng nghề quốc gia trong
lĩnh vực xây dựng hiện nay thường
gắn với từng công việc đơn lẻ của
nghề cần phải được gia công sư phạm
để tổ hợp thành các đơn vị TCNL và
được khai triển đào tạo trong phạm vi
các mô đun. Về lâu dài, hệ thống tiêu
chuẩn với khung trình độ quốc gia
nên chuyển đổi thành hệ thống TCNL,
từ đó hình thành sản phẩm trung gian
hay “ngôn ngữ chung” giữa đào tạo
và sử dụng lao động. Việc quản lý sẽ
tập trung vào kiểm định chất lượng
chương trình đào tạo, kiểm định trình
độ và chuẩn đầu ra gắn với khung
trình độ quốc gia tham chiếu khung
trình độ ASEAN.
Một với khung trình độ quốc gia,
về cơ bản, sẽ bao hàm cả 3 hình thức
học tập chính quy, phi chính quy và
không chính quy. Cho đến nay, đào
tạo không chính quy và phi chính quy
chưa thực sự được quan tâm đầu tư
mang tính chiến lược khi mà lao động
khu vực kinh tế phi chính thức chiếm
vị trí và vai trò hết sức quan trọng ở
Việt Nam. Các phương thức đào tạo
cần được nghiên cứu và triển khai
mang tính hệ thống dựa trên quy
hoạch phát triển nhân lực xây dựng
Việt Nam có xác định rõ cơ cấu việc
làm và trình độ. Những mô hình này sẽ
cần được thử nghiệm, đánh giá hiệu
quả - chi phí để triển khai nhân rộng
trong thời gian tới.
Trong bối cảnh trong nước và
quốc tế hiện nay, để góp phần nâng
cao chất lượng và sức cạnh tranh của
nhân lực Việt Nam trên thị trường lao
động trong nước và quốc tế, nhất là
khi Việt Nam trở thành thành viên của
AEC (Cộng đồng kinh tế ASEAN), cần
phải đổi mới mạnh mẽ hệ thống giáo
dục - đào tạo. Trong đó, cần gắn kết
giữa đào tạo với thị trường lao động
và sự tham gia của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp trực tiếp tham gia
vào các hoạt động đào tạo nghề như
xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề,
xác định danh mục nghề, xây dựng
chương trình đào tạo, đánh giá kết quả
học tập của người học nghề Phát
triển hệ thống thông tin thị trường lao
động để gắn kết đào tạo và sử dụng
lao động. Hướng tới thành lập các Hội
đồng kỹ năng Ngành.
Cần thay đổi cách tuyển dụng
lao động, tuyển dụng công chức,
viên chức theo năng lực thực tế, khả
năng hoàn thành nhiệm vụ hơn là chỉ
dựa vào bằng cấp. Cải cách hệ thống
trả lương, trả công lao động, trên cơ
sở kỹ năng nghề nghiệp và hiệu quả
của công việc, nhằm tạo động lực cho
người lao động làm việc với năng suất
và chất lượng cao hơn. Phấn đấu xây
dựng một nguồn nhân lực đủ mạnh,
đáp ứng nhu cầu cả về số lượng và
chất lượng; có cơ cấu hợp lý về ngành
nghề chuyên môn; chú trọng trẻ hoá
đội ngũ kết hợp với thái độ coi trọng
kinh nghiệm và thâm niên công tác.
- Đối với trường dạy nghề: Cần
có cơ chế chính sách kể cả nguồn
kinh phí để tăng cường cơ sở vật chất
phục vụ cho giảng dạy sát với yêu cầu
thực tế, đặc biệt cơ chế chính sách đãi
ngộ với các thợ bậc cao, thợ cả truyền
nghề cho lớp trẻ.
- Cần ban hành quy định chức
danh cũng như bổ sung các chức danh
nhằm phân loại, khuyến khích đào tạo
cán bộ quản lý, công nhân giỏi ngành
Xây dựng như: Giám đốc Công ty,
THIẾT KẾ MÔ HÌNH ĐÀO TẠO NGOÀI
CHÍNH QUY PHÙ HỢP VỚI BỐI CẢNH
VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆT NAM
ĐỔI MỚI MẠNH MẼ VẤN ĐỀ
SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
GẮN KẾT GIỮA ĐÀO TẠO VỚI
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VÀ SỰ
THAM GIA CỦA DOANH NGHIỆP
Cần gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp
9Số 64.2019 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Tổng Giám đốc Tổng Công ty, Chỉ huy
trưởng dự án đặc biệt, nhóm A,B, chức
danh Tổng Công trình sư, kỹ sư trưởng,
kỹ sư chính Đối với công nhân là
nghệ nhân, thợ cả, thợ chính.
- Cần bổ sung và khuyến khích
phát triển loại hình Công ty cung ứng
nguồn nhân lực. Do đặc điểm của thi
công công trình xây dựng làm biến
động về nhân lực, loại nghề trong
từng giai đoạn, một nhà thầu không
thể khép kín đầy đủ nguồn nhân lực
(hoặc có khép kín toàn bộ thì lại bị
mất cân đối dư thừa từng loại cán bộ
theo từng thời gian gây lãng phí công
nhân). Vì vậy, nếu áp dụng cơ chế
cung cấp nguồn nhân lực theo hợp
đồng theo từng giai đoạn sẽ chuyên
môn hóa công việc, luân chuyển bổ
sung cho các công trường xây dựng
theo tiến độ và công việc từ đó sẽ
tiết kiệm chi phí, giảm thời gian chờ
việc hoặc làm công việc không đúng
chuyên môn.
Phải có quy hoạch đào tạo,
không đào tạo tràn lan, đào tạo không
có địa chỉ. Cán bộ được quy hoạch vào
chức danh nào, ngạch nào thì ĐTBD
theo chuyên môn của chức danh đó,
ngạch đó và sau khi ĐTBD chỉ bố trí
vào những công việc phù hợp với
chuyên môn được ĐTBD. Đồng thời, rà
soát lại đội ngũ cán bộ hiện có, điều
chuyển, bố trí lại những cán bộ đang
làm việc không đúng chuyên ngành
chuyển sang các ngành nghề, chức
danh phù hợp với chuyên môn được
đào tạo. Cần quy hoạch, phát triển
nguồn nhân lực theo ngành, lĩnh vực
và ngành, lĩnh vực có tính đặc thù.
Việc quy hoạch nguồn nhân lực theo
ngành, lĩnh vực sẽ tạo cơ sở, căn
cứ cho công tác đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực có tính định hướng và
ổn định. Công tác quy hoạch nguồn
nhân lực được thực hiện tốt sẽ tạo
được nguồn nhân lực có chất lượng
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Các Bộ, Ngành và địa phương
cần xây dựng đề án nguồn nhân lực
cụ thể, rõ ràng, từ đó có chính sách
đào tạo cho phù hợp tránh tình trạng
thiếu hụt nhân lực ở lĩnh vực này và
thừa ở lĩnh vực khác. Một số ngành
chiếm tỉ trọng thấp (như nông, lâm,
ngư nghiệp), trong khi đó khối các
ngành chiếm tỉ trọng cao tập trung
vào các lĩnh vực (tài chính, ngân hàng,
công nghệ thông tin) Do vậy, quy
hoạch phải phù hợp với quy hoạch
phát triển kinh tế xã hội nhằm mục
tiêu cuối cùng là phát triển kinh tế xã
hội bền vững. Chú trọng công tác đào
tạo ngành nghề mới, đặc thù để tránh
tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực
cục bộ.
Hiện nay, trong điều kiện đẩy
mạnh công nghiệp hoá và hội nhập
quốc tế, phát triển nhân lực được
coi là một trong ba khâu đột phá của
chiến lược chuyển đổi mô hình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước;
đồng thời, phát triển nhân lực trở
thành nền tảng phát triển bền vững
và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Phát triển nguồn nhân lực là một
trong những yếu tố cơ bản để thực
hiện thành công chiến lược đi tắt đón
đầu trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương
khóa XI (2013), Nghị quyết số 29-NQ/
TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Hội
nghị lần thứ 8.
2. Quyết định số 1216/QĐ-TTg
ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính
phủ về Quy hoạch phát triển nhân lực
Việt Nam thời kỳ 2011-2020.
3. Nguyễn Quang Việt (2014), Tiếp
cận chuẩn đầu ra trong đào tạo nghề,
Bài giảng Bồi dưỡng cán bộ quản lý cơ
sở dạy nghề, Tổng cục Dạy nghề.
GẮN ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG VỚI
QUY HOẠCH VÀ BỐ TRÍ, SỬ DỤNG
Gắn đào tạo với bố trí, sử dụng nhân lực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9_9919_2171616.pdf