Tài liệu Phát triển chủ đề học tập trong chương trình giáo dục mầm non theo tiếp cận năng lực: HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0159
Educational Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 9, pp. 138-148
This paper is available online at
PHÁT TRIỂN CHỦ ĐỀ HỌC TẬP TRONG CHƯƠNG TRÌNH
GIÁO DỤC MẦM NON THEO TIẾP CẬN NĂNG LỰC
Phạm Quang Tiệp
Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Tóm tắt. Bài báo tập trung phân tích làm rõ bản chất và đặc điểm của chương trình giáo
dục mầm non; bản chất của phát triển các chủ đề học tập trong chương trình giáo dục mầm
non theo tiếp cận năng lực. Trên cơ sở đó tiến hành xây dựng hệ thống các chủ đề học tập
hướng vào việc phát triển các năng lực cốt lõi cho trẻ. Minh họa xây dựng kế hoạch dạy học
một đề tài cụ thể theo tiếp cận năng lực. Những đề xuất trong nghiên cứu này được xem
như gợi ý cho nhà trường và cho giáo viên mầm non về điều chỉnh chương trình, xây dựng
kế hoạch giáo dục và thiết kế dạy học cho trẻ. Góp phần cùng với các nhà giáo giải quyết
một trong những vấn đề có tính thời sự của lĩnh vực giáo dục mầm n...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 340 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển chủ đề học tập trong chương trình giáo dục mầm non theo tiếp cận năng lực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0159
Educational Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 9, pp. 138-148
This paper is available online at
PHÁT TRIỂN CHỦ ĐỀ HỌC TẬP TRONG CHƯƠNG TRÌNH
GIÁO DỤC MẦM NON THEO TIẾP CẬN NĂNG LỰC
Phạm Quang Tiệp
Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Tóm tắt. Bài báo tập trung phân tích làm rõ bản chất và đặc điểm của chương trình giáo
dục mầm non; bản chất của phát triển các chủ đề học tập trong chương trình giáo dục mầm
non theo tiếp cận năng lực. Trên cơ sở đó tiến hành xây dựng hệ thống các chủ đề học tập
hướng vào việc phát triển các năng lực cốt lõi cho trẻ. Minh họa xây dựng kế hoạch dạy học
một đề tài cụ thể theo tiếp cận năng lực. Những đề xuất trong nghiên cứu này được xem
như gợi ý cho nhà trường và cho giáo viên mầm non về điều chỉnh chương trình, xây dựng
kế hoạch giáo dục và thiết kế dạy học cho trẻ. Góp phần cùng với các nhà giáo giải quyết
một trong những vấn đề có tính thời sự của lĩnh vực giáo dục mầm non giai đoạn hiện nay.
Từ khóa:Giáo dục mầm non, chương trình giáo dục, phát triển chương trình, tiếp cận năng
lực.
1. Mở đầu
Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam hiện nay, nhiều vấn đề
nổi lên và nhận được sự quan tâm lớn của các nhà khoa học cả trong và ngoài lĩnh vực giáo dục
như dạy học theo tiếp cận năng lực, dạy học tích hợp, dạy học phân hóa, phát triển chương trình
giáo dục, thiết kế và tổ chức hoạt động trải nghiệm cho người học. . . Dạy học theo tiếp cận năng
lực là một trong những vấn đề có tính thời sự trong giai đoạn hiện nay, những công trình nghiên
cứu về vấn đề này xuất hiện với mật độ khá lớn trên các tạp chí khoa học, danh mục đề tài khoa
học các cấp cũng như trên các diễn đàn hội thảo về giáo dục. Chẳng hạn Nguyễn Ngọc Duy [4],
Nguyễn Thị Ngà, Đặng Thị Oanh [2] với công trình nghiên cứu về phát triển năng lực tự học cho
học sinh; Hoàng Thanh Thúy [3], Nguyễn Thị Chung, Nguyễn Hữu Phương [4], Dương Huy Cẩn
[5] nghiên cứu về tăng cường năng lực cho sinh viên đại học; Đặng Văn Đức [6] nghiên cứu về
đánh giá học sinh theo định hướng phát triển năng lực. Những nghiên cứu của các tác giả trên đây
và nhiều nhà khoa học học đã luận giải khá đầy đủ và thuyết về bản chất của năng lực, cấu trúc
năng lực đối của các đối tượng người học từ trẻ mầm non, học sinh phổ thông tới sinh viên đại học,
phương thức dạy học và đánh giá người học theo tiếp cận năng lực. Những kết quả nghiên cứu trên
đây là tiền đề quan trọng cho đề tài nghiên cứu của tôi về vấn đề xây dựng và phát triển chủ đề học
tập cho trẻ mầm non.
Phát triển chương trình giáo dục không phải là vấn đề mới, song nó thực sự trở nên “nóng”
mới khoảng vài năm trở lại đây, khi mà tư tưởng đổi mới giáo dục Việt Nam dần được tạo dạng
Ngày nhận bài: 25/5/2017. Ngày nhận đăng: 21/8/2017
Liên hệ: Phạm Quang Tiệp, e-mail: pqtiepsp2@gmail.com
138
Phát triển chủ đề học tập trong chương trình giáo dục mầm non theo tiếp cận năng lực
theo hướng một chương trình và nhiều bộ sách giáo khoa. Với tinh thần ấy, việc phát triển chương
trình không chỉ còn là câu chuyện của chuyên gia giáo dục, của cấp quản lí giáo dục vĩ mô, mà
nó là công việc thường xuyên, liên tục của mọi nhà trường, mọi giáo viên (GV) từ mầm non tới
phổ thông, đại học và sau đại học. Chính vì thế, cũng khoảng 5 năm trở lại đây có khá nhiều công
trình ngiên cứu về vấn đề này, điển hình như các nghiên cứu của Trần Hữu Hoan [7] về phát triển
chương trình đào tạo GV; Nguyễn Vũ Bích Hiền, Nguyễn Vân Anh, Vũ Thị Mai Hương, Phạm
Ngọc Long, Nguyễn Thị Minh Nguyệt [8] về phát triển chương trình giáo dục nhà trường phổ
thông. Những nghiên cứu đã chỉ ra được khung lí luận khá đầy đủ về chương trình giáo dục và
phát triển chương trình giáo dục như bản chất và đặc điểm của chương trình giáo dục, các mô hình
và các tiếp cận trong phát triển chương trình giáo dục, nguyên tắc phát triển chương trình giáo
dục, quy trình chung để phát triển chương trình giáo dục. . . Tuy nhiên những nghiên cứu áp dụng
khung lí thuyết về phát triển chương trình giáo dục ấy vào thực tiễn giáo dục còn thưa thớt, đặc
biệt việc phát triển các chủ đề giáo dục trong chương trình giáo dục mầm non, hay việc phát triển
chương trình đối với các môn học cụ thể ở nhà trường phổ thông nhìn chung còn để ngỏ. Chính vì
thế những nghiên cứu ngày nay cần tập trung đi vào vấn đề cụ thể của phát triển chương trình nhà
trường, phát triển chương trình môn, phát triển các chủ đề học tập cho trẻ mầm non theo tiếp cận
hiện đại.
Như vậy một trong những vấn đề có tính cấp thời của giáo dục mầm non hiện nay chính là
phát triển các chủ đề giáo dục trong chương trình giáo dục mầm non để tạo ra các hoạt động giáo
dục vừa thể hiện rõ tinh thần tích hợp đã được xác lập, vừa định hướng phát triển năng lực, kĩ năng
sống cho trẻ, vừa phải làm cho các hoạt động giáo dục ấy có hơi thở của thực tiễn, gần gũi, gắn bó
với đời sống của trẻ, vừa phải phù hợp với trẻ ở từng độ tuổi, từng vùng miền khác nhau. Với cách
tiếp cận vấn đề như vậy, trong bài viết này chúng tôi tập trung vào phát triển chủ đề học tập trong
chương trình giáo dục mầm non như là một cách gợi ý cho nhà trường mầm non và cho GV trong
việc điều chỉnh chương trình, xây dựng kế hoạch giáo dục và thiết kế dạy học cho trẻ. Góp phần
cùng với các nhà giáo giải quyết một trong những vấn đề được xem là có tính thời sự của lĩnh vực
giáo dục mầm non giai đoạn hiện nay.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Chương trình giáo dục mầm non
Chương trình giáo dục nói chung được hiểu là bản kế hoạch tổng thể về việc giáo dục trẻ
ở một độ tuổi xác định, trong một khảng thời gian xác định với các điều kiện về nhân lực và cơ
sở vật chất xác định. Trong chương trình giáo dục thể hiện được ít nhất bốn thành tố cơ bản sau
đây: 1- Mục tiêu giáo dục (là những kết quả mong đợi mà trẻ đạt được sau khi thụ hưởng chương
trình giáo dục); 2- Nội dung giáo dục (là những hợp phần tri thức khoa học mà trẻ cần tích lũy để
đạt được trình mong muốn theo mục tiêu đã xác định); 3- Phương thức giáo dục (là cách thức, con
đường cụ thể để triển khai hoạt động giáo dục giúp cho trẻ chiếm lĩnh được tri thức khoa học, các
giá trị cần thiết – nội dung giáo dục); 4- Đánh giá kết quả giáo dục (là cách thức để xác định kết
quả trẻ đạt được sau mỗi giai đoạn học tập trong quá trình thực hiện chương trình giáo dục).
Chương trình giáo dục mầm non được xem là bản kế hoạch tổng thể quy định toàn bộ các
vấn đề liên quan tới giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi. Nội dung giáo dục trong chương trình
gồm 5 lĩnh vực chính sau đây: giáo dục thể chất, giáo dục nhận thức, giáo dục ngôn ngữ, giáo dục
tình cảm- xã hội và giáo dục thẩm mĩ. 5 lĩnh vực giáo dục này được các cấu trúc thành 9 chủ đề
học tập chính, bao gồm: Bản thân, Gia đình, Trường mầm non, Nghề nghiệp, Thực vật, Động vật,
Giao thông, Nước và các Hiện tượng Tự nhiên, Quê hương, đất nước, Bác Hồ, Trường Tiểu học
139
Phạm Quang Tiệp
(Dành cho trẻ 5 tuổi). Theo 9 chủ đề trọng tâm này, từ nhà trẻ tới mẫu giáo, từ mẫu giáo bé tới mẫu
giáo lớn, chương trình được xây dựng theo hướng mở rộng, phát triển dần qua mỗi độ tuổi.
2.2. Năng lực và phát triển chương trình theo tiếp cận năng lực
2.2.1. Khái niệm năng lực
Năng lực là khái niệm chỉ tổ hợp thuộc tính sinh học, tâm lí và xã hội của cá nhân cho phép
cá nhân đó thực hiện thành công dạng hoạt động nhất định đáp ứng chuẩn hay quy định đã xác
lập. Nền tảng của năng lực là thể chất, trí tuệ (tư duy, tri thức. . . ) và những yếu tố tâm lí khác như
tình cảm, thái độ, ý chí. Năng lực không chỉ gồm tri thức, kĩ năng và thái độ. Đó chỉ là phần dễ
thấy của năng lực. Những thứ đó cho dù đầy đủ vẫn chưa phải là năng lực. Chúng phải trải qua rèn
luyện, thử thách lâu dài mới thành năng lực. Kinh nghiệm là thành tố quan trọng và bắt buộc cấu
thành năng lực. Nó phản ánh bản chất xã hội của năng lực. Nếu quan niệm năng lực là khả năng
thì rõ ràng chưa phản ánh được mặt thực hiện của năng lực. Trên thực tế, năng lực là cái có thật, là
làm được, chắc chắn làm được, còn khả năng là cái có thể có và có thể không có, có thể làm được
hiển nhiên là khác hẳn với chắc chắn làm được. Theo Đặng Thành Hưng [9], con người có 3 dạng
năng lực tương đối khác nhau. Trong mỗi dạng đó đều tích tụ những yếu tố sinh học, tâm lí và xã
hội. Đó là:
- Năng lực trí tuệ (Kiến thức).
- Năng lực hành động (Kĩ năng)
- Năng lực cảm (Thái độ).
2.2.2. Phát triển chương trình theo tiếp cận năng lực
Phát triển chương trình giáo dục có thể hiểu là việc điều chỉnh, thay đổi hay cấu trúc lại
chương trình giáo dục cho phù hợp hơn với yêu cầu của thực tiễn, phù hợp hơn với đối tượng người
học và thậm chí cả đối với người dạy. Theo đó, phát triển chương trình giáo dục bao hàm cả việc
biên soạn hay xây dựng một chương trình mới hoặc cải tiến một chương trình giáo dục hiện có.
Thuật ngữ “phát triển” chương trình giáo dục khi ấy có ý nghĩa bao trùm cả xây dựng, thiết kế hay
biên soạn chương trình giáo dục, vì “phát triển” bao hàm cả sự thay đổi, bổ sung liên tục. Phát
triển là một chu trình mà điểm kết thúc sẽ lại là điểm khởi đầu cho một chu trình mới. Kết quả của
phát triển chương trình là một chương trình giáo dục mới và ngày càng tốt hơn nữa. Còn hoạt động
xây dựng, thiết kế, biên soạn chương trình chỉ có ý nghĩa là một quá trình và kết quả dừng lại khi
chúng ta có một chương trình mới.
Từ quan niệm về cấu trúc của chương trình giáo dục trên đây ta thấy, việc phát triển chương
trình giáo dục chính là quá trình liên tục điều chỉnh hay thay đổi về: mục đích giáo dục, nội dung
giáo dục, phương thức giáo dục và đánh giá trong giáo dục. Mục đích cuối cùng của sự thay đổi
ấy chính là để chương trình giáo dục ngày càng hoàn thiện hơn; phù hợp với đối tượng người học
hơn, phù hợp với điều kiện thực tiễn hơn và đặc biệt là phù hợp với hiện thực sự phát triển của xã
hội hơn.
Trong số những thành tố cấu trúc của chương trình giáo dục thì mục đích giáo dục là yếu
tố ít thay đổi nhất. Tuy nhiên, khi nó thay đổi thì thường tạo ra “cuộc cách mạng” trong giáo dục.
Chẳng hạn, trong giai đoạn hiện nay chuyển từ mục đích giáo dục tập trung hình thành trang bị
kiến thức cho người học sang mục đích hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho người
học. Khi mục đích giáo dục thay đổi thì mọi thành tố khác cũng sẽ thay đổi theo. Nội dung giáo
dục là thành tố có biên độ thay đổi lớn hơn. Cùng một mục đích giáo dục nhưng có nhiều nội dung
140
Phát triển chủ đề học tập trong chương trình giáo dục mầm non theo tiếp cận năng lực
kháu nhau. Ví dụ, cùng một chương trình giáo dục mầm non nhưng có thể triển khai với nhiều bộ
tài liệu hướng dẫn thực hiện khác nhau; không cần nhất loạt dạy trẻ một thứ nhưng cái đích cuối
cùng vẫn hội tụ về cùng một điểm. Phương pháp giáo dục là yếu tố cơ động, linh hoạt nhất. Yếu tố
này thay đổi thường xuyên trong quá trình giáo dục. Về cơ bản, xu hướng chung của sự vận động
ấy là chuyển trọng tâm từ thầy sang trò. Dần dần người học sẽ được làm, được hoạt động và được
học những thứ các em muốn học. Những gì người học có thể tự làm được trong quá trình học tập
thì sẽ được thầy trao cơ hội để làm và để học. Đánh giá trong giáo dục luôn được xem là mắt khâu
then chốt, có chức năng chi phối toàn bộ quá trình giáo dục. Xu hướng chung của những điều chỉnh
trong đánh giá giáo dục ngày nay là thực hiện theo hướng nhân văn hơn (tức là tôn trọng người
học, vì sự tiến bộ của người học), thực chất hơn (tức là đánh giá đúng với những gì người học đã
đạt được trong và sau quá trình học tập).
Lịch sử xây dựng và phát triển chương trình giáo dục đã trải qua 3 thời kì và cũng là 3 cách
tiếp cận khác nhau [7]. Phát triển chương trình theo tiếp cận nội dung chính là việc làm chương
trình ở thời kì đầu của nền giáo dục, giai đoạn này tri thức khoa học còn hạn chế và chương trình
giáo dục chính là nội dung tri thức mà loài người tích lũy được. Việc phát triển chương trình thời
kì này thực chất là bổ sung, cập nhật hay cấu trúc lại các nội dung khoa học cho phù hợp với với
sự phát triển của các lĩnh vực khoa học. Chính vì thế, hạn chế lớn nhất của tiếp cận nội dung trong
phát triển chương trình chính là làm cho chương trình ngày càng trở nên cồng kềnh, nặng nề và
quá tải đối với người học. Giai đoạn kế tiếp là phát triển chương trình giáo dục theo tiếp cận mục
tiêu, cách tiếp cận này khắc phục được hạn chế của sự tăng trưởng không kiểm soát của nội dung
học vấn trong chương trình do khoa học ngày càng phát triển, giúp cho chương trình giáo dục có
tính hướng đích rõ ràng và ngày càng trở nên tinh gọn. Song chính ưu điểm đó lại trở thành hạn
chế trong bối cảnh ngày nay, khi mà thực tiễn đòi hỏi nền giáo dục phải có tính cơ động, linh hoạt
hơn, không chỉ trang bị cho người học tri thức khoa học nền tảng mà còn tạo cơ hội để người học
phát triển được tối đa tiềm năng của mình (H.Gardner). Giai đoạn hiện nay chương trình giáo dục
được phát triển theo tiếp cận năng lực. Một hệ thống các năng lực cốt lõi của con người hiện đại
được xác lập và xuất phát từ các năng lực ấy mà chọn lựa nội dung dạy học phù hợp và đặc biệt là
chọn lựa cách dạy, cách học, cách đánh giá hướng vào việc hình thành và phát triển các năng lực
đó cho trẻ. Đồng thời chương trình phải tính đến sự phát triển tiềm năng, tố chất ở trẻ.
2.3. Phát triển chủ đề học tập theo tiếp cận năng lực
2.3.1. Xác định hệ thống năng lực cần hình thành cho trẻ mầm non
Theo quan niệm hiện đại, mỗi lĩnh vực giáo dục được xem như một dạng năng lực chuyên
biệt cần giáo dục cho trẻ. Như vậy, đối với trẻ mầm non trong giai đoạn hiện nay cần tập trung
giáo dục các năng lực sau đây: 1- Năng lực ngôn ngữ; 2- Năng lực nhận thức; 3- Năng lực xã hội;
4- Năng lực nghệ thuật – thẩm mĩ; 5- Năng lực hoạt động thể chất. Những năng lực này giúp cho
trẻ ở độ tuổi mầm non thích ứng được với môi trường hoạt động của lứa tuổi và cũng là để giúp trẻ
sẵn sàng tham gia vào các bậc học tiếp theo với phạm vi rộng lớn của các mối quan hệ trong cuộc
sống.
Năng lực ngôn ngữ: năng lực này được thể hiện ở việc mở rộng vốn từ của trẻ (về tên cấu
tạo, đặc điểm chung/đặc điểm riêng của gọi các yếu tố của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,
quá trình biến đổi, trạng thái phát triển, quá trình sinh học); hệ thống hóa vốn từ theo chủ đề, theo
loại từ liên quan đến môi trường tự nhiên và môi trường xã hội; rèn luyện cách diễn đạt cho trẻ về
các hiểu biết, yêu cầu, mong muốn gắn với bối cảnh giao tiếp. Năng lực ngôn ngữ với các đơn vị
ngôn ngữ như trên xoay quanh năng lực nghe (nghe – hiểu về những nội dung kiến thức về khoa
141
Phạm Quang Tiệp
học tự nhiên và khoa học xã hội; lắng nghe tích cực và hiệu quả để có phản hồi phù hợp); năng
lực nói (thể hiện băn khoăn, thắc mắc hoặc những hiểu biết của mình về các sự vật, hiện tượng; sử
dụng vốn từ khoa học để nói về thế giới xung quanh một cách tự nhiên, chủ động và logic); năng
lực đọc (đọc những hình ảnh, sơ đồ, tranh minh họa cấu tạo, quá trình phát triển, sự biến đổi tính
chất, trạng thái của các yếu tố xung quanh; đọc sáng tạo những nội dung về khoa học thông qua
tranh ảnh hoặc hình vẽ về các kiến thức có nội dung về khoa học); năng lực viết (chủ yếu trẻ mầm
non thể hiện sự hiểu biết của mình bằng “chữ tượng hình”, tức là trẻ thể hiện suy nghĩ của mình
bằng các nét/kí hiệu lặp lại có quy luật hoặc các hình ảnh có tính biểu trưng cho các nội dung liên
quan tới khoa học, là khởi đầu của giai đoạn tiền học đường, mang ý nghĩa quan trọng trong kết
nối tư duy và ngôn ngữ phi lời).
Năng lực tìm hiểu toán và khoa học: tìm hiểu về các biểu tượng và khái niệm toán học, khoa
học như hình dạng, số đếm, không gian, thời gian, đo lượng; từ đó kết nối những biểu tượng toán
và các kiến thức khoa học ứng dụng trong cuộc sống. Năng lực tìm hiểu toán và khoa học ở trẻ
mầm non bao gồm: 1- Năng lực tìm hiểu toán: hình thành các biểu tượng và tiền khái niệm toán
học, năng lực nhận dạng và thể hiện đối tượng toán học, năng lực suy luận và biến đổi đối tượng,
năng lực giải quyết vấn đề trong tư duy tiền khái niệm, năng lực ứng dụng, vận dụng chuyển hóa
hiểu biết toán học vào thực tế cuộc sống; 2- Năng lực tìm hiểu khoa học: năng lực quan sát các yếu
tố của tự nhiên và xã hội, năng lực nhận thức sự thay đổi, mối liên hệ và tác động qua lại của thế
giới tự nhiên – xã hội, năng lực ứng dụng và vận dụng hiểu biết khoa học vào thực tế cuộc sống.
Năng lực xã hội: đó là việc làm giàu thêm các cơ hội tương tác của trẻ với bạn học trong
các nhóm lớn – nhóm nhỏ; sự tương tác của trẻ với các đối tượng học tập và khám phá để lí giải
các vấn đề về khoa học đang diễn ra trong cuộc sống; là việc giải quyết các vấn đề trong nhận thức
xã hội để thích ứng và tự khẳng định mình trong các mối quan hệ thuộc phạm vi hoạt động của lứa
tuổi. Năng lực xã hội gồm các năng lực thành phần: 1- Năng lực nhận thức các mối quan hệ xã hội:
quan sát xã hội, hướng sự tập trung chú ý vào các mối quan hệ xã hội, phân tích các mối quan hệ
trong xã hội; 2- Năng lực hoạt động xã hội: tham gia các hoạt động xã hội, tổ chức các hoạt động
xã hội, định hướng hành vi và chuyển hướng hành vi trong các hoạt động xã hội phức tạp; 3- Năng
lực thích ứng xã hội: chủ động trước sự thay đổi hoặc đổi vai thích hợp với các sự thay đổi của môi
trường xã hội, giải quyết vấn đề trong thích ứng xã hội.
Năng lực nghệ thuật – thẩm mĩ: năng lực này hướng trẻ tới cảm nhận vẻ đẹp của thế giới và
của thiên nhiên mang lại cho con người; sáng tạo nghệ thuật với đa dạng các chất liệu và phong
phú các ý tưởng để biểu thị những giá trị của nghệ thuật xoay quanh các chủ đề như thực vật, động
vật, nước và các hiện tượng tự nhiên,. . . ; là sáng tạo nghệ thuật với giàu chất liệu và vật liệu thiên
nhiên nhằm phát triển sự tinh tế nhanh nhạy của các ngón tay và cổ tay kèm với thưởng thức những
giai điệu trầm bổng của các tác phẩm âm nhạc hay văn học viết về cây xanh, tình bạn, cầu vồng,
và sáng tạo những giai điệu ấy theo sự cảm nhận của riêng mỗi trẻ. Năng lực nghệ thuật – thẩm
mĩ gồm có các năng lực thành phần: 1- Năng lực cảm thụ nghệ thuật; 2- Năng lực sáng tạo nghệ
thuật; - Năng lực đánh giá giá trị thẩm mĩ.
Năng lực hoạt động thể chất: với các chủ đề ở trường mầm non, trẻ cần được phát triển các
nhóm cơ và hệ xương trong nhiều các hoạt động thể chất khác nhau; kết hợp với tăng cường sự
khéo léo, linh hoạt của toàn bộ cơ thể trong các hoạt động được thiết kế tính đến độ cao, độ xa, của
thiết bị trong các trò chơi vận động gắn với các chủ đề và độ linh hoạt, độ mềm dẻo, tính kiên trì
khi tham gia các hoạt động thể chất của trẻ. Những năng lực hoạt động thể chất bao gồm: 1- Năng
lực vận động cơ bản; 2- Năng lực điều chỉnh và phát triển các tố chất trong vận động; 3- Năng lực
hoạt động các nhóm cơ và hô hấp.
142
Phát triển chủ đề học tập trong chương trình giáo dục mầm non theo tiếp cận năng lực
2.3.2. Xây dựng hệ thống chủ đề học tập hướng vào việc phát triển năng lực cho trẻ
Việc xây dựng hệ thống các chủ đề học tập cho trẻ mầm non theo tiếp cận năng lực cần dựa
vào hai yếu tố cơ bản sau đây: 1- Những năng lực cốt lõi cần giáo dục cho trẻ mầm non; 2- Những
quan hệ của trẻ với các đối tượng khác nhau trong hiện thực đời sống. Nếu chỉ dựa vào năng lực
thì cũng chưa thể đưa ra chủ đề học tập. Bởi năng lực sẽ được hình thành trong quá trình học tập,
hoạt động của trẻ, cho dù hoạt động đó là khám phá, tìm hiểu về cây cối, con vật, hay vẽ tranh, xếp
hình. Dựa vào quan hệ của trẻ với các đối tượng gần gũi trong đời sống sẽ dễ định hình các dạng
hoạt động hay nội dung giáo dục. Tuy vậy nếu quá thiên về lĩnh vực hoạt động sẽ dễ sa đà vào tư
tưởng dạy học trao truyền kiến thức mà ít chú ý đến phát triển toàn diện cho trẻ. Ngoài những căn
cứ nêu trên, khi xây dựng hệ thống chủ đề học tập cho trẻ thì người thiết kế còn phải tính toán đến
logic của các lĩnh vực khoa học, chẳng hạn như ngôn ngữ, hay toán học; chú ý đến đặc điểm phát
triển về tâm lí, và sinh học của trẻ.
Dưới đây xin giới thiệu một số chủ đề học tập dành cho trẻ mầm non. Các chủ đề này có
tính chất gợi ý và nó có thể được sử dụng chung cho trẻ mọi độ tuổi. Tuy nhiên ở mỗi độ tuổi thì
mục tiêu, yêu câu, nội dung và phương thức hoạt động phải được thiết kế ở một trình độ khác nhau.
1) Chủ đề Bản thân, bao gồm các chủ đề nhánh: Vệ sinh răng miệng; Vệ sinh cơ thể; Tên
của con; Giác quan của con; Cơ thể con; Bé và các bạn; Bé và những người thân yêu.
2) Chủ đề Màu sắc diệu kì, gồm các chủ đề nhánh: Những chiếc kẹo màu xinh xắn; Màu
sắc quanh con; Màu sắc mùa thu; Màu sắc cầu vồng.
3) Chủ đề Những câu chuyện cổ tích, gồm các chủ đề nhánh: Câu chuyện 3 chú lợn con;
Câu chuyện Cô gái tóc vàng và 3 chú gấu; Câu chuyện Vịt con xấu xí.
4) Chủ đề Lễ hội, gồm các chủ đề nhánh: Ngày Tết thật vui; Lễ hội mùa xuân; Tết Trung
thu; Ngày hội của cô giáo; Tấm thiệp giáng sinh; Pháo hoa chào đón năm mới.
5) Chủ đề Thực vật, gồm các chủ đề nhánh: Rễ cây; Thân cây; Lá cây diệu kì; Thật nhiều
loại hoa; Vườn quả của bé; Những loại hạt khác nhau.
6) Chủ đề Động vật, gồm các chủ đề nhánh: Cá; Chim; Thú nuôi; Động vật ở trong rừng;
Côn trùng.
7) Chủ đề Nghệ thuật kịch, gồm các chủ đề nhánh: Vở kịch "Dê đen và dê trắng qua cầu";
Vở kịch "Dê con nghe lời mẹ"; Vở kịch "Cô bé quàng khăn đỏ"; Vở kịch "Gấu con bị đau răng".
8) Chủ đề Những đồ ăn thú vị, gồm các chủ đề nhánh: Những món bánh ngon; Có thật
nhiều món mì; Cầu vồng thực phẩm; Cửa hàng bánh pizza; Cửa hàng đồ uống.
9) Chủ đề Giao thông, gồm các chủ đề nhánh: Phương tiện giao thông đường bộ; Phương
tiện giao thông đường thủy; Phương tiện giao thông đường hàng không; Phương tiện giao thông
đường sắt.
10) Chủ đề Đất nước Việt Nam tươi đẹp, gồm các chủ đề nhánh: Việt Nam quê hương tôi;
Thủ đô Hà Nội
2.3.3. Minh họa phát triển chủ đề Thực vật
Theo cách cấu trúc như trên, mỗi chủ đề học tập có thể được thực hiện trong từ 2 đến 4 tuần
và mỗi chủ đề nhánh có thể tổ chức thực hiện trong khoảng một tuần học với 4 đến 6 đề tài cụ thể.
Dưới đây sẽ minh họa cấu trúc các nhánh của chủ đề Thực vật thành các đề tài học tập cho
trẻ mầm non.
1) Chủ đề nhánh Rễ cây, gồm các đề tài sau: Rễ của nhiều loại cây; Củ cải trắng – củ cải
143
Phạm Quang Tiệp
đỏ; Cà rốt thật nhiều màu; Củ cải – cà rốt; Trồng cây từ rễ.
2) Chủ đề nhánh Thân cây, gồm các đề tài sau: Cành cây và thân cây; Cây rau muống; Cây
su hào; Cây xanh là ngôi nhà của những chú chim; Trồng cây từ thân.
3) Chủ đề nhánh Lá cây diệu kì, gồm các đề tài sau: Đặc điểm lá cây; Sự thay đổi của lá
cây; Lá cây bốn mùa; Rau bắp cải; Trồng cây từ lá.
4) Chủ đề nhánh Các loài hoa, gồm các đề tài sau: Bông hoa mùa Hè; Những cành hoa ngày
Tết; Nhuộm màu hoa; Những giỏ hoa đẹp; Vườn hoa bé trồng.
5) Chủ đề nhánh Vườn quả của bé, gồm các đề tài sau: Chùm vải – chùm nhãn; Quả na –
quả mít; Quả bơ – quả xoài; Chanh – cam – bưởi; Buồng chuối – buồng cau.
6) Chủ đề nhánh Những loại hạt khác nhau, gồm các đề tài sau: Hạt thóc; Hạt ngô; Hạt đỗ;
Hạt bưởi; Trồng cây từ hạt
Cách cấu trúc các nhánh và các đề tài trong mỗi chủ đề nhánh như ví dụ trên đây vừa giúp
làm giàu kiến thức cho trẻ, đồng thời cũng tạo cơ hội để trẻ được thao tác với các dạng vật liệu, các
sự vật, hiện tượng phong phú trong hiện thực đời sống; tham gia vào nhiều hoạt động trải nghiệm,
khám phá để phát triển năng lực. Bên cạnh đó, cách cấu trúc các chủ đề, đề tài như trên cũng giúp
GV dễ dàng mở rộng đề tài, phát triển thêm các chủ đề nhánh, tạo sự đa dạng cho hoạt động học
tập của trẻ.
2.3.4. Minh họa thiết kế các hoạt động giáo dục trẻ trong một đề tài cụ thể
Thiết kế hoạt động giáo dục trẻ về đề tài “Nhuộm màu hoa” trong chủ đề nhánh Các loài
hoa.
1- Mục tiêu
* Trẻ 3-4 tuổi
- Năng lực ngôn ngữ: mở rộng vốn từ về tên gọi và đặc điểm của hoa.
- Năng lực tìm hiểu toán và khoa học: so sánh đặc điểm của hoa, sự chuyển màu của hoa,
số lượng và hình dạng cánh hoa.
- Năng lực nghệ thuật – thẩm mĩ: quy tắc pha màu, cắm hoa vào bình.
- Năng lực xã hội: hợp tác nhóm nhỏ, nhóm lớn.
- Năng lực hoạt động thể chất: vận động theo nhạc, trò chơi vận động.
* Trẻ 4-5 tuổi
- Năng lực ngôn ngữ: mở rộng vốn từ về tên gọi và đặc điểm của hoa.
- Năng lực tìm hiểu toán và khoa học: so sánh, phân loại đặc điểm của hoa, sự chuyển màu
của hoa, số lượng và hình dạng cánh hoa, ích lợi của hoa.
- Năng lực nghệ thuật – thẩm mĩ: quy tắc pha màu, cắm hoa vào giỏ.
- Năng lực xã hội: hợp tác nhóm nhỏ, nhóm lớn.
- Năng lực hoạt động thể chất: vận động theo nhạc, trò chơi vận động.
* Trẻ 5-6 tuổi
- Năng lực ngôn ngữ: mở rộng vốn từ về tên gọi và đặc điểm của hoa.
- Năng lực tìm hiểu toán và khoa học: so sánh, phân loại đặc điểm của hoa, sự chuyển màu
của hoa, số lượng và hình dạng cánh hoa, ích lợi của hoa, yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến hoa.
- Năng lực nghệ thuật – thẩm mĩ: quy tắc pha màu, bảng pha màu, cắm hoa nghệ thuật.
144
Phát triển chủ đề học tập trong chương trình giáo dục mầm non theo tiếp cận năng lực
- Năng lực xã hội: hợp tác nhóm nhỏ, nhóm lớn.
- Năng lực hoạt động thể chất: vận động theo nhạc, trò chơi vận động.
2- Các hoạt động
* Thiết kế hoạt động dành cho trẻ 3-4 tuổi
Vật liệu: hoa màu trắng, màu nước, khay đựng màu nước, giấy trắng, khăn lau, xốp cắm hoa
(hoặc bột nặn), khay cắm hoa.
Tiến hành:
Hoạt động 1: Trò chơi “Thi kể nhanh về hoa”
GV cho trẻ kể nhanh những hiểu biết của mình về đặc điểm của hoa.
Hoạt động 2: Thí nghiệm “Nhuộm màu cho hoa”
- GV cho trẻ chọn bông hoa mình thích từ giỏ hoa, để trẻ tự quan sát và nói đặc điểm của
bông hoa mình đã chọn.
- GV chuẩn bị khay màu nước cho trẻ chỉ và gọi tên những màu có trong khay.
- GV hỏi trẻ: Bông hoa sẽ thế nào nếu chấm các cánh hoa vào màu nước?
- Để trẻ đưa ra những dự đoán của mình.
- GV cho trẻ chấm bông hoa của mình vào màu nước, trẻ vừa làm vừa quan sát, sau đó trẻ
nói về bông hoa sau khi đã chấm vào màu nước. So sánh với dự đoán ban đầu của trẻ về sự thay
đổi của bông hoa, so sánh với bông hoa trước khi nhuộm màu.
Hoạt động 3: Cắm hoa vào bình theo nhóm
- GV chia trẻ thành các nhóm
- GV hướng dẫn trẻ lấy đồ dùng học tập cho các bạn. Sau khi có đồ dùng, GV để trẻ nói
tên những thứ đồ dùng mình có. GV giải thích việc trẻ sẽ dùng những bông hoa của các bạn trong
nhóm và cắm thành một bình hoa thật đẹp. Theo hướng dẫn sau:
Con sẽ chọn hoa gì để cắm?
Ngoài hoa ra còn cần trang trí thêm bình hoa bằng những thứ gì?
Để hoa được tươi và đẹp, cần làm gì cho bình hoa?
Bình hoa sẽ được đặt ở đâu trong lớp học? Trong nhà của con?
- Sau khi các nhóm cắm hoa xong, GV cho trẻ các nhóm tập giới thiệu về giỏ hoa của nhóm
mình.
* Thiết kế hoạt động dành cho trẻ 4-5 tuổi
Vật liệu: hoa màu trắng, màu nước, tăm bông, bút lông, khay đựng màu nước, giấy trắng,
khăn lau, xốp cắm hoa, khay cắm hoa.
Tiến hành:
Hoạt động 1: Trò chơi “Thi kể nhanh về hoa”
GV cho trẻ kể nhanh những hiểu biết của mình về hoa.
Hoạt động 2: Thí nghiệm “Nhuộm màu cho hoa”
- GV cho trẻ chọn bông hoa mình thích từ giỏ hoa, để trẻ tự quan sát và nói đặc điểm của
bông hoa mình đã chọn.
- GV cho các trẻ trong nhóm so sánh đặc điểm của những bông hoa mà mình và các bạn đã
lấy.
145
Phạm Quang Tiệp
- GV chuẩn bị khay màu nước cho trẻ chỉ và gọi tên những màu có trong khay.
- GV hỏi trẻ: làm thế nào để biến bông hoa màu trắng thành bông hoa nhiều màu sắc?
- Để trẻ dự đoán những cách nhuộm màu hoa khác nhau.
- GV để trẻ nhuộm màu hoa theo cách mà trẻ đã dự đoán.
- Sau khi trẻ đã nhuộm màu hoa, GV cho trẻ so sánh đặc điểm bông hoa sau khi mình đã
nhuộm với bông hoa bạn đã nhuộm, so sánh đặc điểm của bông hoa trước khi nhuộm và sau khi
nhuộm.
Hoạt động 3: Cắm hoa theo nhóm
- GV chia trẻ thành các nhóm
- GV hướng dẫn trẻ lấy đồ dùng học tập cho các bạn. Sau khi có đồ dùng, GV để trẻ nói
tên những thứ đồ dùng mình có. GV giải thích việc trẻ sẽ dùng những bông hoa của các bạn trong
nhóm và cắm thành một giỏ hoa thật đẹp. Theo hướng dẫn sau:
Con sẽ chọn hoa gì để cắm?
Ngoài hoa ra còn cần trang trí thêm bình hoa bằng những thứ gì?
Để hoa được tươi và đẹp, cần làm gì cho giỏ hoa?
Người ta sử dụng giỏ hoa để làm gì?
Con sẽ sử dụng giỏ hoa để làm gì? Ở đâu?
- Sau khi các nhóm cắm hoa xong, GV cho trẻ các nhóm tập giới thiệu về giỏ hoa của nhóm
mình.
- GV cho các nhóm trẻ chọn giỏ hoa nhóm mình thích nhất và giải thích vì sao đó là giỏ
hoa thích nhất.
* Thiết kế hoạt động dành cho trẻ 5-6 tuổi
Vật liệu: hoa màu trắng, màu nước, tăm bông, bút lông, khay đựng màu nước, giấy trắng,
khăn lau, xốp cắm hoa, khay cắm hoa.
Tiến hành:
Hoạt động 1: Trò chơi “Thi kể nhanh về hoa”
GV cho trẻ kể nhanh những hiểu biết của mình về hoa.
Hoạt động 2: Thí nghiệm “Nhuộm màu cho hoa”
- GV hỏi trẻ: làm thế nào để biến bông hoa màu trắng thành bông hoa nhiều màu sắc?
- Để trẻ dự đoán những cách nhuộm màu hoa khác nhau.
- GV để trẻ nhuộm màu hoa theo cách mà trẻ đã dự đoán.
- Sau khi trẻ đã nhuộm màu hoa, GV cho trẻ so sánh đặc điểm bông hoa sau khi mình đã
nhuộm với bông hoa bạn đã nhuộm, so sánh đặc điểm của bông hoa trước khi nhuộm và sau khi
nhuộm.
Hoạt động 3: Cắm hoa theo nhóm
- GV chia trẻ thành các nhóm
- GV hướng dẫn trẻ lấy đồ dùng học tập cho các bạn. Sau khi có đồ dùng, GV để trẻ nói
tên những thứ đồ dùng mình có. GV giải thích việc trẻ sẽ dùng những bông hoa của các bạn trong
nhóm và cắm thành một giỏ hoa nghệ thuật theo chủ đề. Theo hướng dẫn sau:
Chủ đề cắm hoa của nhóm các con là gì?
146
Phát triển chủ đề học tập trong chương trình giáo dục mầm non theo tiếp cận năng lực
Con sẽ chọn hoa gì để cắm? Ý nghĩa của loại hoa mà các con chọn là?
Giỏ hoa đó sẽ dành tặng cho ai?
Ngoài hoa ra còn cần trang trí thêm bình hoa bằng những thứ gì?
Để hoa được tươi và đẹp, cần làm gì cho giỏ hoa?
Người ta sử dụng giỏ hoa để làm gì?
Con sẽ sử dụng giỏ hoa để làm gì? Ở đâu?
Giỏ hoa và bình hoa có công dụng khác nhau như thế nào?
Vậy hoa được sử dụng trong cuộc sống để làm gì?
- Sau khi các nhóm cắm hoa xong, GV cho trẻ các nhóm tập giới thiệu về giỏ hoa của nhóm
mình.
GV hỏi trẻ: Có những loại hoa nào? Những loại hoa khác nhau ở đặc điểm nào? Những
bông hoa cần gì để tươi và đẹp?
- GV cho các nhóm trẻ chọn giỏ hoa nhóm mình thích nhất và giải thích vì sao đó là giỏ
hoa thích nhất.
- GV hỏi trẻ:
+ Ngoài những loại hoa trong lớp, con còn biết thêm những loại hoa nào hãy kể cho các bạn
cùng nghe.
+ Ngoài việc cắm hoa để làm đẹp, hoa còn được dùng để làm gì?
3. Kết luận
Phát triển chương trình giáo dục nói chung và phát triển các chủ đề học tập cho trẻ mầm
non nói riêng là một phần công việc của người GV và nhà trường mầm non nhằm tạo ra những
hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú, đồng thời sát hợp với điều kiện thực tiễn và khả năng học
tập của trẻ, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Để thực hiện việc phát triển các chủ đề học
tập cho trẻ thành công, nhất là trong xu thế dạy học theo hướng hình thành và bồi dưỡng năng lực
hoạt động thực tiễn cho trẻ càng đòi hỏi ở người GV không chỉ kiến thức chuyên môn (kiến thức
về chương trình giáo dục, phương pháp giáo dục, thiết kế dạy học. . . ) mà còn đòi hỏi ở họ kinh
nghiệm sống và cả niềm đam mê, sáng tạo. Người GV phải coi hoạt động tìm kiếm và thiết kế các
đề tài học tập cho trẻ như một phần công việc trong hoạt động nghề nghiệp.
Giáo dục theo tiếp cận năng lực là xu thế của thời đại, nhằm hình thành cho trẻ những năng
lực thiết yếu để thích ứng và phát triển trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Trong những năm
qua, lĩnh vực giáo dục mầm non đã có nhiều cải tiến cả về nội dung và phương pháp giáo dục. Nội
dung giáo dục trẻ được xây dựng theo hướng tích hợp mà không cấu trúc trúc theo logic của khoa
học như trước nên tránh được chồng chéo, nặng nền, quá tải; phương pháp giáo dục tập trung vào
tích cực hóa trẻ, tăng cường tương tác và trải nghiệm, qua đó không chỉ dạy tri thức mà dạy cách
học và phát triển năng lực. Những thay đổi này đã góp phần đáng kể trong nâng cao chất lượng
giáo dục mầm non. Để tiếp túc cải tiến, nâng cao chất lượng giáo dục trẻ, giai đoạn hiện nay cần
tập trung nghiên cứu những vấn đề sau: vận dụng các mô hình, phương pháp dạy học hiện đại trong
giáo dục mầm non, chẳng hạn như giáo dục STEM, giáo dục STEAM, dạy học theo dự án. . . ; đổi
mới đánh giá trẻ mầm non theo tiếp cận năng lực, đổi mới đánh chất lượng cơ sở giáo dục mầm
non. . .
147
Phạm Quang Tiệp
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Ngọc Duy, 2014. Phát triển năng lực tự học cho học sinh thông qua việc sử dụng sơ
đồ tư duy trong dạy học phần hóa học vô cơ lớp 11 trung học phổ thông. Tạp chí Khoa học,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Số 59(6), tr. 132-142.
[2] Nguyễn Thị Ngà, Đặng Thị Oanh, 2007. Thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn - một biện pháp
rèn luyện năng lực tự học cho học sinh chuyên hóa phổ thông. Tạp chí Khoa học, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, Số 52(6), tr. 118-126.
[3] Hoàn Thanh Thúy, 2017. Xây dựng quy trình rèn luyện kĩ năng thiết kế bài học theo tiếp cận
năng lực cho sinh viên khoa Tâm lí – Giáo dục trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tạp chí Khoa
học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Số 61(8), tr. 23-28.
[4] Nguyễn Hữu Chung, Nguyễn Thị Phương, 2017. Phát triển năng lực tự học cho học sinh thông
qua thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo môđun trong dạy học hóa học chương Hidro –
nước ở trường trung học cơ sở. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Số 62(1),
tr. 85-95.
[5] Dương Huy Cẩn, 2009. Tăng cường năng lực tự học cho sinh viên hóa học ở trường Đại học
Sư phạm Hà Nội bằng phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun. Luận án tiến sĩ, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội.
[6] Đặng Văn Đức, 2017. Đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học địa lí theo định hướng phát
triển năng lực. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Số 62(1), tr. 96-104.
[7] Trần Hữu Hoan, 2010. Xây dựng chương trình giáo dục đào tạo theo tiếp cận CDIO. Tạp chí
Quản lý giáo dục, Học viện QLGD – Bộ GD và ĐT, số 11/2010, tr. 8-12.
[8] Nguyễn Vũ Bích Hiền (Chủ biên), 2015. Phát triển chương trình giáo dục nhà trường phổ
thông. Nxb Giáo dục Việt Nam
[9] Đặng Thành Hưng, 2016. Năng lực cơ bản của giáo viên dạy nghề. Tạp chí Khoa học dạy
nghề, Số 28-29, tháng 1+2, tr. 36-39.
ABSTRACT
Developing learning topics in preschool education curriculum based on competency approach
Pham Quang Tiep
Faculty of Primary Education, Hanoi Pedagogical University 2
The article focuses on clarifying the concepts and characteristics of preschool education
curriculum; the concept of developing learning topics in preschool education curriculum in
the competency approach. On that basis, developing a system of learning topics that focus on
developing core competencies for children. Demonstrate a lesson plan for one specific topic based
on a competency approach. The recommendations in this article are considered as suggestions for
the preschool and teachers on building curriculum adjustment, plan for education, and lessons for
children.
Keywords: Preschool education, educational program, program development, capacity
approach.
148
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4934_pqtiep_3181_2127491.pdf