Tài liệu Phát triển nghề nghiệp giáo viên phổ thông theo tiếp cận năng lực - Kinh nghiệm thế giới và bài học cho Việt Nam: 137
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0031
Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 137-145
This paper is available online at
PHÁT TRIỂN NGHỀ NGHIỆP GIÁO VIÊN PHỔ THÔNG THEO TIẾP CẬN
NĂNG LỰC - KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Nguyễn Thị Kim Dung
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Sự phát triển liên tục và mạnh mẽ của khoa học công nghệ đòi hỏi mỗi người,
đặc biệt là giáo viên phải có những năng lực để luôn đổi mới và thích ứng, phải là những
người học suốt đời, học ở mọi nơi, mọi lúc. Tuy nhiên, phát triển nghề nghiệp giáo viên
như thế nào cho có hiệu quả và bền vững luôn là trăn trở của các nhà nghiên cứu, các nhà
quản lí cũng như chính giáo viên. Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu có liên quan ở
trong và ngoài nước, bài viết đi sâu làm rõ thế nào là phát triển nghề nghiệp giáo viên
cũng như những mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên hiện nay trên thế giới để từ đó
rút ra 5 bài...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 534 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển nghề nghiệp giáo viên phổ thông theo tiếp cận năng lực - Kinh nghiệm thế giới và bài học cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
137
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0031
Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 137-145
This paper is available online at
PHÁT TRIỂN NGHỀ NGHIỆP GIÁO VIÊN PHỔ THÔNG THEO TIẾP CẬN
NĂNG LỰC - KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Nguyễn Thị Kim Dung
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Sự phát triển liên tục và mạnh mẽ của khoa học công nghệ đòi hỏi mỗi người,
đặc biệt là giáo viên phải có những năng lực để luôn đổi mới và thích ứng, phải là những
người học suốt đời, học ở mọi nơi, mọi lúc. Tuy nhiên, phát triển nghề nghiệp giáo viên
như thế nào cho có hiệu quả và bền vững luôn là trăn trở của các nhà nghiên cứu, các nhà
quản lí cũng như chính giáo viên. Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu có liên quan ở
trong và ngoài nước, bài viết đi sâu làm rõ thế nào là phát triển nghề nghiệp giáo viên
cũng như những mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên hiện nay trên thế giới để từ đó
rút ra 5 bài học cho phát triển nghề nghiệp giáo viên của Việt Nam.
Từ khóa: Phát triển nghề nghiệp, giáo viên, mô hình, tiếp cận năng lực, bài học kinh
nghiệm.
1. Mở đầu
Trong thế giới kết nối vạn vật và thời đại của robot, trí tuệ nhân tạo, chúng ta hoàn
toàn có thể khẳng định rằng, vị trí, vai trò của người giáo viên (GV) đã và đang thay đổi
rất nhiều: GV không chỉ là người dạy học trên lớp, một người làm nhiệm vụ truyền thụ
kiến thức, người cung cấp thông tin là chính, mà trở thành người tổ chức, hướng dẫn quá
trình học của học sinh (HS). Hội nghị thượng đỉnh thế giới về giảng dạy đã chỉ ra rằng
GV cần giúp HS đạt được không chỉ “các kĩ năng dễ giảng dạy và dễ đánh giá” mà quan
trọng hơn là những cách thức tư duy (sáng tạo, tư duy phê phán, giải quyết vấn đề, ra
quyết định và cách học); những cách thức làm việc (giao tiếp và hợp tác); các công cụ làm
việc (bao gồm công nghệ thông tin và truyền thông); và các kĩ năng cần của một công dân,
cho cuộc sống và nghề nghiệp, cũng như trách nhiệm xã hội và trách nhiệm cá nhân để
thành công trong xã hội dân chủ hiện đại [2, 8].
Bên cạnh đó, sự phát triển liên tục và mạnh mẽ của khoa học công nghệ đòi hỏi mỗi
người, đặc biệt là GV phải có những năng lực để luôn đổi mới và thích ứng, phải là những
người học suốt đời, học ở mọi nơi, mọi lúc. Họ phải là những chuyên gia về việc học của
chính mình, cũng như cho học sinh [9]. GV học để giúp HS học ở mức độ cao nhất. Ngoài
ra, công việc giảng dạy rất phức tạp, luôn phải đối mặt với những thách thức hàng năm
như sự thay đổi trong nội dung giảng dạy môn học, các phương pháp giáo dục mới, những
Ngày nhận bài: 1/2/2019. Ngày sửa bài: 19/2/2019. Ngày nhận đăng: 2/3/2019.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Kim Dung. Địa chỉ e-mail: kimdung28863@gmail.com.
Nguyễn Thị Kim Dung
138
tiến bộ trong công nghệ, những thay đổi về chính sách, luật pháp, và nhu cầu học tập của
HS Chính vì thế, GV phải liên tục học tập nâng cao trình độ, cải thiện các kĩ năng nghề
nghiệp của mình[7]. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, phát triển năng lực nghề nghiệp GV
là chiến lược duy nhất để các cơ sở giáo dục nhà trường có thể nâng cao mức độ thực hiện
nhiệm vụ của GV. Đây cũng là cách thức duy nhất các GV có thể học tập để thực hiện
nhiệm vụ được tốt hơn và nâng cao kết quả của HS [5]. Nghiên cứu của Rivkin, Hanushek
& Kain (2005), cho thấy hơn ¾ những tác động của trường học đến kết quả học tập của
HS có thể giải thích bởi những tác động của GV [4].
Như vậy, thúc đẩy sự phát triển nghề nghiệp không ngừng của GV là đòi hỏi có tính sống
còn của nhà trường và của nghề dạy học, cũng như của chính GV. Tuy nhiên, thực tế ở nước ta
trong những năm qua cho thấy việc bồi dưỡng phát triển nghề nghiệp giáo viên còn nhiều bất
cập, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn và nhu cầu của chính GV. Bài viết đi sâu làm rõ thế
nào là phát triển nghề nghiệp GV cũng như những mô hình phát triển nghề nghiệp GV hiện nay
trên thế giới để từ đó có những đề xuất cho phát triển nghề nghiệp GV của Việt Nam.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Phát triển nghề nghiệp giáo viên theo tiếp cận năng lực
2.1.1. Khái niệm phát triển nghề nghiệp giáo viên theo tiếp cận năng lực
Có nhiều cách gọi khác nhau mà các nhà giáo dục hay sử dụng khi nói về phát triển
nghề nghiệp (PTNN) GV, ví dụ như phát triển đội ngũ, bồi dưỡng, học tại chức, học tập
chuyên môn hoặc giáo dục liên tục. Dù tên gọi khác nhau nhưng mục đích thì giống
nhau – để nâng cao việc học của GV và HS. Hayes Mizell cho rằng, phát triển nghề nghiệp
GV được hiểu là quá trình giảng dạy cung cấp cho GV một số khía cạnh nội dung nhất
định (ví dụ: công nghệ, các phương pháp giảng dạy mới, nội dung môn học, v.v.) để thúc
đẩy sự phát triển của họ. PTNN là công cụ, phương tiện mà theo đó tầm nhìn của các nhà
hoạch định chính sách về sự thay đổi được phổ biến và truyền đạt tới các GV [4].
UNESCO cho rằng, PTNN theo nghĩa rộng liên quan đến sự phát triển con người ở
khía cạnh vai trò nghề nghiệp. Cụ thể hơn: PTNN GV là sự lớn mạnh về nghề nghiệp mà
GV đạt được như là kết quả của sự gia tăng trải nghiệm và kiểm soát việc giảng dạy của
mình một cách hệ thống” [5]. TALIS cho rằng: “Phát triển nghề nghiệp GV là các hoạt động
phát triển các kĩ năng, kiến thức, chuyên môn và các đặc điểm khác của một cá nhân với
tư cách là một giáo viên” [7].
Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng, PTNN GV bao gồm các quá trình chính quy/chính
thức như hội nghị/hội thảo, seminar, học tập hợp tác giữa các thành viên trong nhóm;
hoặc các khóa học ngắn hạn ở các cơ sở đào tạo và các quá trình không chính thức như
những cuộc tranh luận/thảo luận giữa các đồng nghiệp, tự đọc tài liệu hoặc tự nghiên cứu,
quan sát hoạt động của đồng nghiệp hoặc những học tập khác từ bạn bè.
Nói tóm lại: Phát triển nghề nghiệp GV theo tiếp cận năng lực được hiểu là các hoạt
động phát triển các kĩ năng, kiến thức, thái độ và các đặc điểm khác của một cá nhân với
tư cách là một GV để họ giải quyết được những thách thức trong dạy học – giáo dục HS
cũng như những yêu cầu của thực tiễn đa dạng ở nhà trường phổ thông. Nó bao gồm các
hoạt động chính thức và không chính thức với mục đích chung là phát triển năng lực nghề
nghiệp GV và từ đó nâng cao kết quả giáo dục HS (theo nghĩa rộng).
Phát triển nghề nghiệp giáo viên phổ thông theo tiếp cận năng lực - kinh nghiệm thế giới
139
2.1.2. Những đặc trưng của phát triển nghề nghiệp giáo viên hiệu quả
Phát triển nghề nghiệp GV hiệu quả sẽ làm cho GV phát triển các kiến thức và kĩ năng
cần thiết để họ giải quyết được những thách thức trong học tập của HS. Để hiệu quả,
PTNN GV cần được lập kế hoạch khoa học, cẩn thận cùng với việc thực hiện nghiêm túc,
có phản hồi để đảm bảo chúng đáp ứng nhu cầu học tập của GV. Các GV tham gia vào
PTNN của mình phải áp dụng các kiến thức, kĩ năng học được vào công việc của
mình[7].
Những đặc trưng của phát triển nghề nghiệp GV hiệu quả [6]:
- Dựa trên chủ nghĩa kiến tạo, tức là GV được đối xử như là những người học tích
cực, những người được gắn kết với các nhiệm vụ giảng dạy, đánh giá, quan sát và phản
ánh cụ thể. Điều đó có nghĩa là GV được tham gia tích cực vào việc phát triển năng lực
của mình thông qua một kế hoạch cụ thể. PTNN GV hiệu quả cần:
+ Dựa trên một mô hình rõ ràng về năng lực GV với nền tảng lí thuyết chắc chắn,
trong đó có sự đồng thuận;
+ Thúc đẩy tự phản ánh/phản hồi của giáo viên;
+ Tôn trọng điểm bắt đầu và mức độ quan tâm khác nhau của từng GV bằng cách đưa
ra các lựa chọn, ưu đãi và yêu cầu; và,
+ Để lại quyền tự chủ cho nhà trường trong việc thực hiện kế hoạch phát triển chuyên
môn liên tục.
- Đó là quá trình lâu dài bởi vì GV học liên tục, xuyên suốt thời gian để giúp GV có
được một loại những trải nghiệm có liên quan với nhau cho phép họ liên hệ kiến thức với
trải nghiệm mới trong thực tiễn.
- Đó là quá trình diễn ra trong từng ngữ cảnh cụ thể. PTNN hiệu quả nhất khi
chúng dựa vào nhà trường và liên hệ với các hoạt động thường ngày của GV và người học.
Nhà trường phải trở thành cộng đồng học tập, cộng đồng khám phá, cộng đồng nghề
nghiệp và cộng đồng chia sẻ. Cơ hội PTNN tốt nhất là các hoạt động “học tại chỗ”;
- PTNN được nhìn nhận như là quá trình cộng tác. Cũng có những lúc GV tự PTNN
nhưng PTNN hiệu quả nhất khi có những tương tác có ý nghĩa giữa GV với nhau, với cán
bộ quản lí, với cha mẹ và các thành viên cộng đồng khác. Nghiên cứu cho thấy việc học
tập của GV hiệu quả là dựa vào nhà trường và sự cộng tác. Sự phát triển chuyên môn liên
tục mang tính hợp tác có hiệu quả hơn việc học cá nhân trong việc mang lại những thay
đổi tích cực trong thực tiễn, thái độ hoặc niềm tin của GV, trong việc nâng cao kết quả
học tập, hành vi hoặc thái độ của HS.
- PTNN sẽ rất khác nhau trong các ngữ cảnh đa dạng, thậm chí ngay cả trong một
ngữ cảnh thì cũng có đa dạng các khía cạnh. Không có một hình thức hay mô hình PTNN
nào tốt nhất so với những cái khác. GV và nhà trường cần phải đánh giá nhu cầu của mình,
các giá trị, niềm tin và thực tiễn để quyết định xem lựa chọn mô hình nào phù hợp, có lợi
nhất với nhà trường ở thời điểm đó.
2.2. Các mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên trên thế giới
Qua phân tích các công trình nghiên cứu [1, 3, 5, 7], chúng tôi thấy có 3 mô hình phát
triển nghề nghiệp giáo viên nổi bật như sau:
Nguyễn Thị Kim Dung
140
- Mô hình phát triển nghề nghiệp GV được chuẩn hóa – Standardized Teacher
Professional Development: Đây là cách tiếp cận tập trung nhất, được sử dụng tốt nhất để
phổ biến thông tin và các kiến thức, kĩ năng giữa nhóm đông GV.
- Mô hình dựa vào nhà trường/lấy nhà trường làm trung tâm – Sited – based Model :
Học tập chuyên sâu theo nhóm GV trong một trường học hoặc khu vực, thúc đẩy những thay
đổi sâu sắc và lâu dài về các phương pháp giảng dạy hay khía cạnh nào đó trong giáo dục.
- Mô hình GV tự định hướng – Self- directed Model: Học tập độc lập, đôi khi được
đề xuất theo ý muốn của người học, sử dụng các tài nguyên sẵn có có thể bao gồm máy
tính và Internet.
2.2.1. Mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên được chuẩn hóa
Phát triển nghề nghiệp GV được chuẩn hóa thường đại diện cho một cách tiếp cận tập
trung, liên quan đến hội thảo, các khóa bồi dưỡng, Các chương trình này tập trung vào
việc phổ biến nhanh các kĩ năng và nội dung cụ thể, thường thông qua cách tiếp cận "xếp
tầng/thác nước" hoặc "bồi dưỡng GV cốt cán".
Các mô hình chuẩn hóa có xu hướng dựa vào các phương pháp bồi dưỡng, trong đó
các diễn giả chia sẻ các kĩ năng và kiến thức với các nhóm đông GV thông qua mặt đối
mặt, phát sóng hoặc trực tuyến. Các phương pháp tiếp cận được chuẩn hóa tập trung vào
việc khám phá một ý tưởng và trình diễn hay mô hình hóa các kĩ năng. Các cách tiếp cận
chuẩn hóa có thể mang lại hiệu quả, khi:
- Đưa GV đến những ý tưởng mới, cách thức mới để làm việc gì đó và đồng nghiệp mới;
- Phổ biến kiến thức và phương pháp giảng dạy cho GV trên toàn quốc hoặc khu vực;
- Hiển thị rõ ràng cam kết của quốc gia hoặc nhà cung cấp hoặc dự án đối với một
khóa học cụ thể, thiết thực.
Tuy nhiên, thông thường, các hội thảo diễn ra cùng một lúc và ở một địa điểm mà
không có theo dõi, và không giúp GV phát triển các kĩ năng và năng lực cần thiết để sử
dụng các kĩ thuật mới khi họ quay lại trường học. Các buổi học một lần đó chắc chắn có
thể giúp giới thiệu và xây dựng nhận thức về kiến thức, kĩ năng mới, hướng dẫn phương
pháp giảng dạy tập trung vào người học, hoặc chương trình mới. Tuy nhiên, các khóa bồi
dưỡng mà không có sự hỗ trợ tiếp theo hiếm khi dẫn đến những thay đổi hiệu quả về
giảng dạy và học tập.
2.2.2. Mô hình phát triển nghề nghiệp giáo viên dựa vào địa phương/nhà trường
Phát triển nghề nghiệp GV gắn với địa phương thường diễn ra tại các trường học. Các
chương trình này thường tập trung vào các quá trình thay đổi dài hạn, thông qua các hoạt
động phù hợp điều kiện thuận lợi tại địa phương để xây dựng các cộng đồng thực tiễn tại
chỗ. GV làm việc với những người hỗ trợ tại địa phương hoặc GV cốt cán để tham gia
dần dần vào các quá trình học tập và phát triển các kĩ năng sư phạm, nội dung giảng dạy và
kĩ năng công nghệ. Phát triển nghề nghiệp GV gắn với địa phương thường tập trung vào các
vấn đề cụ thể mà các cá nhân GV gặp phải khi họ cố gắng thực hiện các kĩ thuật mới.
Các mô hình phát triển nghề nghiệp GV gắn với địa phương có xu hướng:
- Mang mọi người lại gần nhau để giải quyết các vấn đề và nhu cầu của địa phương
trong một khoảng thời gian;
- Khuyến khích các phương pháp tiếp cận sáng kiến cá nhân và cộng tác trong giả
quyết các vấn đề của thực tiễn;
Phát triển nghề nghiệp giáo viên phổ thông theo tiếp cận năng lực - kinh nghiệm thế giới
141
- Cho phép việc phát triển nghề nghiệp giáo viên linh hoạt, bền vững và chuyên sâu hơn;
- Cung cấp các cơ hội liên tục cho việc học tập chuyên nghiệp trong một nhóm giáo viên.
Phát triển nghề nghiệp GV dựa vào địa phương phải là một phần của kế hoạch phát
triển nghề nghiệp lâu dài của bất kỳ quốc gia nào để cải thiện giáo dục. Các chương trình
PTNN GV dựa vào địa phương có thể tăng thêm và cung cấp bổ sung cho mô hình chuẩn
hóa. Ví dụ, các bài khoa học mới hoặc phương pháp đánh giá, có thể được giới thiệu tại
các hội thảo cấp quốc gia cho GV cốt cán. Các GV này sau đó sẽ trở lại trường học của họ
và làm việc tại chỗ với các đồng nghiệp để thực hiện các kĩ thuật mới một cách hiệu quả.
Chính vì thế, nhiều chương trình PTNN GV khó phân loại rõ ràng thành chuẩn hóa hoặc
dựa vào địa phương.
2.2.3. Mô hình tự phát triển nghề nghiệp giáo viên
Phát triển nghề nghiệp cá nhân hoặc tự định hướng: tập trung vào PTNN cá nhân, tự
định hướng với ít hỗ trợ chính thức. Trong phát triển nghề nghiệp GV tự định hướng, GV
được yêu cầu xác định mục tiêu phát triển nghề nghiệp của riêng mình và chọn các hoạt
động sẽ giúp họ đạt được các mục tiêu này. Phát triển nghề nghiệp GV tự định hướng có thể
bao gồm xem các ví dụ video về lớp học, đọc tài liệu về giáo dục hoặc nghiên cứu thực địa,
sưu tầm và đọc các bài tạp chí có liên quan, thực hiện các nghiên cứu điển hình, tham gia
các khóa học trực tuyến hoặc quan sát các lớp do các đồng nghiệp giảng dạy. Nhiều GV đã
tham gia vào phát triển nghề nghiệp GV tự định hướng không chính thức, bằng cách tìm
kiếm một đồng nghiệp có kinh nghiệm để được tư vấn, hoặc tìm kiếm các kế hoạch bài học
trên Internet.
Tự PTNN GV đặt mọi trách nhiệm lên GV và đòi hỏi ít từ trường học. Các hoạt động
tự định hướng là hiệu quả nhất với các GV là những người có động lực tự học, và những
người đã phát triển các kĩ năng giảng dạy và làm chủ môn học. Vì những lí do này, PTNN
GV tự định hướng ít hiệu quả để nâng cao các kĩ năng cơ bản hoặc mức giữa, và do đó ít
có lợi cho GV có tay nghề thấp. Mặc dù chắc chắn các GV nên được khuyến khích tham
gia vào việc học tập liên tục, tự vận động, các hoạt động tự lập không nên được sử dụng
làm phương tiện chính để PTNN GV.
Trên đây là 3 mô hình phổ biến trong phát triển nghề nghiệp GV diễn ra trong thực
tiễn ở nhiều quốc gia. Mỗi mô hình đều có những ưu điểm và những hạn chế (xem bảng
dưới). Mỗi mô hình có thể bổ sung cho nhau, và có thể được thực hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau, cho phép các chương trình PTNN GV triển khai để đạt được số lượng GV
lớn. Tuy nhiên, theo các chuyên gia giáo dục, mô hình phát triển nghề nghiệp GV dựa vào
địa phương đáp ứng nhu cầu và điều kiện của địa phương, nên là nền tảng cho phát triển
GV trên toàn hệ thống giáo dục.
Bảng 1. So sánh điểm mạnh, hạn chế của các mô hình phát triển nghề nghiệp GV [3]
Điểm mạnh Hạn chế
Mô hình phát triển nghề nghiệp GV được chuẩn hóa
• Giới thiệu kiến thức cơ bản và kĩ
năng chung cho nhiều người tham
gia
• Mở rộng kiến thức của GV bằng
• Các vấn đề dựa trên một phía
• Phương pháp tiếp cận “một kích thước phù hợp
tất cả" loại trừ các vấn đề gắn với ngữ cảnh có thể
gây rào cản cho việc thực hiện trong trường học
Nguyễn Thị Kim Dung
142
cách cung cấp các ý tưởng và chiến
lược mới
• Cấu trúc bồi dưỡng hình “Kim
tự tháp” tạo điều kiện cho các dự
án quy mô lớn và sự khuếch tán
nhanh chóng trên các hệ thống
• Có thể tạo ra các liên minh và
mối quan hệ mới giữa các giáo
viên tham gia
• Cách tiếp cận một lần của hội thảo không đề cập
đến bản chất học tập dài hạn, phát triển
• Giảm thiểu đáng kể các kĩ năng và kiến thức
trong việc chuyển từ GV cốt cán sang đồng nghiệp
• Không cung cấp theo dõi, giám sát tiếp hoặc hỗ
trợ sau bồi dưỡng
• Đánh giá là khó khăn - kết quả dựa trên lớp học chỉ
xuất hiện theo thời gian và nằm ngoài hội thảo
Mô hình phát triển nghề nghiệp GV dựa vào địa phương/nhà trường
• Có lợi hơn để xây dựng một
cộng đồng thực hành
• Dựa vào địa phương, tập trung
vào nhu cầu của địa phương, xây
dựng và bồi dưỡng sự thành thạo
ở địa phương
• Hỗ trợ các nỗ lực PTNN GV
bền vững để bồi dưỡng sự thành
thạo trong các trường học
• Nhiều thời gian
• Khó khăn trong cung cấp sự thành thạo cho các
khu vực nguồn lực nghèo nàn, đặc biệt là những
khu vực bị ảnh hưởng bởi con người hoặc địa lí xa
xôi
Mô hình tự phát triển nghề nghiệp
• Linh hoạt
• Cơ hội để lựa chọn và cá nhân
hóa
• Giáo viên có thể tham gia vào
các cộng đồng trực tuyến và truy
cập các tài nguyên
• Giáo viên phải có quyền truy cập vào tài nguyên
công nghệ hoặc các tài nguyên khác
• Giáo viên đã phát triển trình độ chuyên môn cao
• Chỉ phù hợp với các GV có động lực và tự chủ cao
• Vì GV làm việc một mình, tỷ lệ tiêu hao sinh lực
có thể cao hơn
2.3. Một số bài học cho phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên ở Việt Nam
Trên cơ sở phân tích thế nào là PTNN GV hiệu quả và các mô hình PTNN GV hiện
nay của các nước trên thế giới, chúng tôi rút ra một số bài học cho các chương trình bồi
dưỡng PTNN GV Việt Nam như sau:
(i) PTNN GV là quá trình lâu dài, phải diễn ra liên tục, bao gồm đào tạo, thực hành,
phản hồi và cung cấp đủ thời gian cũng như có sự hỗ trợ tiếp theo để đảm bảo những kiến
thức, kĩ năng mới được áp dụng vào thực tiễn nhà trường, thực tiễn hoạt động nghề
nghiệp của GV. Để GV có thể học liên tục trong quá trình lao động nghề nghiệp của mình,
các chương trình PTNN phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Đảm bảo liên tục của bồi dưỡng và kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ được cập nhật;
- Kế hoạch và phương pháp dạy học – giáo dục đáp ứng nhu cầu đổi mới của ngành
để GV có thể thích ứng được với mọi sự thay đổi và tiến bộ trong nghề nghiệp của họ;
- Phát huy tối đa mọi phương tiện, thoát khỏi giới hạn của các hình thức bồi dưỡng
truyền thống cũng như sự hạn hẹp về hình thức tổ chức;
- Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa GV, nhà trường và các bên có liên quan.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên phổ thông theo tiếp cận năng lực - kinh nghiệm thế giới
143
(ii) Các chương trình PTNN GV phải gắn với địa phương, với nhà trường từ nội
dung đến hình thức triển khai. Chương trình PTNN GV chỉ có hiệu quả khi nội dung của
nó phản ánh những vấn đề của thực tiễn, giải quyết những khó khăn mà GV và nhà trường
đang phải đối mặt. Các chương trình thành công thu hút GV vào các hoạt động học tập
tương tự như những gì họ sẽ sử dụng với HS của họ. Ngoài ra, các chương trình PTNN
GV phải hướng đến tạo ra một cộng đồng học tập ngay trong nhà trường. Nhà trường phải
trở thành một tổ chức biết học hỏi khi mọi người đều sẵn sàng cho việc học tập, sẵn sàng
chia sẻ kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm của họ một cách có hệ thống.
(iii) Giáo viên – phải là những người học tích cực, chủ động. Muốn thế, GV đã được
tham gia trực tiếp vào việc thiết kế và thử nghiệm những phương pháp giảng dạy với tư
cách là những người có nhu cầu bồi dưỡng. Nội dung bồi dưỡng GV phải có tính ứng
dụng thực tế, xuất phát từ đề xuất của người học chứ không phải được xác định trước, bị
áp đặt từ trên xuống của các cấp quản lí, khiến cho công tác bồi dưỡng mang tính hình
thức, bắt buộc và kém hiệu quả. Đó phải là những nội dung bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu
thực tế và giải quyết các khó khăn về chuyên môn, nghiệp vụ mà GV gặp phải trong thực
tiễn. Từ nội dung đến hình thức học tập PTNN GV phải kết nối trực tiếp với lớp học và
HS của họ.
Bên cạnh đó, để GV trở thành những người học tích cực rất cần tạo ra nhu cầu,
động cơ PTNN cho GV. Nghiên cứu của Fuller và đồng nghiệp (2006) cho thấy niềm tin,
sự hiểu biết, các kĩ năng và thái độ với cuộc sống, với công việc cũng như nhu cầu và quan
niệm về việc học của GV tác động đến việc học tập của họ [10]. Cùng một cơ hội, môi
trường học tập như nhau nhưng GV có thể tích cực, tận dụng các cơ hội học tập nhưng có
GV lại thờ ơ, bỏ qua. Điều này phụ thuộc vào nhu cầu, thái độ của mỗi GV.
(iv) Cần sử dụng đa dạng, linh hoạt các mô hình PTNN GV khác nhau –bồi dưỡng
GV tập trung, bồi dưỡng GV tại chỗ, gắn với nhà trường và tự bồi dưỡng PTNN, trong đó
đặc biệt chú trọng mô hình PTNN GV tại chỗ. Bởi vì thông qua học tập tại chỗ, GV có
thể tiếp cận trực tiếp với chuyên gia và tạo ra các tương tác đa chiều, không bị ngăn cách
về mặt thời gian và không gian. Họ được học hỏi đầy đủ và tận gốc những nội dung bồi
dưỡng, họ được trao đổi, chia sẻ về chuyên môn, nghiệp vụ với những GV có kinh
nghiệm và với nhau. Bên cạnh đó, việc tham gia hàng ngày tại nơi làm việc là những tài
nguyên học tập không chính thức rất lớn đối với GV khi mà họ nhận được sự hỗ trợ và
phản hồi từ các đồng nghiệp. Hình thức phát triển nghề nghiệp này vừa đáp ứng được nhu
cầu cá nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu tập thể và như vậy giúp cho GV kiến tạo các quá
trình học tập sao cho thích ứng với những thay đổi xã hội trong bầu không khí cởi mở và
cộng tác .
(v) Phát triển nghề nghiệp GV phải hướng đến xây dựng cộng đồng học tập trong nhà
trường: PTNN GV hiệu quả nhất khi tập thể các thành viên trong trường hợp tác nỗ lực để
cải thiện, học hỏi và cùng nhau đổi mới. PTNN chất lượng cao tạo không gian cho GV
chia sẻ các ý tưởng và cộng tác trong việc học của họ, thường gắn với ngữ cảnh công việc
thực diễn ra ở nhà trường phổ thông (nhúng vào thực tiễn). Bằng cách làm việc cộng tác,
GV có thể tạo ra các cộng đồng học tập nhờ đó thiết lập một văn hóa chia sẻ trong toàn
trường, lôi cuốn và phát triển liên tục, tập trung vào suy ngẫm thực tiễn để nâng cao kết
quả học tập của HS và cái đích cuối cùng là tất cả những GV làm việc trong và ngoài
lớp học đều hướng đến phát triển năng lực chuyên môn và kết quả học tập của người học.
Nguyễn Thị Kim Dung
144
3. Kết luận
Để nâng cao chất lượng giáo dục thì phát triển nghề nghiệp GV là nhiệm vụ quan
trọng, sống còn không chỉ của GV mà của cả nhà trường. Phát triển nghề nghiệp GV phải
hướng đến các hoạt động phát triển các kiến thức, kĩ năng, thái độ và các đặc điểm khác
của GV để giúp họ giải quyết những khó khăn, những yêu cầu mới của thực tiễn lớp học
với đích cuối cùng là nâng cao chất lượng học tập của HS. Để đạt được điều đó, PTNN
GV phải đảm bảo tập trung vào những nội dung đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nhu cầu của
GV, kết hợp học tập tích cực và cộng tác, sử dụng các mô hình thực tiễn, gắn với nhà
trường và đảm bảo đủ dài thời gian để GV có thể áp dụng những gì đã học vào những trải
nghiệm mới
Lời cảm ơn: Bài viết này là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Bộ: B2018-
SPH-03HT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bainer, D.L.; Cantrell, D.; Barron, P., 2000. Proferrional development of non-formal
environmental educators through school-based partnerships. Journal of Environmental
Education. 32 (1), pp 36-45.
[2] Darling-Hammond, L., 1998. The quiet revolution: rethinking teacher development.
Journal: Educational Leadership, 53(6), pp 4-10.
[3] Gaible, Edmond and Mary Burns, 2005. Models and best practices in teacher
professional development, In: Using Technology to Train Teachers: Appropriate Uses of
ICT for Teacher Professional Development in Developing Countries. Washington, DC:
infoDev / World Bank. Available at:
[4] Hayes Mizell, 2010. Why Professional Development Matters, www.learningforward.org.
[5] Eleonora Villegas-Reimers, 2003. Teacher Professional development- an international
review of the literature. Published by International Institute For Educational Planning,
UNESCO Paris.
[6] European Commission, 2013. Supporting teacher competence development for better
learning outcomes, Education and Training, at:
education/teacher-cluster_en.htm. Section.
[7] OECD, 2009. The Professional Development of Teachers, In: Creating Effective
Teaching and Learning Environments: First Results from TALIS at:
www.oecd.org/publishing/corrigenda.
[8] Schleicher, A., 2011. Building a High-Quality Teaching Profession: Lessons from
around the World. OECD Publishing.
[9] Vũ Thị Sơn, 2015. Mô hình đào tạo giáo viên theo định hướng phát triển năng lực nghề,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[10] Tang, S.Y.F. & Choi, P.L.,2009. Teachers’ professional lives and
continuing professional development in changing times. Educational Review, 61(1),1-18.
Phát triển nghề nghiệp giáo viên phổ thông theo tiếp cận năng lực - kinh nghiệm thế giới
145
ABSTRACT
Competency – based teacher professional development
– the experience and lessons for Vietnam
Nguyen Thi Kim Dung
Institute for Educational Research, Hanoi National University of Education
The continuous development of science and technology requires that each person,
especially the teacher, to have the competency to be innovative and adaptive , to be
lifelong learners, to learn anytime and anywhere. However, how to effectively develop
professional qualifications of teachers is always a concern for researchers, administrators,
and teachers. This article analyses what is the professional development of effective
teachers as well as the current professional development teacher models in the world to
draw 5 lessons for the development of teachers in Vietnam.
Keywords: Professional development, teacher, model, competency approach, lesson.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5518_0031_4_nguyen_thi_kim_dung_3529_2132668.pdf