Phật giáo và những ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam

Tài liệu Phật giáo và những ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam: 1 Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI Tr.CN ở miền bắc Ấn Độ, phía Nam dãy Himalaya, vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nepan hiện nay. Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ II sau công nguyên kết hợp với phong tục, tập quán truyền thống dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo Việt Nam. Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật giáo ở Việt Nam không ngừng phát triển, lớn mạnh và đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong việc hình thành đạo đức, nhân cách con người Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam. Những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo vẫn đang được con người Việt Nam phát huy để phục vụ cuộc sống. Song bên cạnh đó, Phật giáo cũng có những ảnh hưởng nhiều tiêu cực. Trong khuôn khổ bài tiểu luận này tôi xin khái quát một số nét chính về Triết học Ấn Độ cổ đại, trào lưu triết học tôn giáo Phật giáo và sự ảnh hưởng của quan điểm Phật giáo đối với đời sống văn hóa, chính trị, tinh thần người Việt Nam. PHẦN I: SƠ LƯỢC VÀI...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 568 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phật giáo và những ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI Tr.CN ở miền bắc Ấn Độ, phía Nam dãy Himalaya, vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nepan hiện nay. Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ II sau công nguyên kết hợp với phong tục, tập quán truyền thống dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo Việt Nam. Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật giáo ở Việt Nam không ngừng phát triển, lớn mạnh và đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong việc hình thành đạo đức, nhân cách con người Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam. Những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo vẫn đang được con người Việt Nam phát huy để phục vụ cuộc sống. Song bên cạnh đó, Phật giáo cũng có những ảnh hưởng nhiều tiêu cực. Trong khuôn khổ bài tiểu luận này tôi xin khái quát một số nét chính về Triết học Ấn Độ cổ đại, trào lưu triết học tôn giáo Phật giáo và sự ảnh hưởng của quan điểm Phật giáo đối với đời sống văn hóa, chính trị, tinh thần người Việt Nam. PHẦN I: SƠ LƯỢC VÀI NÉT VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TRÀO LƯU TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO 1. Triết học Ấn độ cổ đại Tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên niên kỷ thứ II đầu thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên, bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo, giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị thần mang tính chất tự nhiên. Người ta đã chia lịch sử phát sinh và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại ra thành hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất là thời kỳ Véda (khoảng từ cuối thiên niên kỷ II đến thế kỷ VII trước CN), thời kỳ thứ hai là thời kỳ Cổ điển, hay thời kỳ Phật giáo, Bàlamôn giáo (từ thế kỷ VI đến thế kỷ I trước CN) Trong thời kỳ cổ đại Ấn Độ cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo lên đến đỉnh cao. Đặc biệt là việc phủ nhận uy thế của kinh Véda, chống giáo lý duy tâm hoang đường của đạo Bàlamôn bởi đạo Phật, đạo Jaina và phong trào tự do tư tưởng đòi hỏi bình đẳng xã hội ở Đông Ấn. Vì thế đã phân chia thành hai trường phái triết học chính: chính thống và không chính thống Hệ thống triết học chính thống gồm 6 trường phái chính: Samkhia; Nyaya, Vaisesika, Mimansa, Yoga và Védanta Hệ thống triết học không chính thống gồm 3 trường phái chính: Các trường phái triết học vô thần duy vật tiêu biểu Lokayata hay chủ nghĩa duy vật khoái lạc Chrvaka; Phật giáo và đạo Jaina. 2. Triết học Phật giáo Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI Tr.CN ở miền bắc Ấn Độ, phía Nam dãy Himalaya, vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nepan hiên nay. Người sáng lập ra đạo phật là Thích Ca Mâu Ni có tên thật là Siddhattha (Tất Đạt Đa) con đầu vua Tịnh Phạn. Ông sinh ngày 8/4/563 trước CN mất năm 483 trước CN. Năm 29 tuổi ông quyết định từ bỏ cuộc đời vương giả đi tu luyện tìm con đường diệt trừ nỗi khổ của chúng sinh. Sau 6 năm liền tu luyện ông đã 2 "ngộ đạo" tìm ra chân lý "tứ diệu đế" và "thập nhị nhân duyên". Ông trở thành phật Thích Ca Mâu Ni. Khi đó ngài vừa đúng 35 tuổi. Tứ diệu đế là 4 chân lý chắc chắn, hiển nhiên, hoàn toàn cao hơn hết gồm: - Khổ đế: Là chân lý về bản chất của nỗi khổ. Theo đạo Phật,thực tại nhân sinh là khổ ải; ngoài nỗi khổ do sinh, lão, bệnh, tử gây nên cho con người còn có nỗi khổ vì không ưa mà hợp là khổ, ưa mà phải lìa là khổ, mong không được cũng khổ, được cũng khổ mà mất cũng khổ. Đời là bể khổ. - Tập đế: Là chân lý về nguyên nhan của nỗi khổ. Con người trong thế giới hiện thực này khổ là vì đâu? Nguyên nhân trực tiếp là do con người có lòng tham, sân, si. Con người muốn còn mãi nhưng thực tại cứ biến dịch và thay đổi, muốn trường tồn nhưng thực tại luôn biến hóa trong vòng sinh,lão,bệnh,tử;không có cái gì thực là ta,của ta.Do đó đã tạo nên cho con người những nỗi khổ triền miên cho con người trong cuộc đời.Để giải thích cho căn nguyên ấy,đức Phật đã nêu ra thuyết “Thập nhị nhân duyên” gồm: Vô minh,Hành, Thức, Danh sắc, Lục căn, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão tử. - Diệt đế: Là chân lý diệt khổ. Nổi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân gây ra khổ bị loại từ. Lần theo thập nhị nhân duyên, tìm ra cội nguồn của nỗi khổ và ái dục, dứt bỏ từ ngọn nguồn cho đến gốc mọi nguồn gốc đau khổ đưa chúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, đạt đến cảnh trí Niết bàn (Nirvana). Đó là thế giới lý tưởng của sự giác ngộ và giải thoát. Trạng thái Niết bàn, Thường trụ, Chính quả không thể lý giải được mà là tự mình giác ngộ. Mục đích của Phật tử là thực hiện Niết bàn, khi đang tu dưỡng là thực hiện Niết bàn từng phần, khi giác ngộ rồi là thực hiện được Niết bàn toàn phần,trở thành Phật. - Đạo đế: là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ, nói về những con đường, cách thức để con người đạt đến trạng thái Niết bàn. Con đường diệt khổ, giải thoát và giác ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức, rèn luyện tư tưởng và khai sáng trí tuệ. Ba môn học này được cụ thể hóa trong khái niệm “Bát chánh đạo” (tám con đường chân chính), đó là: + Chính kiến: hiểu biết đúng đắn, kiến giải chính xác. + Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn. + Chính nghiệp: hành động chân chính, thực hiện ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu, không nói dối). + Chính ngữ: lời nói chân chính,trung thực. + Chính mệnh: sống chân chính không tham lam vụ lợi xa rời nhân nghĩa + Chính tinh tiến: cố gắng nỗ lực chân chính. + Chính niệm: suy niệm chân chính. + Chính định: kiên định, tập trung tâm trí vào con đường chân chính Trong tám nẻo đường này thì chính kiến, chính tư duy thuộc về trí tuệ; chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh thuộc về Định. Đạo Phật còn đề ra những phương pháp trên con đường thực hành tu nghiệp là: “Ngũ giới” và“Lục độ” (sáu phép tu). Trong những giai đoạn đầu với vũ trụ quan nhân duyên, đạo Phật đã có những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát. Ở Ấn Độ, Phật giáo bắt đầu suy dần từ thế kỷ IX và hoàn toàn sụp đổ trước sự tấn công của Hồi giáo vào thế kỷ XII. 3 PHẦN II: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, CHÍNH TRỊ, TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM. 1 Đạo Phật với việc hình thành nhân cách con người Việt Nam Phật giáo là một tôn giáo, như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng gồm có giáo lý và hoạt động tín ngưỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về thế giới và con người, về cách thức tu luyện và hoạt động tín ngưỡng, là những hành vi, những nghi lễ cần phải thực hiện để đạt tới ước nguyện. Cả hai đều có ý nghĩa đối với việc hình thành nhân cách của các tín đồ. Hơn lúc nào hết, trong mấy chục năm qua người Phật từ Việt Nam hiện nay rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ chăm chú lên chùa trong những ngày sóc, vọng; họ trân trọng và thành kính trong lúc thực hành các nghi lễ; họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm thiện. Mặt khác, nhà chùa luôn sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như giải oan, cầu siêu. Tất cả những điều đó vừa củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa quy định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt. Con người Phật giáo nhìn sự vật trong mối quan hệ nhân quả, xem cái gì cũng là kết quả của một cái trước và là nguyên nhân của cái sau. Mỗi khi gặp một sự việc hệ trọng có liên quan đến bản thân hay người nhà, họ đều nghĩ đến nguyên nhân để tìm cách khắc phục. Họ còn nhìn thế giới, xã hội con người ở trong dòng vận động không ngừng, ở đó không có cái gì là tồn tại mãi, cái gì cũng đang chuyển biến từ cái này sang cái khác. Khi người thân trong gia đình lão già, yếu đau, chết chóc, họ đều xem đó là điều không thể tránh khỏi và lấy đấy làm điều an ủi. Lý thuyết nhân duyên sinh, vô thường, vô ngã của nhà Phật đã chi phối ý nghĩ và hành động của họ. Nhân cách Phật giáo đã góp phần làm nên nhân cách của con người Việt Nam ngày nay. Nhân cách đó có tác dụng hai mặt. Mặt tích cực là chấp nhận sự biến đổi của thế giới và con người, sống có nền nếp, trong sạch, giản dị, quan tâm đến nỗi khổ của người khác, thương người, vị tha, cứu giúp người hoạn nạn, hành động thì lấy tự giác làm đầu... Mặt tiêu cực là nhìn đời một cách bi quan, có pha trộn chất hư vô chủ nghĩa, nặng về tin tưởng ở quyền năng và phép màu nhiệm của một vị siêu nhiên mà nhẹ về tin tưởng năng lực hoạt động của con người, nếp sống thì khổ hạnh và không tránh khỏi nương theo những nghi lễ thần bí. Đặc biệt là có hiện tượng mê tín dị đoan như: Lên đồng, đốt vàng mã, những đồ dùng bằng giấy. Những tư tưởng mê lầm đó vừa phung phí tiền bạc, thời gian lại làm xuất hiện trong xã hội những loại người chỉ dựa vào những nghề nghiệp ấy mà kiếm sống gây ra một sự bất công trong xã hội. Tuy nhiên, nhân cách con người Phật giáo có những điều phù hợp với xã hội hiện nay. Nhưng những điều đó chỉ giới hạn trong những trường hợp nhất định và chúng ta phải phát huy những mặt đó. Vượt qua những giới hạn đó, nó sẽ có những mâu thuẫn với giáo lý và trở nên lạc lõng, mất hiệu quả. Vậy con người am hiểu đạo lý, mến đạo, mộ đạo không phải chỉ là con người tu hành một cách cần mẫn mà phải có cả phần trí tuệ để biết vận dụng giáo lý vào cuộc sống một cách hữu 4 ích. Hiểu được và làm được như thế, con người sẽ thấy đạo đức Phật đẹp đẽ và cao thượng. 2. Đạo Phật với sự phát triển nền văn hóa Việt Nam Nhìn vào đời sống văn hoá, tinh thần của xã hội Việt Nam trong những năm qua, ta thấy hiện tượng Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. Bên cạnh sự phát triển ngày một lớn mạnh của kiến trúc hiện đại, Việt Nam vẫn phục hồi kiến trúc cổ xưa qua việc tu sửa lại những đền chùa, miếu mạo, những danh lam thắng cảnh. Đó là những nơi mà dấu ấn của đạo phật thể hiện rõ nhất. Ở thời nhà Lý, nghệ thuật kiến trúc đã đạt tới đỉnh cao với những công trình mang tính quy mô to lớn, vượt hẳn thời trước và cả những thời sau đó. Như nền chùa Quế Giạm ( Quế Võ- Hà Bắc) trải rộng trên một diện tích với những vết tích còn lại gồm ba cấp trải rộng trên một diện tích gần 120 mét, rộng 70 mét. Các ngôi tháp đời lý gồm nhiều tầng, cao chót vót: Tháp Bảo - thiên cao vài mươi trượng ( khoảng trên 60 mét) gồm 12 tầng, tháp Sùng-thiện-diên- linh ( chùa Đọi, Duy Tiên, Nam Hà) cao 13 tầng, tượng Phật Di-lặc chùa Quỳnh Lâm( Đông Chiều, Quảng Ninh) cao 6 trượng, khoảng 20 m. Chùa Một Cột là một sách tạo về nghệ thuật, tượng trưng cho 1 toà sen nở trên mặt nước. Những kiến trúc đó thường hoà hợp với cảnh trí thiên nhiên chung quanh tạo nên một khung cảnh kiến trúc hài hoà với ngoại cảnh. Nghệ thuật kiến trúc của đời Lý lại được đời Trần kế tục truyền thống và phát triển mang tính chất phóng khoáng, khoẻ và hiện thực hơn. Tháp Phổ Minh, Bình Sơn là những công trình kiến trúc có giá trị ở đời Trần, Tháp Bình Sơn cao 11 tầng, có bố cục chặt chẽ cân xứng. Sang đời nhà Nguyễn nghệ thuật kiến trúc có chiều hướng ngày càng sa sút, tuy nhiên cũng có những sáng tạo nhất định như Văn Miếu ( Hà Nội) và một số đình, chùa ở các làng. Đỉnh cao của kiến trúc nhà Nguyễn là chùa Tây Phương( Thạch Thất, Hà Tây) xây dựng thành ba lớp là lối kiến trúc phổ biến của các chùa trong nam. Chùa Tây Phương cũng là nơi tập trung nhiều pho tượng có giá trị, trong đó nổi tiếng nhất là chùa Tuyết Sơn và mười tám vị La Hán. Các bức tượng lấy đề tài trong sự tích đạo Phật nhưng vẫn thế hiện những con người Việt Nam Hiện thực và gợi cảm. Ngày nay, những nghệ thuật, kiến trúc đó vẫn còn tồn tại và được trùng tu, sửa sang để làm nơi du lịch của khách thập phương và nơi lễ bái của nhân dân trong vùng. Những công trình đó tuy mang đậm dấu ấn Phật giáo nhưng vẫn là sáng tạo nghệ thuật dân gian phản ánh đời sống tinh thần của con người Việt Nam xưa. 3. Đạo Phật với chiến tranh và hòa bình ở Việt Nam Đạo Phật chủ trương từ, bi, hỷ, xả. Xã hội loài người thực hiện được bốn chữ từ, bi, hỷ, xả trong cuộc sống hàng ngày là một xã hội an lạc, hạnh phúc. 5 Đạo Phật chủ trương một cuộc sống vị tha, một cuộc sống hoà hợp, loại trừ mọi oán thù. Lịch sử Phật giáo chứng minh, trong suốt 2500 năm truyền bá trong khắp cõi Á Đông. Đạo Phật không làm rơ một giọt máu nào. Trong giáo lý Phật, ở phần giới luật, giới thứ nhất là giới sát: với giới luật này, chúng ta càng thấy rõ đạo Phật chủ trương ôn hoà, hoà bình và hoà hợp giữa các dân tộc, không muốn cho chúng sinh nói chung, loài người nói riêng tàn sát lẫn nhau. Nhưng ở đây chúng ta phải hiểu giới sát với đúng tinh thần trong giáo Phật. Giới sát có nghĩa là giới bất tàn sát.Tàn sát có nghĩa là giết hại chúng sinh một cách hung ác, tàn bạo. Giáo lý Phật căn cứ vào tâm ý để phân biệt thiện ác mà không căn cứ vào hành động. Nói thế có nghĩa là một hành động chỉ được coi là thiện, ác khi căn cứ vào hành động ấy mà mưu đồ làm hại cho người khác hay cứu giúp người khác. Trong kinh có câu: “ Nhất niệm khởi, thiện ác dĩ nhân. Muốn cho tâm niệm mỗi khi khởi lên là một tâm niệm thiện thì Phật dạy đệ tử luôn phải giữ tâm trong chính niệm “. Như vậy, chúng ta phải hiểu giới sát đúng với thần trong giáo lý Phật và áp dụng cho đúng. Nếu ta giết người với mục đích để diệt trừ quân xâm lăng hung ác để bảo vệ dân nước thì việc làm đó là việc thiện vì hành động của ta xuất phát từ một ý niệm thiện. Chiến tranh giải phóng dân tộc của các nước chống xâm lược để mang lại hoà bình, hạnh phúc cho nhân dân, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc là một cuộc phóng sinh vĩ đại, là một việc thiện, một việc chính nghĩa. Trái lại, nếu chúng ta giết người để thỏa lòng tham ác, để mưu lợi ích kỷ cho bản thân ta thì việc chém giết ấy là một việc ác, hành động ấy xuất phát từ một ý niệm ác. Chiến tranh xâm lược do đế quốc tiến hành chống các nước yếu hơn, phá hoại độc lập, hoà bình, an ninh của các dân tộc, hủy diệt môi trường sống là một tội ác. Vấn đề căn cứ vào tâm, niệm để phân biệt thiện, ác là rất quan trọng. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh những điều nói trên bằng các gương người thực việc thực. Dưới triều Lý và Trần, giặc Nguyên kéo đại quân gồm 30 vạn rồi 50 vạn quân sang xâm lược nước ta tiến hành một cuộc chiến tranh đại dã man. Để chống quân xâm lược, Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, những ông vua rất sùng đạo, yêu nước này lại trở về sống tu hành ăn chay niệm Phật. Trong những năm gần đây, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp tiến hành hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thấm nhuần giáo lý Phật nói chung và luật giới sát nói riêng, Phật tử xuất gia ở 2 miền Nam - Bắc đã tham gia trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu chống giặc một cách anh dũng. Các đệ tử Phật đã nhận thức được đâu là chiến tranh xâm lược, đâu là chiến tranh vệ quốc và đã kiên quyết đứng về phía nhân dân. Đó chính là một việc thiện, một cuộc phóng sinh vĩ đại. 4. Đạo Phật với vấn đề chính trị Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống chính trị xã hội. Ngày nay, người ta nhấn mạnh vai trò chính trị của các nhà 6 sư thời Lý, Trần, nhấn mạnh ý nghĩa chính trị xã hội trong một số hoạt động của phật tử hiện đại. Dưới triều Lý, Trần, các nhà sư trở thành một tầng lớp phong kiến tăng lữ có thế lực trong xã hội. Nhiều nhà sư tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị và giữ những cương vị quan trọng trong triều đình. Như sư Vạn - Hạnh là người đã vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra triều Lý. Sư Đa - Bảo và Viên - Thông được tham dự, bàn bạc và quyết định các việc trong triều như cố vấn của nhà vua. Ngày nay, các nhà sư giữ những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia vào hoạt động chính trị. Nhưng bên cạnh những công tác phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước thì cũng có một số phần tử đã lợi dụng chức vụ của mình để gây rối. Hay trường hợp của Lê Đình Nhàn ( tức Thích Huyền Quang ) thường xuyên gây phiền nhiễu với các nhà sư khác cùng tu trong chùa. Thêm vào đó, nhiều vụ tự tử của các nhà sư với những nguyên nhân ngoài đạo đã bị cách phe phái phản động đưa tin xấu, coi đó là những hành vi tử vì đạo. Và khi những người đại diện pháp luật can thiệp thì chúng cho đó là hành vi bắt bố sư sãi, đàn áp Phật giáo. Để trả lời những thông tin sai lầm đó, chính phủ Việt Nam đã khẳng định luôn luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân nhưng những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị cũng sẽ bị xử phạt như bất kỳ một công dân Việt Nam nào khác. Bởi lẽ bất kỳ một sư sãi của tổ chức nào thì trước hết cũng là công dân của nhà nước Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo, những người theo đạo là một bộ phận khăngkhít của khối đại đoàn kết dân tộc đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, đối với Phật giáo, chính phủ Việt Nam là không có lý do gì để phân biệt đối xử Phật tử Việt Nam là những người yêu nước, luôn gắn bó với dân tộc qua mọi bước thăng trầm của lịch sử, luôn đứng về phía Tổ quốc đấu tranh chống ngoại xâm. Đạo Phật đối với Việt Nam không chỉ là một tôn giáo mà còn là một bộ phận của nền văn hoá dân tộc truyền thống. Đạo Phật là một đạo không chỉ để người ta học mà chủ yếu cho người ta hành. Thực ra, những cái mà ta học được trong kinh điển mới chỉ là một kiến thức lỏng lẻo có tính chất lý thuyết. Ta mới chỉ nghe thấy nói đến những thuyêt vô thường, vô ngã, sắc không... mà thôi. Còn tu hành là phải gắng sức thực nghiệm những chân lý đó. Hiểu đạo không phải chỉ là nghiệm đạo qua kinh điển mà phải trải qua học đạo, tu đạo, chứng đạo. Thời đại ngày nay là thời đại của phát triển, của khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Để phù hợp với sự phát triển đó, con người cần phải có tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cảm sáng tạo. Nhưng không vì thế mà con người ngày nay xa rời với con người của Phật giáo: từ, bi, hỷ, xả. Con người có tham vọng nhưng không tham nhũng cái do người khác làm ra, không vun vén lợi ích cho riêng mình biết kết hợp những phẩm chất đạo đức của con người Phật giáo với tư cách, trí tuệ của con người hiện đại là chúng ta tự hoàn thiện mình, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, hạnh phúc. 7 Phần III: KẾT LUẬN Qua những vấn đề cơ bản trong Phật học, ta thấy Đạo Phật là một hệ thống tư tưởng thống nhất quy tụ về Nhất Thừa Phật pháp. Tất cả giáo lý Phật là nền tảng cho việc xây dựng con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người từ, bi, hỷ, xả, con người Phật. Vì thế vấn đề nhân vị trong đạo Phật là một vấn đề quan trọng vì đạo Phật cho rằng con người là tất cả, con người quyết định số phận của mình, quyết định hình thái xã hội. Con người ác chỉ biết lợi mình hại người tạo ra một xã hội với áp bức bất công. Con người thiện, sống vị tha xây dựng một xã hội tiến bộ, lành mạnh. Như vậy, đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ, bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, còn tập thể. Trái lại. con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy sẽ là xã hội địa ngục, xã hội áp bức bóc lột. Qua những điều đã trình bày như trên về Phật giáo nói chung cũng như Phật giáo khi vào Việt Nam,ta nhận thấy: Phật giáo là một học thuyết triết học vô thần về sự giải thoát. Toàn bộ học thuyết hướng con người đến tư tưởng giải thoát; đồng thời cũng là một học thuyết về đạo đức, đề cập đến vấn đề bình đẳng, bác ái.Vì thế mà sau khi được các nhà sư Ấn Độ đưa vào Việt Nam từ đầu công nguyên,Phật giáo đã nhanh chóng được nhân dân tiếp nhận một cách tự nhiên và ngày càng phát triển Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt Nam và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Đạo Phật đã ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của người Việt từ triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật cho đến phong tục tập quán, nếp sống nếp nghỉ.... Tìm hiểu và nghiên cứu về "Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống người Việt", chúng ta càng thấy rõ nhận định trên. Từ quan niệm nhân sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm mỹ cho đến lời ăn tiếng nói của quảng đại quần chúng ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của triết lý và tư tưởng Phật giáo. Những câu nói đầu lưỡi "ở hiền gặp lành", "tội nghiệp", "hằng hà sa số"... là điều phổ biến trong quan hệ ứng xử giữa mọi người. Qua quá trình lịch sử, trải qua bao cuộc biến đổi thăng trầm của đất nước, Phật giáo đã khẳng định mình và có một chỗ đứng vững chắc trong lòng của dân tộc, tồn tại và phát triển cùng với dân tộc. Rõ ràng Phật giáo đã đóng góp cho dân tộc ta nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. yếu tố mang tính truyền thống, hình thành nhân cách, bản lĩnh và bản chất của dân tộc là chủ yếu; đã gặp gỡ, hòa quyện trong những yếu tố tinh thần, tư tưởng từ bi cứu khổ của Phật giáo Việt Nam. Những yếu tố ngoại sinh đã góp phần lớn vào việc củng cố, duy trì vá phát triển nội hàm bản sắc dân tộc. Trong đó Phật giáo góp phần vào việc làm phong phú thêm cá tính, đặc trưng dân tộc người Việt. Ngược lại, chính những bản chất dân tộc đã làm giàu hơn nền văn hóa Phật giáo. Một minh chứng 8 của sự tác động qua lại này chính là sự kết hợp giữa truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc với tinh thần tập thể của Phật giáo Việt Nam, đã đưa đến nét đặc thù của Việt Nam, đem lại hình ảnh sống động của Tăng ni Phật tử qua hai cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong gần một thế kỷ nay. Dân tộc Việt Nam, với vị trí địa lý- văn hóa đặc biệt, dù có muốn hay không cũng tạo ra một sự hội nhập văn hóa, không phải là một sự hội nhập văn hóa bình thường, mà là một sự hội nhập văn hóa của những tinh hoa đến từ các trung tâm văn hóa tầm cỡ thế giới, như Ấn Độ, Trung Hoa, được kết tinh trong một tôn giáo lớn- Phật giáo. Đó cũng là một sự hội nhập mà cư dân nước Việt làm chủ, lợi ích của dân tộc và đất nước là chuẩn mực cao nhất của sự hội nhập, sự hội nhập đó là thử thách và kiểm nghiệm bằng một bề dày lịch sử. Qua thực tế cho thấy rằng, Phật giáo sau khi nhập vào nền văn hóa nước ta đã tạo ra một thế ổn định xã hội kéo dài. Nhân dân ta, qua các thế hệ, đã làm cho các giá trị nhân bản của đạo Phật bén rễ sâu sắc và cắm gốc vững bền trong tâm hồn mình. Một phần là nhờ ở tính uyển chuyển trong giáo lý, tính bao dung không cố chấp của đạo Phật, nhưng một phần không nhỏ là do sức sáng tạo của người dân. Tin ở sức mình, tin ở luật Nhân - Quả nghiệp báo, động viên nhân dân hướng tới Chân - Thiện - Mỹ, đó là công lao của văn hóa Phật giáo, là sự sáng tạo của nhân dân Việt Nam. Trong những giai đoạn đầu với vũ trụ quan nhân duyên đạo Phật đã có những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát. Về lĩnh vực chính trị - xã hội đạo Phật là tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo xã hội bất công, đòi hỏi tự do bình đẳng, giải thoát con người khỏi nỗi bi kịch của cuộc đời. Đó là những ưu điểm của triết lý Phật giáo. Tuy nhiên trong luận thuyết về nhân sinh và con đường giải thoát, tư tưởng Phật giáo còn mang nặng tính bi quan, yếm thế cuộc sống, chủ trương xuất thế, siêu thoát có tính chất duy tâm không tưởng về những vấn đề của xã hội. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để hướng đạo cho họ một nhân cách chính, đúng đắn. Theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ không trở nên mê tín dị đoan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng nhân dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphat_giao_va_nhung_anh_huong_den_xa_hoi_viet_nam_4286_2182671.pdf
Tài liệu liên quan