Tài liệu Phát huy vai trò nhân tố con người trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-0069
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 10, pp. 139-144
This paper is available online at
PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔNMỚI
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
Võ Thị Bích Diễm
Trường Chính trị Thành phố Cần Thơ
Tóm tắt. Theo tinh thần Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16-4-2009, nông thôn mới sẽ là
những vùng nông thôn với các đặc trưng tiêu biểu làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện
đại; sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời sống vật chất và tinh
thần của người dân ngày càng được nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát
triển; xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lí dân chủ. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long trong
thời gian qua tiến hành xây dựng Nông thôn mới đã có những nét chuyển biến tích cực, tuy
nhiên vẫn còn những hạn chế, bất cập cần phải được tháo gỡ. Với giới hạn nghiên cứu xoay
quanh vai trò của nguồn nhân lực trong xây dựng nông thôn mới ở ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 670 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát huy vai trò nhân tố con người trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-0069
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 10, pp. 139-144
This paper is available online at
PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔNMỚI
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
Võ Thị Bích Diễm
Trường Chính trị Thành phố Cần Thơ
Tóm tắt. Theo tinh thần Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16-4-2009, nông thôn mới sẽ là
những vùng nông thôn với các đặc trưng tiêu biểu làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện
đại; sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời sống vật chất và tinh
thần của người dân ngày càng được nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát
triển; xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lí dân chủ. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long trong
thời gian qua tiến hành xây dựng Nông thôn mới đã có những nét chuyển biến tích cực, tuy
nhiên vẫn còn những hạn chế, bất cập cần phải được tháo gỡ. Với giới hạn nghiên cứu xoay
quanh vai trò của nguồn nhân lực trong xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng Sông Cửu
Long, bài báo nêu ra ý kiến về ba vấn đề: 1) Những kết quả đạt được trong Xây dựng Nông
thôn mới ở Đồng bằng Sông Cửu Long thời gian qua; 2) Chỉ ra những hạn chế, bất cập cần
quan tâm trong xây dựng Nông thôn mới ở Đồng bằng Sông Cửu Long; 3) Đề xuất một số
giải pháp nhằm góp phát huy nhân tố con người ở Đồng bằng Sông Cửu Long trong quá
trình Xây dựng Nông thôn mới.
Từ khóa: Đồng bằng Sông Cửu Long, nhân tố con người, nông thôn mới.
1. Mở đầu
Chương trình xây dựng nông thôn mới là một chương trình lớn thể hiện sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước đối với nông thôn và nông dân. Chiến lược xây dựng nông thôn mới là cơ hội
tốt để mọi miền trong cả nước phấn đấu làm thay đổi đời sống nông dân và bộ mặt nông thôn. Tuy
quá trình triển khai chương trình này đã đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng, nhưng việc
thực hiện chương trình này ở nhiều nơi vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Thời gian qua
cũng có nhiều nghiên cứu về thực trạng phát huy nhân tố con người trong xây dựng nông thôn mới
ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Lê Thanh Phương
với công trình Vai trò của nông dân trong xây dựng nông thôn mới, 2011, trong hai năm, đã khảo
sát và đánh giá chương trình thí điểm mô hình nông thôn mới ở nước ta đã thành công bước đầu.
Trong đó, tác giả cũng xác định vai trò của việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã giúp
phát triển sản xuất nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Tác giả Trần
Văn Dân (Xây dựng nông thôn mới ở thành phố Cần Thơ - Những vấn đề đặt ra) đã đề cập một
trong tám vấn đề đặt ra cần quan tâm giải quyết là hệ thống giao thông nội đồng chưa bảo đảm
Ngày nhận bài: 15/5/2015 Ngày nhận đăng: 10/11/2015
Liên hệ: Võ Thị Bích Diễm , e-mail: vodiem2008@yahoo.com.vn
139
Võ Thị Bích Diễm
phục vụ sản xuất hàng hóa lớn. Bên cạnh, tác giả cũng đề cập đến việc huy động nguồn lực qua
thực hiện phương châm “lấy sức dân để lo cho dân” trong xây dựng nông thôn mới. Hội thảo Khoa
học Thực trạng và giải pháp xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Cờ Đỏ vào tháng 3 năm
2014 cũng đã khái quát những thành tựu đạt được sau 3 năm thành phố Cần Thơ thực hiện chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, trong đó đặc biệt nhấn mạnh sự thay đổi tích cực,
những hạn chế và nguyên nhân trong việc thực hiện nhóm tiêu chí về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội. Đồng thời, Hội thảo cũng đã đề xuất một số giải pháp cần phải tập trung trong thời gian sắp
tới. Gần đây, tác giả có bài viết Phát huy vai trò của nông dân trong xây dựng Nông thôn mới ở Tp
Cần Thơ - Thông tin tuyên giáo Thành ủy thành phố Cần Thơ số 9 năm 2013, đi sâu vào nghiên
cứu vai trò của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở Cần Thơ, thực trạng phát huy vai trò
của nông dân Cần Thơ trong tiến trình xây dựng Nông thôn mới qua khảo sát một số xã điểm. Bên
cạnh đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của nông dân Cần Thơ
trong xây dựng nông thôn mới trong thời gian sắp tới.
Nhìn chung, có nhiều bài viết đánh giá về thực trạng phát huy nhân tố con người trong xây
dựng nông thôn mới dưới nhiều góc độ khác nhau, ở các địa phương khác nhau và đi sâu vào các
giai tầng cụ thể. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về phát huy nhân tố con
người nói chung trong xây dựng Nông thôn mới ở Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay, từ đó đưa
ra giải pháp cơ bản nhằm góp phần cho Đồng bằng Sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung
phát huy được vai trò của nhân tố con người trong quá trình thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng Nông thôn mới [1, 5, 7].
Là vùng kinh tế trọng điểm với nhiều lợi thế phát triển nông nghiệp nhưng nông dân, nông
thôn Đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn không ít khó khăn. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nói chung và Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng Nông thôn mới nói riêng
thì vấn đề nguồn nhân lực chính là yếu tố quyết định. Nhưng hiện nay, so với phạm vi cả nước
thì Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) lại được đánh giá là vùng trũng tri thức, trình độ nguồn
nhân lực còn thấp hơn trung bình cả nước rất nhiều. Do vậy, để vùng này theo kịp cả nước, việc
nhìn nhận đúng thực trạng xây dựng Nông thôn mới và đưa ra các giải pháp thích hợp liên quan
đến việc phát huy nhân tố con người là hết sức cần thiết.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái quát chung về vai trò của nhân tố con người
Xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: Nguồn
lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta là tiềm lực con người Việt Nam, trong đó có tiềm lực trí
tuệ. Mọi chính sách, mọi giải pháp phải nhằm giải phóng và phát huy mọi tiềm năng từng người,
tập thể lao động, cả cộng đồng, toàn dân tộc – giải phóng lực lượng sản xuất.
Đại hội Đảng lần thứ III của Đảng ta (1960) cũng đã khẳng định “Con người là vốn quý
nhất”. Đến Đại hội lần thứ IV (1976) và Đại hội V (1982) phát triển luận điểm “con người mới”,
nhấn mạnh lòng nhân ái là truyền thống đậm đà của dân tộc ta. Đây chính là động lực phát triển
đất nước, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt đến Đại hội lần thứ VI (1986) và Đại
hội lần thứ VII (1991) đều khẳng định vai trò của “Nhân tố người” trong toàn bộ sự phát triển kinh
tế –xã hội, con người chính là động lực và cũng là chủ thể của chiến lược phát triển.
Đại hội lần thứ VIII (6/1996) của Đảng là Đại hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở ra
bước ngoặt lịch sử đưa đất nước lên một thời kì phát triển hoàn toàn mới. Trong các quan điểm
về công nghiệp hoá, hiện đại hoá có một quan điểm hết sức quan trọng: Lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Đây đúng là chiến lược của
140
Phát huy vai trò nhân tố con người trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng...
con người, do con người và vì con người. Phát triển con người là điều kiện cơ bản để phát triển xã
hội. Đảng ta coi trọng sự phát triển người, làm cho sức sáng tạo của con người được phát huy, giải
phóng sức sản xuất, tạo nên sự phát triển xã hội lành mạnh, một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và
bền vững, để xây dựng một đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh, con người và gia đình
ấm no, hạnh phúc.
Đại hội IX, X, XI với những quan điểm phát triển đều tiếp tục nhấn mạnh vai trò của nhân
tố con người trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, qua đó cũng đã khẳng định một
số đường lối chiến lược nhằm đào tạo và phát huy nhân tố con người trong giai đoạn tạo nền tảng,
cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Như vậy, có thể khẳng định nhân tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ở những thời điểm lịch sử khác nhau vấn đề phát
huy nhân tố con người ở Việt Nam có thể đạt được những kết quả cũng không giống nhau, nhưng
rõ ràng sự thành công hay thất bại của những đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước,... đều do nhân tố con người quyết định. Đặc biệt, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa hiện nay một trong những điểm nhấn đóng vai trò là đòn bẩy đó chính là Chương trình mục
tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới của Bộ chính trị. Vai trò đó thể hiện ở chỗ con người là
mục tiêu của chiến lược nhưng đồng thời con người chính là chủ thể của chiến lược quốc gia xây
dựng Nông thôn mới này. Lộ trình thực hiện bao lâu, kết quả đạt được có như mong muốn hay
không chính là việc phát huy vai trò nhân tố con người của các địa phương.
2.2. Một số kết quả đạt được
Sau 5 năm thực hiện, phong trào xây dựng nông thôn mới ở cả nước nói chung, Đồng bằng
sông Cửu Long nói riêng (có 13 tỉnh, thành vùng ĐBSCL có 1.269 xã thực hiện xây dựng NTM)
cho thấy, về cơ bản chương trình xây dựng nông thôn mới đã được khởi động và đạt được những
kết quả tương đối khả quan.
Đến cuối năm 2013, ĐBSCL đã đạt 9, 23 tiêu chí, tăng 3,19 tiêu chí so với năm 2011 (cao
hơn bình quân chung cả nước đạt 8,36 tiêu chí, tăng 3 tiêu chí). So với năm 2011, các địa phương
trong vùng đã có mức tăng bình quân từ 3 tiêu chí trở lên. Đặc biệt, toàn vùng đã xóa "xã trắng" về
đạt tiêu chí NTM. Tuyên truyền, vận động đã được tổ chức bằng nhiều hình thức sáng tạo, phong
phú, nhận thức của phần lớn người dân được nâng lên rõ nét. Xây dựng NTM đã trở thành phong
trào rộng khắc trong nhân dân; huy động nhiều nguồn lực.
Thực tế đã xuất hiện nhiều cách làm hay, các mô hình liên kết hiệu quả. Người dân mắt thấy,
tay nghe, tay làm và có nhận thức mới qua kết quả thực tiễn xây dựng NTM các các địa phương
như xã Đại Thành, TX. Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang - xã đầu tiên của vùng ĐBSCL về đích NTM
cuối năm 2013. Sau Hậu Giang chưa đầy 3 tuần, UBND tỉnh Vĩnh Long đã công nhận xã Long
Mỹ (huyện Mang Thít) đạt chuẩn NTM. Tiếp đó là UBND TP Cần Thơ cũng đã tổ chức lễ công
nhận xã Mỹ Khánh (thuộc huyện Phong Điền) và xã Trung An (huyện Cờ Đỏ) là 2 xã đạt chuẩn
quốc gia NTM đầu tiên trên địa bàn thành phố và 14 xã khác trong vùng được xét công nhận sau
đó.
Ở cấp huyện, Phước Long của tỉnh Bạc Liêu là huyện duy nhất trong vùng chọn làm huyện
điểm xây dựng NTM của cả nước, đi tiên phong trong điều kiện "vạn sự khởi đầu nan". Từ một
huyện nông thôn vùng sâu của tỉnh Bạc Liêu, Phước Long đã vươn lên, sánh vai cùng TP. Bạc
Liêu, Giá Rai, trở thành 1 trong 3 địa phương trọng điểm của tỉnh Bạc Liêu. Tiếp nối Phước Long,
sau khi xã Mỹ Khánh được công nhận xã Nông thôn mới vào đầu năm 2014 huyện Phong Điền
của thành phố Cần Thơ cũng đang hướng đến mục tiêu huyện NTM nằm trong lòng đô thị loại I
trực thuộc Trung ương. Gắn với NTM, huyện điểm này còn phấn đấu trở thành một đô thị sinh thái
141
Võ Thị Bích Diễm
đầu tiên của ĐBSCL với điểm nhấn miệt vườn, sông nước độc đáo và hiện đại, một vệ tinh của
Cần Thơ - Tây Đô.
2.3. Hạn chế, bất cập cần quan tâm
Tuy nhiên, đến nay ĐBSCL còn 62 xã đạt dưới 5 tiêu chí, trong đó tập trung nhiều ở các
tỉnh: Tiền Giang (39 xã), Bến Tre (7 xã), Cà Mau (10 xã). . . đòi hỏi cần phải có sự nỗ lực cao hơn
nữa của chính quyền và người dân ở các xã này. Những bất cập đặt ra có liên quan mật thiết đến
nhân tố con người vẫn chưa được phát huy tối đa nhằm đáp ứng đòi hỏi của Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng Nông thôn mới. Có thể phân tích ở một số nét cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trong 19 tiêu chí Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, theo nhiều ý kiến của các
xã, thì tiêu chí thu nhập (tiêu chí thứ 10) là khó thực hiện hơn cả. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn vừa ban hành văn bản số 938/BNN-VPĐP, ngày 18/3/2014 về việc quy định mức thu
nhập đạt chuẩn nông thôn mới. Theo đó, mức thu nhập đạt chuẩn nông thôn mới khu vực nông
thôn cả nước: năm 2013 là 21 triệu đồng/người; năm 2014 là 23 triệu đồng/người (làm cơ sở định
hướng để các địa phương phấn đấu và công nhận đạt chuẩn năm 2014). Đồng thời, nêu rõ mức thu
nhập đạt chuẩn nông thôn mới đối với các vùng. Đối với vùng Đồng bằng Sông Cửu Long: năm
2013 là 23 triệu đồng/người; năm 2014 là 25 triệu đồng/người. Theo khảo sát của Viện Nghiên
cứu phát triển ĐBSCL, gần 50% dân số các tỉnh ĐBSCL có thu nhập chưa tới 1 USD/ngày. Trong
khi đó, chỉ tính kết thúc năm 2012, nhà nông tại đây đã sản xuất được hơn 24 triệu tấn lúa, đóng
góp 90% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam; sản lượng khoảng 1,3 triệu tấn cá tra, kim
ngạch xuất khẩu khoảng 1,7 tỉ USD. . . như vậy nếu một hộ gia đình có 5 người trồng 1 ha lúa, đạt
năng suất từ 10-12 tấn/năm; sau khi trừ chi phí sẽ còn khoảng 6 tấn. Nếu lấy giá lúa ở mức 5.000
đồng/kg thì một năm, mỗi người cũng chỉ được trên dưới 500.000 đồng/tháng và như vậy mức thu
nhập trung bình của nhiều xã trong vùng thực chất chưa đầy 8 triệu đồng/người/năm.
Như vậy, để tăng thu nhập cho nông dân theo tiêu chí đưa ra ở ĐBSCL là không dễ dàng
với thực tiễn thu nhập như phân tích trên của nông dân ở vùng.
Thứ hai, vấn đề phát huy vai trò nguồn lực ở tại địa phương vẫn còn có nhiều bất cập. Thực
tế khi tiến hành xây dựng nông thôn mới ở ĐBSCL đến nay cho thấy, nguồn lực trong dân vẫn còn
hạn chế trong khi đó kinh tế vùng lại chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất nông sản bấp bênh, hiệu
quả thấp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nông thôn còn nhỏ bé, kết nối cung cầu nông sản còn nhiều
hạn chế. . . là những điểm khó tháo gỡ của hầu hết các địa phương trong quá trình tiến hành xây
dựng NTM. Nhưng đây lại là nguồn vốn nội lực rất cần để các địa phương phát triển kinh tế - xã
hội trong xây dựng NTM. Vấn đề đặt ra ở đây chính là vai trò quản lí của Nhà nước, của các cơ
quan hữu quan phải làm thế nào đưa ra những cơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện phát huy
tối đa nội lực của vùng từ công tác quy hoạch vùng kinh tế cho đến đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực phục vụ cho quá trình này. Điều này vẫn còn nhiều vướng mắc, cần được nhanh chóng tháo gỡ
ở ĐBSCL hiện nay.
Thứ ba, về kinh phí đầu tư còn nhiều hạn chế. Trong đó, chưa kể đến việc đầu tư cho các
tiêu chí khác, chỉ riêng về tiêu chí xây dựng và phát triển trường đạt chuẩn quốc gia (QG) (là một
trong những mục tiêu và là nhiệm vụ cấp bách của các địa phương ở ĐBSCL) nhưng lại gặp rất
nhiều khó khăn về vốn đầu tư. Theo đó nguồn kinh phí cho các kế hoạch, đề án này cũng rất lớn
vì đa số các trường xây dựng trước đây đã cũ, hầu như phải xây dựng mới hoàn toàn. Tính đến
nay các tỉnh, thành ở ĐBSCL đã có kế hoạch hoặc đã ban hành đề án xây dựng trường chuẩn QG
được chia theo giai đoạn đến năm 2015, 2020. . . . Theo con số thống kê vào đầu năm học 2012 -
2013, toàn vùng ĐBSCL có 6.559 trường học, trong đó có 720 trường đạt chuẩn QG con số này
phản ánh thực tế là số trường chuẩn QG của vùng còn thấp hơn so nhu cầu phát triển trong tương
142
Phát huy vai trò nhân tố con người trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng...
lai. Như vậy số trường đạt chuẩn QG của vùng hiện chỉ khoảng 11% trong khi đó nhiệm vụ đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển của vùng trong thời gian tới là rất lớn. Nhưng thực
tiễn kinh phí hằng năm mà các xã đước “rót” vào để chi cho giáo dục còn chưa đủ để đầu tư xây
dựng các trường đạt chuẩn quốc gia. Và thực tế hiện nay, ĐBSCL vẫn là vùng trũng về tri thức so
với các vùng khác trên phạm vi cả nước. Đây là một bài toán khó đang đạt ra cho các địa phương
trong vùng.
2.4. Đề xuất một số giải pháp cơ bản
Từ những phân tích trên, đặc biệt là những hạn chế, bất cập, đã buộc chúng ta phải suy nghĩ,
phải tìm ra những khâu then chốt cùng những giải pháp mà khi tác động vào đó có thể khơi dậy,
nuôi dưỡng, phát huy được tính tích cực của nhân tố con người nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng
nông thôn mới hiện nay ở ĐBSCL. Với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp đổi
mới đất nước, nhân tố con người cần được quan tâm và phát huy đúng mức. Với giới hạn bài viết
này, tác giả đưa ra những giải pháp cớ bản nhằm góp phần phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế
các mặt tiêu cực, để kích thích mọi tiềm năng ở từng con người phát triển, tạo ra những con người
say sưa, năng động, tích cực, lao động, học tập, công tác. . . , đạt năng suất cao, hiệu quả kinh tế
tốt, làm ra nhiều sản phẩm hàng hoá, đưa mức thu nhập, mức sống của con người ngày càng cao
cùng với lối sống văn minh, có đạo đức, nhân phẩm ngày càng tốt đẹp. . . góp phần đẩy nhanh quá
trình xây dựng Nông thôn mới ở Đồng Bằng Sông Cửu Long hiện nay.
Trước hết: Cần nâng cao mặt bằng dân trí cho cả vùng. Cần có nhiều hướng để phát hiện,
bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài nhằm sử dụng có hiệu quả vào mục tiêu chiến lược xây dựng
Nông thôn mới cho cả vùng. Vấn đề trọng tâm hiện nay chính là phát triển giáo dục mầm non,
thanh toán nạn mù chữ cho người lao động. Thông qua các chính sách, các qui định của Nhà nước
để điều chỉnh cơ cấu đào tạo một cách hợp lí nhằm đạt tới sự cân đối giữa đào tạo và sử dụng ở
các trình độ, các ngành nghề khác nhau, đặc biệt đảm bảo được nhân lực cho các ngành mũi nhọn
phục vụ đắc lực cho xây dựng và phát triển nông thôn. . . Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hơn nữa công
tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại vùng. Bảo đảm tri thức cần thiết để mọi người gia
nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển của đất nước cũng như
tập trung vào xây dựng Nông thôn mới cho cả vùng.
Thứ hai: Tăng tính thích nghi, năng động, có lợi cho sản xuất công nghiệp trên cơ sở quan
tâm hơn nữa công tác đào tạo nghề và nâng cao tay nghề cho lao động nông thôn. Đây là giải pháp
quan trọng đối với quá trình thực hiện và hoàn thành tiêu chí thu nhập của Chương trình mục tiêu
Quốc gia xây dựng Nông thôn mới. Muốn vậy, cần tích cực, chủ động hơn trong thực hiện giải
quyết việc làm, tạo mọi điều kiện cho người lao động tự tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi
được đào tạo nghề. C.Mác đã khẳng định rằng: “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có
thể “làm ra lịch sử” . Hạn chế tâm lí người lao động quá lo cho cuộc sống trước mắt, cần có định
hướng để người lao động có ý chí vươn lên làm ăn lớn. Tăng cường ý thức pháp luật, kỷ cương cho
người dân. Do đó, vấn đề tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thi hành Luật Lao động, thực hiện
chế độ tiền lương, . . . là rất cần thiết. Để từ đó giúp người lao động nâng cao mức sống, có điều
kiện thoả mãn được các nhu cầu cơ bản của con người (ăn, mặc, ở. . . và các dịch vụ cần thiết). Đó
chính là cơ sở vật chất để phát triển sức mạnh thể chất, tinh thần, năng lực lao động và công tác
của người lao động. . . sức mạnh tiềm tàng được phát huy tối ưu, tập trung vào năng lực sản xuất
và công tác, nâng cao năng suất, tạo thêm cơ hội tham gia đóng góp, gia nhập vào cộng đồng, xã
hội. Có thể khẳng định, đây là yếu tố quan trọng phát huy nội lực của người dân trong xây dựng
Nông thôn mới hiện nay.
Thứ ba: Hệ thống chính trị cần quan tâm nhiều hơn đến chất lượng các hoạt động văn hoá,
văn nghệ, thông tin đại chúng và các phương tiện vui chơi giải trí đáp ứng nhu cầu đời sống văn
143
Võ Thị Bích Diễm
hoá – tinh thần của người lao động ở Nông thôn. Tăng cường các biện pháp và phối hợp lực lượng
của toàn xã hội, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đấu tranh bền bỉ và mạnh mẽ nhằm ngăn
chặn, loại trừ các văn hoá phẩm độc hại và các tệ nạn xã hội trong xây dựng nền văn hóa của Nông
thôn mới ĐBSCL hiện nay. Làm sao nuôi dưỡng được ở mọi người, nhất là thế hệ trẻ, ý chí cách
mạng, tình cảm và hành động cách mạng, cùng chung tay, góp sức thực hiện thành công chương
trình xây dựng Nông thôn mới. Đây chính là nội dung cốt yếu trong nhân cách văn hoá của con
người Việt Nam, các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đi vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
3. Kết luận
Chương trình xây dựng Nông thôn mới được đưa vào thực hiện hơn 5 năm và đã đạt được
những thành tựu đáng kể ở ĐBSCL nói riêng cũng như cả nước nói chung. Thiết nghĩ, chương
trình xây dựng Nông thôn mới được đạt được hiệu quả như mong muốn hay không phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khác nhau, nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào nhân tố con
người. Bởi vì dù cho quá trình này có đưa ra bao nhiêu tiêu chí hiện đại đi chăng nữa, song nếu
thiếu những con người có trình độ học vấn và kĩ năng thành thạo, có lòng nhiệt tình và say mê lao
động, sáng tạo. . . thì vẫn chưa đủ để tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội. Nhất là
đối với Việt Nam, một quốc gia đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Khoa học và đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chương trình KX.07. Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1994.
[2] C. Mác- Ph.Aêngghen, 1980. Tuyển tập, tập 1. Nxb Sự Thật, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1993. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Khoá VII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
[5] Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới.
[6] Phạm Minh Hạc, 1996. Phát triển giáo dục – phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế
– xã hội. Nxb Khoa học Xã hội.
[7] Viện Nghiên cứu quản lí kinh tế Trung ương, 2004. Quản lí nguồn nhân lực ở Việt Nam, một
số vấn đề lí luận và thực tiễn. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
ABSTRACT
Developing human factors during the building of the New Rural Mekong Delta
According to Decision 16-4-2009 491/QD-TTg, new rural areas are to be villages which are
civilized, clean, with modern infrastructure, producing goods in a sustainable manner, populated
by people with an enhanced physical life and spirit, preserving and developing their cultural and
ethnic identity, enjoying good rural social security and governed democratically. It is to be much
like California. In recent years, new construction in the Mekong Delta has resulted in some positive
changes, but there are the negative aspects which could be called the limitations and shortcomings.
The authors suggested (perhaps tongue-in-cheek) three things: 1) The results achieved in New
Rural Construction in the Mekong Delta over time; 2) The restriction of concern in New Rural
Construction in the Mekong Delta; 3) To propose some solutions in order to help promote the
human factor in the Mekong Delta during the New Rural Construction.
Keywords: Human factor, New Rural Areas, Mekong Delta.
144
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2840_vtbdiem_6854_2178514.pdf