Tài liệu Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam: 81
Phát triển kinh tế . . .
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
Nguyễn Minh Tuấn*
TÓM TẮT
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (NGXH) ở Việt
Nam đã xác định: Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Các hình thức sở
hữu hỗn hợp đan kết với nhau, hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng, ngày càng phát triển.
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
do các chủ tư nhân trực tiếp quản lý, hoặc chi phối, đồng thời với lao động của các chủ thể kinh
tế và sử dụng lao động làm thuê. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế tư bản tư nhân kinh tế cá thể và
tiểu chủ. Theo nghĩa rộng kinh tế tư nhân bao gồm tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh
không thuộc sở hữu nhà nước (hoặc Nhà nước có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không
do nước ngoài đầu tư (hoặc nước ngoài có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không ...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 584 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
81
Phát triển kinh tế . . .
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
Nguyễn Minh Tuấn*
TÓM TẮT
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (NGXH) ở Việt
Nam đã xác định: Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Các hình thức sở
hữu hỗn hợp đan kết với nhau, hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng, ngày càng phát triển.
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
do các chủ tư nhân trực tiếp quản lý, hoặc chi phối, đồng thời với lao động của các chủ thể kinh
tế và sử dụng lao động làm thuê. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế tư bản tư nhân kinh tế cá thể và
tiểu chủ. Theo nghĩa rộng kinh tế tư nhân bao gồm tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh
không thuộc sở hữu nhà nước (hoặc Nhà nước có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không
do nước ngoài đầu tư (hoặc nước ngoài có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không thuộc
thành phần kinh tế tập thể.
Bài viết này sẽ phác họa tính tất yếu, quan điểm và giải pháp chủ yếu về phát triển kinh tế
tư nhân ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ khóa: kinh tế tư nhân, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
THE PRIVATE ECONOMIC SECTOR DEVELOPMENT
IN THE SOCIALIST-ORIENTED MARKET ECONOMY IN VIETNAM
ABSTRACT
The guide lines for national construction in the transitional period to socialism in Vietnam
were identified: The Private Sector is one of the driving forces of the economy. The forms of ownership
have been interwoven, forming various economic organizations, and have ever been growing.
The private economic sectors are the economic sectors based on private ownership regime
of the means of production, that are directly managed or dominated by private owners, and
accompanied by labors of economic actors and their employees. Private sectors including private
capitalist economic sectors and individual economic sectors. In broad sense, the private sectors
include all businesses, business organizations not owned by the state (or state capital contribution
but does not hold a dominant role), not by foreign investors (or foreign capital contribution but does
not hold a dominant role), are not the sector of the collective economy.
This article will outline the necessity, viewpoints and solutions mainly on private economic
sector development in Vietnam in the process of the development of socialist-oriented market economy.
Keywords: private economic sectors, socialist-oriented market economy
* PGS.TS. Khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
82
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. Tính tất yếu khách quan của phát
triển kinh tế tư nhân
Sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư
nhân, gắn liền với nó là quyền sở hữu tư nhân
và lợi ích cá nhân là phù hợp với quy luật của
tự nhiên. Nhà kinh tế học A. Smith, cha đẻ của
kinh tế thị trường đã khẳng định: con người từ
khi sinh ra, theo bản năng đã muốn có được
lợi ích cho cá nhân mình. Lợi ích cá nhân
là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các cá nhân
trong xã hội, khi theo đuổi lợi ích của cá nhân
mình, con người đồng thời cũng thúc đẩy lợi
ích xã hội. Trong tác phẩm nổi tiếng “Của cải
của các dân tộc” (The Wealth of Nations) A.
Smith viết: “khi mỗi cá nhân làm việc, anh
tachỉ nghĩ đến cái lợi của mìnhnhưng bị
dẫn dắt bởi bàn tay vô hình thúc đẩy anh ta
làm việc không theo dự định ban đầukết
quả ngoài dự định đó là tăng trưởng kinh tế
và cải thiện mức sống cho cả quốc gia” (1).
Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân luôn mang
trong nó một động lực mạnh mẽ - động lực
cá nhân, một thuộc tính tồn tại lâu dài với đời
sống con người và xã hội loài người
Sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tư
nhân là một tất yếu, khách quan trong tiến
trình phát triển của xã hội loài người, nó đã và
đang tiếp tục phát huy tác dụng to lớn trong
thời đại ngày nay. Với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất mà nhân loại đạt được như
hiện nay, việc theo đuổi lợi ích thiết thân của
bản thân mỗi con người vẫn chưa thể mất đi,
do đó nó đòi hỏi phải hình thành một cơ chế
vừa tạo động lực để thể kích thích cá nhân con
người, vừa có thể thực hiện các mục tiêu xã
hội. Đó chính là cơ chế thị trường cùng với sự
tồn tại khách quan của các hình thức sở hữu
đa dạng, trong đó có sở hữu tư nhân và tương
ứng với nó là thành phần kinh tế tư nhân được
coi là động lực quan trọng của sự phát triển.
Trong lịch sử phát triển kinh tế của xã hội
loài người, nếu so sánh, đối chiếu với các hình
thức sở hữu khác, thì phải thừa nhận rằng, sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là hình thức sở
hữu phù hợp hơn cả. Trong hình thức sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất, mục đích của sản
xuất hàng hoá, như C. Mác đã khẳng định:
không chỉ là sản xuất ra giá trị sử dụng, mà
thông qua sản xuất giá trị sử dụng để thực
hiện giá trị của hàng hoá và từ đó đạt được giá
trị thặng dư, lợi nhuận.
Ngày nay, sở hữu tư nhân và kinh tế tư
nhân đã phát triển lên một trình độ mới về
chất, quy mô sở hữu của nhiều doanh nghiệp
tư nhân ngày càng đồ sộ và nhiều doanh
nghiệp tạo ra một lượng của cải và tài sản có
giá trị lớn hơn cả tổng thu nhập của một số
quốc gia. Cùng với quá trình phát triển kinh
tế, sở hữu tư nhân cũng có những hình thức
mới như: sở hữu thương hiệu, bí quyết công
nghệ, kinh nghiệm quản lý, không gian ảo, tài
sản ảo trên mạng Internet
Kinh tế tư nhân cùng tồn tại và phát triển
với kinh tế nhà nước và các thành phần kinh
tế khác, nhưng tại sao kinh tế tư nhân lại năng
động hơn, có sức sống hơn, hoạt động hiệu
quả hơn và phát triển mạnh mẽ hơn? Câu trả
lời là kinh tế tư nhân có sự tương thích rất cao
với kinh tế thị trường, đặc biệt là tính chất mở
cửa thị trường ngày càng tăng, sự phát triển
của kinh tế thị trường, sự hợp tác và cạnh
tranh quốc tế đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải
rất năng động, linh hoạt, nhạy bén và tự chủ
cao trong hoạt động kinh doanh, điều này rất
phù hợp với kinh tế tư nhân. Ngoài ra, kinh tế
tư nhân còn có khả năng cạnh tranh cao, do nó
luôn luôn phải đối mặt với những khắc nghiệt
của thương trường để tồn tại và phát triển
Kinh tế tư nhân còn tạo ra những động lực
thúc đẩy sự phát triển của xã hội, thông qua
83
Phát triển kinh tế . . .
hoạt động kinh doanh tư nhân mà mở rộng
việc làm cho mỗi cá nhân, phát huy khả năng
và trí tuệ của bản thân, thỏa mãn nhu cầu ngày
càng caocủa cá nhân và gia đình, tìm kiếm
hạnh phúc và để tự khẳng định mình. Kinh tế
tư nhân có cội nguồn từ cá nhân, vì vậy phát
triển kinh tế tư nhân phải dựa trên nền tảng
phát triển các giá trị cá nhân, phát triển năng
lực cá nhân, phát triển con người. Có thể nói,
không có sự phát triển năng lực cá nhân thì sẽ
không có sự phát triển kinh tế tư nhân. Một
trong những yếu tố thúc đẩy cạnh tranh của
cộng đồng xã hội chính là tính đa dạng của sự
sáng tạo, mà tính đa dạng của sự sáng tạo là
hệ quả tất yếu của sự phát huy đa dạng năng
lực cá nhân. Như vậy, có thể nói lý thuyết phát
triển kinh tế tư nhân bắt nguồn từ lý thuyết
phát triển con người.
Ngày nay, quốc tế hóa kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế làm cho các rào cản đầu tư,
thương mại, hàng hóa và dịch vụ giữa các
quốc gia dần dần được dỡ bỏ, nền kinh tế thị
trường mở đang tạo điều kiện thuận lợi cho
kinh tế tư nhân phát triển và lớn mạnh không
ngừng. Trong quá trình phát triển, kinh tế tư
nhân tồn tại dưới nhiều dạng như: kinh tế cá
thể, tiểu chủ, kinh tế tư nhân một chủ, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công
ty đa quốc gia và những tập đoàn kinh doanh
quốc tế. Sự lớn mạnh của các công ty đa quốc
gia gắn liền với sở hữu tư nhân cho thấy kinh
tế tư nhân đã có sự phát triển vượt bậc với
những thay đổi cả về lượng và chất.
2. Quan điểm của đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển kinh tế tư nhân
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã
khẳng định sự tồn tại của kinh tế tư nhân là
một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Khi đánh giá về sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB) ở Anh, C.
Mác, một mặt phê phán những mặt trái của nó,
đồng thời cũng khẳng định đóng góp to lớn
của CNTB trong quá trình sản xuất của cải vật
chất, theo C.Mác, CNTB ra đời chưa đầy 100
năm nhưng đã tạo ra khối lượng của cải bằng
tất cả các xã hội trước cộng lại. Lênin trong
chính sách kinh tế mới (NEP) đã nói, cần phải
sử dụng CNTB nhà nước với nhiều hình thức
đa dạng: cho các nhà tư bản thuê đất, phát
triển hình thức hợp tác xã tư bản, sử dụng các
nhà tư bản trong lĩnh vực thương mại, học hỏi
kinh nghiệm tổ chức, quản lý của các nhà tư
bản để xây dựng và phát triển kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Kết quả của chính sách kinh tế mới đã giải
quyết được tình trạng thiếu lương thực, đưa
nước Nga thoát khỏi khủng hoảng kinh tế,
khôi phục và phát triển kinh tế, góp phần bảo
vệ, củng cố nhà nước vô sản, sau Cách mạng
tháng Mười Nga, tuy nhiên chính sách kinh tế
mới chỉ được thực hiện đến năm 1928, vì vậy
đã không phát huy được tiềm năng của kinh tế
tư nhân ở nước Nga lúc bấy giờ.
Ở Việt Nam, sau giải phóng năm 1975
do áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, cộng với tư tưởng chủ quan, nóng vội
duy ý chí, chúng ta đã tìm cách hạn chế và
xóa bỏ kinh tế tư nhân, đưa kinh tế tư bản tư
nhân vào đối tượng phải “cải tạo”, “xóa bỏ”,
từ đó đã triệt tiêu sự phát triển của kinh tế
tư bản tư nhân. Thực tiễn đổi mới kinh tế từ
năm 1986 cho thấy, việc phát triển kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là một chủ trương đúng đắn
và nhất quán của Đảng ta dựa trên cơ sở khoa
học và phù hợp với các quy luật kinh tế khách
quan, là sự vận dụng một cách sáng tác tạo
chủ nghĩa Mác -Lênin vào điều kiện lịch sử,
cụ thể của Việt Nam. Chủ trương đó của Đảng
và Nhà nước ta đã được đại đa số nhân dân
84
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đồng tình, ủng hộ. Đường lối đổi mới của
Đảng ta bắt đầu từ Đại hội VI và được hoàn
thiện đần qua các kỳ Đại hội tiếp theo. Tại
Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định, “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh
tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa”(2)
Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định
rằng, “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng,
là một trong những động lực của nền kinh
tế”(3)
.
Trong quá trình đổi mới đó, nhận thức
của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân
đã có sự thay đổi căn bản so với trước đây.
Kinh tế tư nhân được coi là một trong những
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân, được đối xử và hoạt động bình đẳng
như các thành phần kinh tế khác. Việc đổi mới
nhận thức về vị trí và vai trò của kinh tế tư
nhân như trên thể hiện sự đánh giá một cách
khách quan và khoa học hơn về khu vực kinh
tế này của Đảng và Nhà nước. Thực tế cho
thấy, kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ vai
trò của nó, là thành phần kinh tế năng động,
hoạt động có hiệu quả, đang ngày càng lớn
mạnh trở thành một đối chứng để các thành
phần kinh tế khác phấn đấu vươn lên, tự đổi
mới, tự hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Với trình độ phát triển như hiện nay của
lực lượng sản xuất ở nước ta, sự tồn tại của
kinh tế tư nhân vẫn là nhu cầu khách quan.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, xét
đến cùng, bao giờ cũng quy định trình độ phát
triển của con người. Khi thừa nhận kinh tế thị
trường là cần thiết đối với quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, thì cũng có nghĩa là phải
thừa nhận sự tồn tại tất yếu của kinh tế tư nhân
trong chủ nghĩa xã hội. Kinh tế tư nhân đã và
đang tiếp tục chứng tỏ vai trò động lực của nó
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong
hơn 20 năm đổi mới vừa qua, đã đóng góp
không nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề kinh
tế và xã hội của đất nước như huy động được
nhiều nguồn vốn đầu tư với số lượng lớn, góp
phần nâng cao sức sản xuất của xã hội, tạo
thêm nhiều việc làm mới, vừa làm tăng của
cải vật chất cho xã hội, vừa làm giảm áp lực
giải quyết việc làm cho người lao động, thúc
đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị
trường, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá
sản xuất trong nước, tạo ra sự cạnh tranh bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hoạt
động sản xuất và kinh doanh, góp phần tạo
nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa tham
gia giải quyết nhiều vấn đề xã hội... Sự phát
triển của kinh tế tư nhân đã khơi dậy và phát
huy được tiềm năng về vốn, đất đai, lao động,
kinh nghiệm sản xuất của các tầng lớp nhân
dân vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Chính vì những lý do đó, chúng
ta có thể khẳng định rằng, sự phát triển của
kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hoá.Bởi vậy, có thể
khẳng định phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong tiến trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây có thể coi
là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
công cuộc đổi mới của đất nước trong những
năm sắp tới.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều chủ thể
sản xuất, kinh doanh thuộc khu vực kinh tế
tư nhân trong tất cả các lĩnh vực, các ngành
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đã đẩy lùi dần
85
Phát triển kinh tế . . .
tình trạng độc quyền, làm cho sản xuất hàng
hoá phát triển, thị trường được mở rộng, các
quy luật kinh tế thị trường phát huy được tác
dụng đẩy lùi cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp vốn đã ăn sâu trong tiềm thức xã
hội. Thông qua việc phát triển kinh tế tư nhân
mà quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là
quyền làm chủ về kinh tế được phát huy.
Kinh tế tư nhân phát triển nhanh chóng
trong thời gian qua còn do tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của đất nước, đặc biệt từ giữa
thập kỷ 1990, khi nước ta lần lượt tham gia
ASEAN, ASEM, APEC, WTO và không
ngừng mở rộng quan hệ song phương với
các nước khác trên thế giới. Thị trường các
nước mở rộng đã tạo cơ hội cho các các doanh
nghiệp tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh
các sản phẩm của mình trên các thị trường khu
vực và quốc tế. Khi những rào cản thương mại
dần được dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ có vị trí bình đẳng, không bị phân biệt đối
xử trên thị trường các nước. Họ sẽ có quyền
không chỉ xuất nhập khẩu, tiếp nhận đầu tư,
mà còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác
khác và đầu tư ra các thị trường nước ngoài,
khai thác tối đa những lợi thế cạnh tranh của
mình và tận dụng lợi thế của sự phân công lao
động quốc tế, tham gia mạng lưới kinh doanh
và chuỗi giá trị toàn cầu theo cách có lợi nhất
cho mình.
3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy
phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam
hiện nay
Để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư
nhân trong thời gian tới, theo chúng tôi cần
phải tập trung giải quyết những vấn đề sau:
Một là, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban
hành mới các quy định về pháp luật, cơ chế,
chính sách, thủ tục hành chính để tạo điều
kiện hơn nữa cho kinh tế tư nhân phát triển.
Cụ thể, phải cụ thể hóa Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư. Khắc phục những nội dung chưa
rõ ràng, chồng chéo giữa các văn bản pháp
luật; điều chỉnh cơ chế phân cấp và phối hợp
giữa Trung ương và địa phương trong quản
lý nhà nước về đầu tư; quan tâm đến bảo vệ
nhà đầu tư, cổ đông thiểu số; sớm có hướng
dẫn đầy đủ việc xử lý các trường hợp doanh
nghiệp vi phạm các hành vi bị cấm theo quy
định của Luật; sửa đổi, bổ sung một số quy
định để giải quyết những vấn đề bất cập trong
thực hiện chính sách về đất đai; sửa đổi các
quy định chi tiết thi hành Luật Quản lý thuế
theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính;
sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán cho phù hợp
với trình độ, quy mô, phạm vi hoạt động của
doanh nghiệp nhỏ và vừa; chỉ thị của Ban Bí
thư nêu rõ yêu cầu có cơ chế để doanh nghiệp
của tư nhân được vay vốn viện trợ phát triển
chính thức (ODA) như các doanh nghiệp nhà
nước; tiếp tục rà soát bãi bỏ các khoản phí,
lệ phí không hợp lý; ưu tiên nhiều hơn cho
các doanh nghiệp tư nhân phát triển sản xuất,
kinh doanh ở những khu vực khó khăn, vùng
núi, biên giới và hải đảo; quyền lợi của người
lao động trong khu vực kinh tế tư nhân phải
được bảo đảm; Nghiên cứu để sớm có chương
trình quốc gia về hỗ trợ nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và chương trình quốc gia về
đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong các doanh
nghiệp tư nhân.
Hai là, hình thành những doanh nghiệp
tư nhân mạnh đủ sức cạnh tranh trên thị
trường trong và ngoài nước. Để nâng cao
sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp tư nhân,
nhà nước cần tiếp tục hỗ trợ đào tạo nguồn
nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, chủ
doanh nghiệp và người lao động, phải không
ngừng nâng cao trình độ quản lý, tay nghề;
xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh
86
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
nghiệp ứng dụng công nghệ mới; đẩy nhanh
việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất;
thiết lập thị trường công nghệ; tiếp tục triển
khai tích cực và đồng bộ các chính sách trợ
giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; đẩy
mạnh hỗ trợ thông tin; đẩy mạnh hoạt động
xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường xuất
khẩu cho doanh nghiệp.
Ba là, cần bảo đảm sự bình đẳng thật sự
giữa kinh tế tư nhân với các thành phần kinh
tế khác, đặc biệt là với kinh tế nhà nước trong
cùng ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh;
khuyến khích và mở rộng các hình thức hợp
tác, liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp tư
nhân với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
tạo ra mối quan hệ hợp tác, cạnh tranh lành
mạnh cùng có lợi.
Bốn là, khuyến khích, tạo động lực cho
kinh tế tư nhân phát triển thành lực lượng
mạnh, tạo động lực để khu vực kinh tế này
phát triển bền vững, góp phần giải quyết
việc làm cho người lao động. Hiện nước ta
có lực lượng lao động lớn nhưng trình độ,
năng suất, hiệu quả lao động còn thấp, nếu
các doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh
mẽ, sẽ chuyển dịch lao động vào các doanh
nghiệp tư nhân, điều này vừa phát huy được
tiềm năng lao động của đất nước, nâng cao
hiệu quả kinh tế, vừa giải quyết được việc
làm góp phần xóa đói giảm nghèo, thực hiện
tốt các mục tiêu xã hội.
Năm là, thời gian tới các doanh nghiệp tư
nhân phải phát triển cả về số lượng và chất
lượng phù hợp với xu hướng tái cơ cấu nền
kinh tế. Các doanh nghiệp tư nhân cần tập
trung phát triển theo chiều sâu, kết hợp với
phát triển bền vững. Tuy nhiên, để doanh
nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ về chiều
sâu, cơ chế chính sách cần tiếp tục đổi mới,
đặc biệt là chính sách về vốn không nên cào
bằng. Giai đoạn kinh tế suy giảm, chúng ta áp
dụng gói hỗ trợ lãi suất mang tính cào bằng,
nhưng những gói hỗ trợ lãi suất tiếp theo (nếu
có) nên tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm
như hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu, cho đổi mới công nghệ và cho
các ngành nghề sản xuất kinh doanh có hàm
lượng kỹ thuật cao. Nhà nước cần có chính
sách tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
tư nhân được tiếp cận nguồn tài nguyên, thông
qua các dự án chế biến khoáng sản để mang
lại giá trị gia tăng cao hơn cho xuất khẩu. Mặt
khác, nên hỗ trợ phát triển công nghiệp phụ
trợ bằng ưu đãi thuế để giảm nhập khẩu.
Sáu là, tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế đối
với kinh tế tư nhân, để có hướng phát triển lâu
dài, ổn định với các chính sách đồng bộ. Nhà
nước cần xem xét, giải quyết hàng loạt vấn đề
với tinh thần không phân biệt đối xử, như đất
đai, vốn, thủ tục hành chính, hỗ trợ đào tạo
nguồn nhân lực... Sớm cơ cấu lại nguồn vốn
đầu tư toàn xã hội theo hướng tăng tỷ trọng
đầu tư nguồn vốn của tư nhân, tạo điều kiện
cho kinh tế tư nhân nắm giữ phần vốn hợp lý
tại các doanh nghiệp nhà nước sau khi được
cổ phần hóa.
Bảy là, Việt Nam đã mở cửa, hội nhập
vào nền kinh tế của khu vực và thế giới, cùng
với những cơ hội mở ra khi rào cản thuế quan
được dỡ bỏ, thì các doanh nghiệp phải đối phó
với những rào cản phi thuế quan, dựa trên các
tiêu chí như: chất lượng quản trị, yếu tố công
nghệ, kỹ thuật, các tiêu chí thân thiện với môi
trường hay trách nhiệm với cộng đồng... nếu
các doanh nghiệp tư nhân của chúng ta không
nhanh chóng đáp ứng các tiêu chí này thì rất
có thể hàng hoá, dịch vụ của họ sẽ không thể
cạnh tranh được ở cả thị trường trong và ngoài
nước. Vì vậy, các doanh nghiệp tư nhân phải
87
Phát triển kinh tế . . .
đặc biệt chú ý và đảm bảo được các tiêu chí
này, trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Tóm lại: Khuyến khích kinh tế tư nhân
phát triển, một mặt chúng ta nhìn nhận, đánh
giá đúng những đóng góp tích cực của thành
phần này, mặt khác cũng phải thấy được
những hạn chế nhất định trong quá trình
phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam
như: phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy
mô nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ nếu theo tiêu
chuẩn quốc tế; hoạt động phân tán, manh
mún, mang nặng tính gia đình, ít liên kết với
nhau hoặc với kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể; đa số doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào
lĩnh vực thương mại, dịch vụ với mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận trước mắt, thiếu chiến lược
phát triển lâu dài, ổn định; quản trị nội bộ của
nhiều doanh nghiệp còn yếu, không ít doanh
nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể còn
vi phạm các quy định pháp luật; qui mô của
nhiều doanh nghiệp tư nhân tăng chậm do gặp
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn
vốn, đất đai; tính chất tự phát, tình trạng cạnh
tranh vô chính phủ, không chấp hành nghiêm
luật pháp còn diễn ra thường xuyên... Vì vậy,
cần phải đánh giá một cách khách quan, công
bằng sự phát triển của kinh tế tư nhân, chống
khuynh hướng đề cao quá mức dẫn đến tuyệt
đối hoá vai trò của kinh tế tư nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. C. Mác, Tư bản, tập thứ nhất - phần1; Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1987.
[2]. V.I.Lênin, toàn tập; tập 29. Nxb. Tiến Bộ Mát-xcơ-va, 1981.
[3]. Adam Smith, Của cải của các dân tộc (The Wealth of Nations), Nxb. Giáo dục, Hà Nội 1997.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr.86.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2006, tr.83.
[7]. Ban Bí thư Trung ương Đảng. Văn kiện Hội nghị sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương
5 (khóa IX) về “Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh
tế tư nhân”.
[8]. Phạm Chi Lan. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập quốc tế
[9]. Đặng Minh Tiến. Phát triển kinh tế tư nhân - xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay. Trường Đại học Thương mại Hà Nội.
[10]. Số liệu của Tổng cục Thống kê, Cục thống kê TP. HC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 52_81_2122303.pdf