Tài liệu Phát huy tính tích cực của sinh viên qua việc tổ chức dạy – học hợp tác: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
125
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA SINH VIÊN
QUA VIỆC TỔ CHỨC DẠY – HỌC HỢP TÁC
Promoting the activeness of students through co-operative teaching – learning
ThS. Trương Thiên Hương
Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt
Dạy-học hợp tác là một hình thức dạy học phổ biến, được vận dụng ở nhiều nước trên thế giới, đem lại
lợi ích cho người học. Đây là một trong những hình thức dạy-học thực hiện được quan điểm dạy học
tích cực. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể phát huy tính tích cực của sinh viên qua việc tổ chức
dạy-học hợp tác theo hướng phát triển năng lực của người học. Trong khuôn khổ, bài viết trình bày cách
thức thực hiện và các hình thức đánh giá hiệu quả dạy-học hợp tác.
Từ khóa: dạy-học hợp tác, đánh giá, hợp tác, năng lực người học, phát...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 390 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát huy tính tích cực của sinh viên qua việc tổ chức dạy – học hợp tác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
125
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA SINH VIÊN
QUA VIỆC TỔ CHỨC DẠY – HỌC HỢP TÁC
Promoting the activeness of students through co-operative teaching – learning
ThS. Trương Thiên Hương
Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt
Dạy-học hợp tác là một hình thức dạy học phổ biến, được vận dụng ở nhiều nước trên thế giới, đem lại
lợi ích cho người học. Đây là một trong những hình thức dạy-học thực hiện được quan điểm dạy học
tích cực. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể phát huy tính tích cực của sinh viên qua việc tổ chức
dạy-học hợp tác theo hướng phát triển năng lực của người học. Trong khuôn khổ, bài viết trình bày cách
thức thực hiện và các hình thức đánh giá hiệu quả dạy-học hợp tác.
Từ khóa: dạy-học hợp tác, đánh giá, hợp tác, năng lực người học, phát huy, tích cực
Abstract
Co-operative teaching-learning is a popular form of teaching, which is applied in many countries
worldwide, bringing more benefits to learners. It is one of the forms that performs the viewpoint of
active teaching. The problem here is how to promote the activeness of students through co-operative
teaching-learning towards developing learners’ ability. This paper will present the method and
assessment of co-operative teaching-learning.
Keywords: co-operative teaching–learning, assessment, co-operation, learners’ ability, promote, activeness
1. Mở đầu
Tăng cường tiếp xúc giữa người dạy
và người học, khuyến khích các hoạt động
hợp tác giữa sinh viên, vận dụng các
phương pháp học tập tích cực là 3 trong
những nguyên tắc dạy tốt ở bậc Đại học. Vì
thế, các nhà giáo dục đã nghiên cứu, vận
dụng, triển khai nhiều cách thức dạy học
khác nhau nhằm tuân thủ nguyên tắc dạy
học, đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân
lực của xã hội, phù hợp với các điều kiện,
hình thức giáo dục hiện nay. Trong số các
hình thức dạy-học đáp ứng được yêu cầu
nói trên, dạy học hợp tác là một hình thức
dạy rất phổ biến, hiện được sử dụng ở
nhiều nước trên thế giới. Sở dĩ như vậy vì
chất lượng học tập trong môi trường hợp
tác, làm việc nhóm phát triển tốt hơn so với
làm việc cá nhân. Trong giới hạn của bài
viết, tác giả tập trung trình bày khái niệm
và tác dụng của dạy-học hợp tác, tổ chức
dạy-học hợp tác theo hướng phát triển năng
lực của người học, các hình thức đánh giá
hiệu quả trong dạy-học hợp tác.
2. Nội dung
2.1. Khái niệm
Khái niệm “dạy học hợp tác” được
Johnson & Johnson (2008), hai chuyên gia
Email: truong_thienhuong@yahoo.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)
126
nghiên cứu về “dạy học hợp tác” định
nghĩa: “Hợp tác là làm việc cùng nhau để
đạt mục tiêu chung. Hợp tác còn là một kĩ
năng sống, kĩ năng làm việc (kĩ năng diễn
đạt, kĩ năng lắng nghe, kĩ năng giải quyết
vấn đề, kĩ năng thực hiện,). Trong quá
trình hợp tác, các cá nhân tìm kiếm những
kết quả, những kết quả này không chỉ có ích
cho mỗi cá nhân mà còn có ích cho các
thành viên khác trong nhóm” [1; tr.18]. Như
vậy, dạy học hợp tác là hình thức tổ chức
dạy học với những nhóm sinh viên cùng
nhau giải quyết các nhiệm vụ học tập mà
giảng viên giao. Kết thúc quá trình làm việc,
các thành viên đều nắm bắt được thông tin,
hiểu và xây dựng kiến thức cho chính mình.
Chính nhờ học trong môi trường hợp tác với
nhau như thế, sinh viên sẽ có nhiều cơ hội
để bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình, được
tham gia trao đổi thảo luận với nhau, được
khẳng định mình trong nhóm, tạo bầu
không khí dân chủ trong lớp học.
2.2. Tác dụng của dạy-học hợp tác
Hình thức dạy-học hợp tác có nhiều
tác dụng tích cực đối với sinh viên (người
học) và giảng viên (người dạy) như sau:
Thứ nhất, học hợp tác sẽ tăng cường
cơ hội học tập, trao đổi kiến thức giữa
người học với người học; tạo điều kiện cho
người học vận dụng sự hiểu biết, kinh
nghiệm của bản thân vào việc hình thành
kiến thức, kĩ năng mới; phát huy tính chủ
động, sáng tạo, năng lực tư duy của người
học; rèn luyện các kĩ năng cần thiết hỗ trợ
cho kĩ năng sống, kĩ năng làm việc nhóm.
Có thể nói, trong học hợp tác, hoạt động
học của sinh viên được trợ giúp qua sự
tương tác giữa những người học với nhau
và những người có hiểu biết hơn (giảng
viên, bạn học thuộc các năng lực khác
nhau). Để tiếp nhận kiến thức, người học
phải sử dụng kinh nghiệm, hiểu biết của
mình vào việc giải quyết những tình huống
do giảng viên đặt ra. Vì vậy, sinh viên sẽ
hiểu kiến thức kĩ hơn so với việc chỉ nghe
giảng viên truyền đạt. Đây là học bằng
cách làm. Trong quá trình học hợp tác, các
kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, phản hồi.v.v.
của người học được rèn luyện và phát triển.
Cuối cùng, khi thực hiện công việc được
giao, người học phấn khởi, có niềm tin vào
năng lực của bản thân và các thành viên
trong nhóm.
Thứ hai, thông qua học hợp tác, sinh
viên có cơ hội để điều chỉnh phương pháp
học tập của bản thân.
Thứ ba, dạy-học hợp tác sẽ tạo được
mối quan hệ tương tác giữa người học và
người dạy; bổ sung vốn kĩ năng và chiến
lược trong hỗ trợ sinh viên học tập.
Thứ tư, hình thức dạy học theo kiểu
thảo luận nhóm, thuyết trình sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho giảng viên đo lường và
đánh giá quá trình học tập của sinh viên.
Trên cơ sở đó, điều chỉnh phương pháp dạy
học để nâng cao hiệu quả đào tạo.
2.3. Tổ chức dạy-học hợp tác theo
hướng phát triển năng lực của người học
2.3.1. Chuẩn bị cho dạy-học hợp tác
Để một giờ dạy học hợp tác đạt kết
quả, giảng viên và sinh viên cần phải có sự
chuẩn bị chu đáo. Đầu tiên, giảng viên cần
xác định mục tiêu, yêu cầu mà người học
cần đạt (kiến thức, kĩ năng, thái độ). Sau
đó, phải thiết kế chủ đề khoa học và nội
dung thảo luận, thuyết trình; cung cấp các
nguồn tài liệu để sinh viên có thể chuẩn bị
trước; lên kế hoạch bố trí thời gian giữa
thảo luận và thuyết trình. Đồng thời, phải
xác định các tiêu chí, hình thức đánh giá
hiệu quả hoạt động nhóm và xác lập được
một đội ngũ cộng sự đắc lực (nhóm trưởng
của các nhóm). Sinh viên cũng phải có sự
chuẩn bị từ tâm thế (có lòng khát khao hiểu
TRƯƠNG THIÊN HƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
127
biết, có ý thức “học thầy không tày học
bạn” có thái độ nghiêm túc và văn hóa khi
tham gia thảo luận, ) đến kiến thức (tìm
đọc trước các tài liệu liên quan đến chủ đề
khoa học sắp thảo luận ), kĩ năng (trình
bày ý kiến trước đám đông, giao tiếp, xử lý
tình huống, ).
2.3.2. Thực hiện dạy-học hợp tác
Sự thành công của dạy-học hợp tác
phụ thuộc vào nhiều yếu tố: kĩ năng hoạt
động nhóm, kĩ năng giao tiếp giữa những
thành viên trong nhóm; trách nhiệm cá
nhân và trách nhiệm nhóm.v.v. Vì thế, khi
thực hiện dạy-học hợp tác, nội dung của
vấn đề thảo luận cần phải có sự tổng hợp tư
duy của cả nhóm, phải linh hoạt trong việc
tổ chức thảo luận, thuyết trình. Đồng thời,
phải kiểm soát hoạt động của nhóm, giúp
nhóm duy trì những mối quan hệ giữa các
thành viên, phát triển kĩ năng hợp tác, mỗi
thành viên nhận được sự phản hồi về sự
tham gia của họ vào nhóm, tự đánh giá
hoạt động của mình.
Tiến trình dạy-học hợp tác có thể chia
làm 4 giai đoạn như sau:
(1) Giảng viên chia nhóm
- Khi chia nhóm giảng viên cần chú ý
về số lượng nhóm và số lượng các thành
viên trong nhóm, phân công vị trí của
nhóm trong không gian lớp học, phân công
nhiệm vụ của từng nhóm.
- Giới thiệu chủ đề, nội dung thuyết
trình, thảo luận.
(2) Giao chủ đề cho các nhóm thuyết
trình, thảo luận, quy định thời gian thuyết
trình, thảo luận.
Khi giao nhiệm vụ cho nhóm cần chú ý:
- Nhiệm vụ phải sát hợp với trình độ
của sinh viên.
- Giải thích các vấn đề cần giải quyết
và mục tiêu cần đạt được.
- Thời gian hoàn thành nhiệm vụ.
(3) Quản lí nhóm. Trong quá trình
quản lí các nhóm, giảng viên phải sẵn sàng
hỗ trợ và giúp đỡ sinh viên bằng cách đưa
ra những câu hỏi gợi ý hoặc các tình
huống. Thúc đẩy hoạt động nhóm đi tới
mục tiêu. Hướng dẫn sinh viên ghi chú một
cách khái quát và khoa học.
(4) Báo cáo kết quả và đánh giá
Đây là giai đoạn các nhóm trình bày
kết quả và đánh giá kết quả. Giảng viên có
vai trò là trọng tài khoa học về cách xử lí
tình huống; nhận xét. Đánh giá hoạt động
của từng nhóm, từng thành viên của nhóm.
2.3.3. Vận dụng dạy-học hợp tác vào
học phần Kĩ năng thuyết trình
Từ lý thuyết đến thực tiễn dạy-học là
cả quá trình phức tạp, đòi hỏi người dạy
phải linh hoạt tùy vào đối tượng của người
học (khả năng tiếp thu hoặc thái độ học tập
bị động hay chủ động). Bằng sự trải
nghiệm, tác giả xin được trình bày cụ thể
các thao tác đã vận dụng trong thực tiễn
dạy-học Chương 1 Khái quát về thuyết
trình của học phần Kĩ năng thuyết trình cho
sinh viên Khóa 17 ngành Quốc tế học, khoa
Quan hệ Quốc tế, Trường Đại học Sài Gòn.
Trước khi dạy-học hợp tác, giảng viên
nêu mục đích, yêu cầu và nội dung thảo
luận cho lớp và nhóm sinh viên. Cụ thể là:
1) Tầm quan trọng của kĩ năng thuyết
trình trong học tập và trong định hướng
nghề nghiệp của bản thân.
2) Tư duy đối thoại: Tư duy đối thoại
với sự hình thành tri thức; Tư duy đối thoại
với sự phát triển nhân cách.
Cách thức tiến hành như sau:
Bước 1: Xác định nội dung thảo luận,
phân công nhiệm vụ từng nhóm, dự kiến số
lượng báo cáo (4 báo cáo).
Bước 2: Các nhóm thảo luận-6 nhóm
(thời gian 50 phút).
Bước 3: Tổ chức trình bày kết quả
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019)
128
trước lớp (thời gian 50 phút).
Bước 4: Tổng kết, đánh giá kết quả.
Các nhóm thảo luận thì nhóm
trưởng phải điều hành và chọn thư kí ghi
biên bản của nhóm. Theo trình tự:
Bước 1: Các thành viên trong nhóm
đều phải trình bày: Nêu vấn đề - Trình bày
quan điểm - Minh họa - Nhận xét - Đề xuất.
Bước 2: Nhóm trao đổi, nhận xét, phản
biện, bảo vệ ý kiến.
Bước 3: Nhóm trưởng tổng kết, chọn
thành viên báo cáo kết quả thảo luận trước
lớp, hoàn tất biên bản thảo luận.
Khi thuyết trình, thảo luận ở lớp
thì giảng viên hoặc lớp trưởng điều hành,
cũng phải có biên bản và thực hiện lần lượt
các bước sau:
Bước 1: Đại diện từng nhóm lên trình
bày trước lớp về 2 nội dung đã thảo luận ở
nhóm (trong khi thuyết trình, sinh viên
trình bày, cả lớp theo dõi, ghi lại những
điều chưa rõ hoặc không đồng tình về nội
dung, về cách thức trình bày để chuẩn bị
cho phần trao đổi sau đó.
Bước 2: Giảng viên hoặc lớp trưởng
hướng dẫn lớp trao đổi, nhận xét, phản
biện, bảo vệ.
Các nhóm cử đại diện nêu ý kiến nhận
xét chung của nhóm hoặc sinh viên có thể
nêu ý kiến phản biện, bảo vệ với thái độ
khoa học, thiện chí.
Bước 3: Giảng viên nhận xét, kết luận
về các vấn đề:
+ Nội dung, cách thức trình bày của
từng nhóm.
+ Nhận xét về nội dung và cách thức
tổ chức buổi thảo luận.
+ Tổng kết (kết luận về nội dung thảo
luận trên cơ sở điều chỉnh, bổ sung những
vấn đề liên quan), đánh giá (có sự kết hợp
đánh giá của giảng viên với tự đánh giá và
đánh giá lẫn nhau).
Từ kết quả thảo luận, giảng viên
hướng dẫn sinh viên viết bài thu hoạch
theo nhóm hoặc cá nhân về 2 nội dung vừa
nêu. Đồng thời, bổ sung câu hỏi có liên
quan để có thể đánh giá hiệu quả học tập
hợp tác: trình bày tiêu chuẩn của một lời
nói có sức thuyết phục.
Kết quả của buổi thảo luận trên thành
công, tạo được tâm thế phấn khởi, tích cực.
Các nhóm đều thực hiện nghiêm túc. Hầu
như tất cả sinh viên đều tham gia phát biểu
ý kiến, bày tỏ sự tâm đắc, thực hiện đúng
thao tác, đúng quy trình nên buổi thảo luận
tiến hành thuận lợi. Nội dung thảo luận thu
hút được nhiều đối tượng tham gia. Sinh
viên khám phá được những khía cạnh khác
nhau của chủ đề khoa học, nêu được nhiều
câu hỏi chất vấn cho bạn và cho cả giảng
viên, thể hiện sự tự tin khi trình bày. Giảng
viên và sinh viên có sự phối hợp nhịp
nhàng: giảng viên vừa là người hướng dẫn,
vừa là nhà hùng biện; sinh viên vừa chủ
động, vừa là trung tâm của buổi thảo luận.
Buổi thảo luận kết thúc nhưng sinh viên
vẫn còn tiếc vì chưa bộc lộ hết ý tưởng của
mình về sự định hướng nghề nghiệp trong
tương lai thông qua thuyết trình và về tư
duy đối thoại trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách. Trên cơ sở kết quả
của thảo luận, giảng viên định hướng cho
sinh viên thực hành về các kĩ năng hỗ trợ
cho thuyết trình: kĩ năng giao tiếp phi ngôn
từ, kĩ năng đặt câu hỏi, kĩ năng mở đầu, kĩ
năng kết thúc.v.v.
2.3.4. Một số biện pháp nhằm phát huy
tính tích cực của sinh viên qua việc tổ chức
dạy-học hợp tác
Để có thể phát huy tính tích cực, giảng
viên cần sắp xếp vị trí của nhóm sao cho
các thành viên có thể đối diện nhau, thể
hiện ý thức cộng đồng. Bên cạnh đó, giảng
viên giúp sinh viên xây dựng khả năng cần
TRƯƠNG THIÊN HƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
129
có để làm việc cùng nhau có hiệu quả hơn
(mỗi thành viên đều có phần nhiệm vụ của
mình, ghi lại kết quả, lắng nghe ý kiến của
người khác) và sử dụng hình thức tranh
luận do sinh viên làm chủ. Đồng thời,
giảng viên tạo cơ hội để sinh viên đọc tài
liệu, biến tài liệu thành ngôn từ riêng của
mình, bắt đầu sử dụng ngôn ngữ bộ môn,
có sự hỗ trợ và tương tác lẫn nhau giữa
nghe - giải thích - tổng hợp; dạy học có sự
trao đổi của cả lớp, khuyến khích sinh viên
chủ động tranh luận, tiếp thu kiến thức
mới, tạo sự nỗ lực. Tiếp theo, giảng viên
cần xác lập và huấn luyện một đội ngũ
cộng sự đắc lực (nhóm trưởng của các
nhóm). Đội ngũ này phải có kĩ năng điều
khiển thảo luận, kĩ năng nhận xét, đánh giá
thuyết trình, kĩ năng lắng nghe, kĩ năng
giải quyết vấn đề kĩ năng thực hiện
những nhiệm vụ mà giảng viên đã hoạch
định. Cuối cùng, giảng viên cần chú ý theo
dõi quá trình làm việc của sinh viên để có
thể đánh giá chính xác năng lực của sinh
viên khi thảo luận, khi thuyết trình và cả
những sinh viên tham dự.
2.4. Đánh giá kết quả học tập trong
dạy-học hợp tác
Đổi mới phương thức dạy học phải
gắn liền với việc đổi mới cách thức đánh
giá. Đánh giá kết quả của người học cần
phải đánh giá đúng năng lực thực tế, đánh
giá cả quá trình bao gồm đánh giá tổng thể
và đánh giá thường xuyên. Đồng thời, hoạt
động đánh giá phải được thực hiện toàn
diện trên cơ sở nhiều đối tượng: giảng viên
đánh giá người học (sinh viên), sinh viên
đánh giá lẫn nhau, sinh viên tự đánh giá.
Sau đây là những hình thức đánh giá phù
hợp với dạy-học hợp tác.
2.4.1. Đánh giá tổng thể
Để có thể đánh giá toàn diện hoạt động
nhóm, ta đánh giá cách thức làm việc nhóm
(Quản lí nhóm, sử dụng thời gian hiệu quả,
có sự hợp tác và tương tác giữa các thành
viên trong nhóm), nội dung thảo luận
(vấn đề thảo luận đầy đủ, đảm bảo tính hệ
thống, làm rõ trọng tâm, có ý kiến mới, có
minh họa sinh động, liên hệ thực tế),
cách thức thuyết trình - trình bày nội dung
thống nhất sau thảo luận (trình bày có hệ
thống, mạch lạc, lôi cuốn, thuyết phục
người nghe, đảm bảo đủ thời gian quy
định). Tất cả ba nội dung trên dựa vào tiêu
chí: hiểu, biết và vận dụng. Bên cạnh đó,
ta có thể đánh giá hoạt động nhóm dựa vào
những tiêu chuẩn đã được thống nhất trong
quá trình thuyết trình, thảo luận. Bên cạnh
đó, giảng viên có thể yêu cầu những thành
viên trong nhóm viết báo cáo về kết quả
thảo luận việc học của nhóm. Đôi khi,
giảng viên cũng đưa ra một số câu hỏi, yêu
cầu nhóm trả lời câu hỏi (thông thường
những câu hỏi loại này mang tính phân
tích, tổng hợp, vận dụng đòi hỏi năng lực
tư duy của mỗi sinh viên).
2.4.2. Đánh giá thường xuyên
Đây là một hình thức đánh giá công
bằng và tương đối chính xác. Có rất nhiều
cách để thực hiện đánh giá này:
Trước nhất, khi nhóm sinh viên thực
hiện các hoạt động thảo luận thuyết trình
phải được lưu giữ sản phẩm trong hồ sơ
học tập hoặc trong thời gian học tập học
phần, nhóm sinh viên thực hiện từ 2 đến 3
lần thảo luận, thuyết trình, phản biện để có
thể đo lường được sự tiến bộ cũng như tinh
thần học tập của sinh viên.
Sau đó, giảng viên phải là người quan
sát, nhận xét, phát hiện những nhóm sinh
viên làm việc hiệu quả: khả năng quản lí,
điều hành của nhóm trưởng, mức độ tham
dự của sinh viên vào quá trình thảo luận,
những năng lực tư duy, năng lực đọc, tóm
tắt tài liệu, năng lực giải quyết vấn đề, năng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 55_3118_2214960.pdf