Tài liệu Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ trồng dâu nuôi tằm huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng: TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
117
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CỦA HỘ
TRỒNG DÂU NUÔI TẰM HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG
ANALYSIS OF FACTORS AFFECTING THE INCOME OF SERICULTURAL
PRODUCTION HOUSEHOLDS IN LAM HA DISTRICT, LAM DONG PROVINCE
Ngày nhận bài: 24/09/2018
Ngày chấp nhận đăng: 04/10/2018
Nguyễn Thái Dung, Dương Thế Duy, Võ Tình
TÓM TẮT
Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả, hồi quy đa biến để phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến thu nhập của 190 hộ trồng dâu nuôi tằm (TDNT) trên địa bàn của xã Tân Hà, Hoài
Đức, Liên Hà, Đông Thanh và thị trấn Nam Ban thuộc huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Kết quả
nghiên cứu cho thấy thu nhập của hộ TDNT tương đối cao trong những năm gần đây và chịu ảnh
hưởng nhiều từ các yếu tố giống (giống dâu), trình độ tư liệu sản xuất, trình độ sinh học, diện tích
trồng dâu, giới tính, trình độ học vấn. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đã đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao thu nhập cho hộ TDNT của huyện ...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ trồng dâu nuôi tằm huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
117
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CỦA HỘ
TRỒNG DÂU NUÔI TẰM HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG
ANALYSIS OF FACTORS AFFECTING THE INCOME OF SERICULTURAL
PRODUCTION HOUSEHOLDS IN LAM HA DISTRICT, LAM DONG PROVINCE
Ngày nhận bài: 24/09/2018
Ngày chấp nhận đăng: 04/10/2018
Nguyễn Thái Dung, Dương Thế Duy, Võ Tình
TÓM TẮT
Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả, hồi quy đa biến để phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến thu nhập của 190 hộ trồng dâu nuôi tằm (TDNT) trên địa bàn của xã Tân Hà, Hoài
Đức, Liên Hà, Đông Thanh và thị trấn Nam Ban thuộc huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Kết quả
nghiên cứu cho thấy thu nhập của hộ TDNT tương đối cao trong những năm gần đây và chịu ảnh
hưởng nhiều từ các yếu tố giống (giống dâu), trình độ tư liệu sản xuất, trình độ sinh học, diện tích
trồng dâu, giới tính, trình độ học vấn. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đã đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao thu nhập cho hộ TDNT của huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Từ khóa: hộ, thu nhập, trồng dâu nuôi tằm.
ABSTRACT
The study used multivariate statistical descriptive statistics to analyze the factors affecting the
income of 190 sericultural production households in Tan Ha commune, Hoa Duc, Lien Ha, Dong
Thanh and Nam Ban of Lam Ha district, Lam Dong province. The results show that the income of
households is relatively high in recent years and is influenced by many factors (mulberry breeds),
productivity level, biological level, mulberry area, gender, education level. In addition, research has
proposed some solutions to increase income for sericultural production households in Lam Ha
district, Lam Dong province.
Keywords: household, income, sericultural production.
1. Giới thiệu
Nghề trồng dâu nuôi tằm là nghề mang lại
nguồn thu nhập cao cho các hộ nông dân
nhưng nghề này đã có thời kỳ suy thoái,
nhiều hộ nông dân đã bỏ trồng dâu nuôi tằm
sang những cây trồng khác như chè, cà phê,...
Từ năm 2010 đến nay, ngành trồng dâu nuôi
tằm đã khởi sắc và mang lại thu nhập cho các
hộ nông dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng
nhưng thu nhập giữa các hộ trồng dâu nuôi
tằm không ổn định và có sự khác biệt giữa
các hộ. Thật vậy, có nhiều nghiên cứu về thu
nhập của hộ nông dân nói chung, của hộ
trồng dâu nuôi tằm nói riêng, một số nghiên
cứu điển hình như Mubin, et al (2013);
Anteneh, et al (2011); Geetha, et al (2011);
Lewis (1954); Oshima (1993); Barker
(2002); Đinh Phi Hổ và Phạm Ngọc Dưỡng
(2011); Ashiru (2002); Adolkar, et al. (2007);
Lê Hồng Vân và cộng sự (2017)Tuy nhiên,
nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến thu
nhập của hộ trồng dâu nuôi tằm cho riêng địa
bàn huyện Lâm hà, tỉnh Lâm Đồng chưa có.
Chính vì vậy, nội dung nghiên cứu này là
nhu cầu cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn. Dựa
vào tình hình thực tiễn của nghề trồng dâu
nuôi tằm ở địa bàn huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm
Đồng cùng với các nghiên cứu trước về thu
nhập của nông hộ nói chung, hộ trồng dâu
nuôi tằm nói riêng. Nội dung bài viết tập
chung vào hai vấn đề chính: nhận diện các
Nguyễn Thái Dung, Trường Đại học Kinh tế -
Luật (ĐHQGTPHCM)
Dương Thế Duy, Khoa Luật, Trường Đại học Tôn
Đức Thắng
Võ Tình, Phòng Lao động- Thương binh và Xã
hội, Huyện Cẩm Mỹ, Tỉnh Đồng Nai
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
118
yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ trồng
dâu nuôi tằm tại địa bàn nghiên cứu và gợi ý
các giải pháp góp phần nâng cao thu nhập
cho hộ trồng dâu nuôi tằm ở huyện Lâm Hà
nói riêng và tỉnh Lâm Đồng nói chung và góp
phần phát triển kinh tế cho tỉnh Lâm Đồng
trong thời gian tới..
2. Dữ liệu và Phương pháp nghiên cứu
2.1. Dữ liệu
Số liệu sơ cấp được thu thập từ các hộ
trồng dâu nuôi tằm kết hợp, thu thập bằng
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên không
lặp lại, tác giả tiến hành phỏng vấn trực tiếp
các hộ TDNT tại xã Tân Hà, Hoài Đức, Liên
Hà, Đông Thanh và thị trấn Nam Ban thuộc
huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng thông qua
bảng câu hỏi đã được soạn trước. Điều tra
được tiến hành vào tháng 10, 11 năm 2017.
Đối tượng lấy mẫu: Đại diện hộ gia đình
trồng dâu nuôi tằm (người trực tiếp trồng dâu
nuôi tằm).
Bảng 1. Mẫu nghiên cứu theo địa bàn khảo sát
Nguồn: Số liệu điều tra thực tế của nhóm, 2017
Theo Tabachinick & Fidell (1991), khi sử
dụng các phương pháp hồi quy, kích thước
mẫu cần thiết được tính theo công thức: n ≥
50 + 8p. Trong đó: n là kích thước mẫu tối
thiểu cần thiết, p là số lượng biến độc lập
trong mô hình. Do đó, 8 biến độc lập trong
mô hình nghiên cứu được đề xuất thì cỡ mẫu
cần điều tra là n ≥ 50+8*8= 114 quan sát.
Vậy với cỡ mẫu 190 quan sát, dữ liệu đã đảm
bảo thực hiện kiểm định mô hình nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Theo Park (1992), năng suất lao động là
điều kiện đề thay đổi thu nhập. Các yếu tố tác
động đến năng suất lao động cũng chính là
yếu tố tác động đến thu nhập. Lewis (1954),
Oshima (1993), và Barker (2002), cho rằng
các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động
nông nghiệp bao gồm: quy mô diện tích đất
nông nghiệp của hộ, trình độ cơ giới (chi phí
dịch vụ bằng cơ giới), vốn vay, trình độ kiến
thức nông nghiệp, trình độ sinh học (Chi phí
của giống, phân bón – thuốc hóa học).”
Cho đến nay, có rất nhiều nghiên cứu
các yếu tố tác động đến thu thập, lợi nhuận
của nông hộ nói chung, hộ TDNT nói riêng.
Trong đó Roy, et al (2015: tr.168) đã phân
tích các yếu tố tạo ra thu nhập trong nghề
trồng dâu nuôi tằm tại West Bengal: Diện
tích trồng dâu tằm và giá kén đã được xác
định là những biến giải thích đáng cho độ
dốc tăng lên trong "đường cong tạo thu
nhập". Theo Đinh Phi Hổ và cộng sự (2011:
tr.4) cho thấy quy mô diện tích, giống cà phê,
trình độ kiến thức nông nghiệp của chủ hộ và
trình độ ứng dụng công nghệ sinh học ảnh
hưởng đến thu nhập của hộ trồng cà phê tại
khu vực Tây Nguyên. Adolkar, et al.(2007:
tr.6); Ashiru M. O. (2002: tr.77) cũng cho
rằng yếu tố giống ảnh hưởng nhiều nhất đến
thu nhập của hộ TDNT. Nhìn từ khía cạnh
khác Geetha, et al (2011: tr.95); Lakshmanan
(2007: tr. 627); Mubin, et al (2013: tr.264)
cho rằng yếu tố tuổi, giới tính, trình độ học
vấn ảnh hưởng đến thu nhập của hộ trồng
dâu nuôi tằm. Roy, et al (2015: tr.1) cho rằng
yếu tố con người, diện tích trồng dâu ảnh
hưởng nhiều nhất đến thu nhập của nông hộ.
Một nghiên cứu khác của Trương Quốc
Hưng (2006) chỉ ra rằng ngoài các yếu tố trên
thì yếu tố thị trường ảnh hưởng đến kết quả
sản xuất dâu tằm tỉnh Hà Nam. Trong khi đó
ảnh hưởng của các nguồn lực cho sản xuất
như đất đai, lao động, đầu tư chưa được
nghiên cứu phân tích. Mặt khác, thông qua
lược khảo tài liệu nghiên cứu có liên quan,
kết hợp với các yếu tố thuộc về đặc điểm của
hộ gia đình và khảo sát thực tế tại địa bàn,
tác giả đề xuất mô hình các yếu tố tác động
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
119
đến thu nhập của hộ TDNT của huyện Lâm
Hà tỉnh Lâm Đồng như sau:
Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy
đa biến:
Y = β0 + β1X1 + β2X2 + β3X3 + βnXn.
Để ước lượng mô hình này ta chuyển về
dạng tuyến tính:
Yi = β0 + βiXi + εi với Yi: là biến phụ
thuộc và được đo lường bằng thu nhập/năm
của hộ.
Mô hình được thiết lập:
THUNHAP = β0 + β1GT + β2TU + β3TDHV
+ β4DT + β5TLSX + β6TDSH + β7G.
Các biến độc lập trong mô hình được giải
thích cụ thể trong Bảng 2.
Bảng 2: Các biến độc lập trong mô hình
Nguồn: Tổng hợp từ các nghiên cứu trước đó
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Thực trạng thu nhập của hộ TDNT
Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu
vào cuối năm 2017 cho thấy, thu nhập bình
quân đầu người trung bình là 56,4 triệu
đồng/năm. Trong khi đó, tổng chi phí cho các
lứa nuôi tằm trung bình là 8,14 triệu
đồng/năm. Nếu so sánh giữa thu nhập với chi
phí thì thu nhập hộ nông dân trong năm 2017
đạt hiệu quả khá cao. Có thể nói rằng: mỗi hộ
gia đình có thể tu lợi nhuận từ việc TDNT
với diện tích trung bình là 3.570m2 lên tới 7,2
triệu đồng/hộp tằm/lứa nuôi, một năm hộ
nuôi trung bình 6,3 lứa. Cũng theo kết quả
khảo sát cho thấy: hộ TDNT có thu nhập cao,
vậy các yếu tố nào tác động đến thu nhập của
hộ TDNT? Việc thu nhập cao từ trồng dâu
nuôi tằm có bền vững không? Nghiên cứu sẽ
phân tích cụ thể bên dưới.
Nghiên cứu phân tích thực trạng thu nhập
của hộ TDNT theo các nhóm. Đầu tiên là
nhóm liên quan đến đặc đểm của nhân khẩu
học. Đối với giới tính, kết quả khảo sát tại
Bảng 3 cho thấy, cả hai giới đều có thu nhập
nhiều nhất từ 30-100 triệu đồng/năm. Mặc dù
vậy, tỷ lệ nam có thu nhập từ 30-50 triệu
đồng/năm là 27,22% chiếm cao hơn so với
nữ giới là 17,38%, trong khi đó, tỷ lệ nữ giới
có thu nhập từ 50-100 triệu đồng/năm là
41,76% chiếm tỷ lệ cao một cách đáng kể so
với nam là 31,95, và thu nhập trên 150 triệu
đồng/năm thì đối với nữ giới là 10,62%, nam
giới là 0,59%. Điều này cho thấy rằng, đối
với hoạt động TDNT thì nữ giới dường như
có ưu thế hơn nam giới.
Bảng 3: Thu nhập bình quân của hộ TDNT theo
giới tính
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm, 2017.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
120
Bảng 4: Thu nhập bình quân của hộ TDNT theo
trình độ học vấn
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm, 2017.
Xét theo nhóm trình độ học vấn, số liệu
tại Bảng 4 cho thấy đa số chủ hộ học cấp I
(133 hộ, chiếm 70%), thu nhập từ Từ 50-100
triệu đồng/năm chiếm 31,13%, từ 30-50 triệu
đồng/năm chiếm 26,41%. Chủ hộ có trình độ
cấp II là 41 hộ chiếm 21,6%, đa số các hộ có
thu nhập từ dưới 30 triệu-100 triệu
đồng/năm. Hộ có trình độ cấp III ít hơn chỉ
có 12 hộ chiếm 6,3%, trên cấp III là 4 hộ
chiếm 2,1% và thu nhập của hộ trong nhóm
này khá cao , 58,33% (nhóm hộ cấp III có
thu nhập từ 50-100 triệu đồng/năm), 92,50
(nhóm hộ trên cấp III có thu nhập từ 50-100
triệu đồng/năm), đều này có thể giải thích
phần nào về tác động của trình độ học vấn
đến thu nhập của hộ TDNT.
Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng phân tích
mối tương quan giữa một số yếu tố đầu vào
ảnh hưởng đến thu nhập của hộ TDNT.
Trong nghiên cứu này, yếu tố đầu vào được
định nghĩa bao gồm diện tích đất trồng dâu,
giống dâu, trình độ sinh học và trình độ tư
liệu sản xuất.
Xét theo diện tích canh tác, kết quả khảo
sát tại Bảng 5 cho thấy, hộ gia đình có diện
tích đất canh tác dưới 2.000 m2 với thu nhập
từ 50 triệu đồng/năm trở xuống chiếm tỷ lệ
khá cao (75,88%), chỉ có 24,12% hộ gia đình
có thu nhập từ 50-100 triệu đồng/năm, thu
nhập trên 100 triệu đồng/năm thì không có
hộ nào. Trong khi đó, hộ gia đình có diện
tích trồng dâu từ 2.000m2 - 5.000m2 có thu
nhập bình quân khá cao từ 50-100 triệu
đồng/năm chiếm 49,10%, từ 100-150 triệu
đồng/năm chiếm 18,28%. Các nhóm hộ
TDNT có diện tích canh tác từ 5.000m2 -
10.000m2 có thu nhập tập trung vào khoảng
từ 100-150 triệu đồng/năm chiếm 84,24%.
Nhóm hộ có diện tích trên 10.000m2 rất ít, chỉ
có 5 hộ và thu nhập trên 100 triệu đồng/năm.
Như vậy, thu nhập bình quân có mối quan hệ
cùng chiều với diện tích đất canh tác của
nông hộ và hiện nay diện tích trồng dâu của
các hộ tập trung nhiều ở mức dưới 2000m2
(85 hộ), từ 2.000m2 - 5.000m2 (83 hộ).
Bảng 5: Thu nhập bình quân của hộ TDNT theo
diện tích trồng dâu
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm, 2017.
Bảng 6: Thu nhập bình quân của hộ TDNT theo
giống dâu
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm, 2017.
Kết quả bảng 6 cho thấy việc áp dụng
giống dâu mới có hiệu quả hơn so với giống
cũ, cụ thể có những hộ có thu nhập từ 100-
150 triệu đồng/năm chiếm 29,27%, thậm chí
có hộ đạt thu nhập trên 150 triệu đồng/năm
(2,91%). Trong khi đó hộ trồng giống dâu cũ
không có hộ nào có thu nhập trên 100 triệu
đồng/năm, đa số có thu nhập ở mức dưới 30
triệu đồng/năm (52,91%).
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
121
Xét về trình độ sinh học, tại Bảng 7 bên
dưới cho thấy, các hộ TDNT có chi phí sinh
học phần lớn từ 3-5 triệu đồng/năm (97 hộ)
với mức thu nhập từ 50-100 triệu đồng/năm
chiếm 42,20%, chi phí sinh học trên 5 triệu
đồng/năm cũng có mức thu nhập từ 50-100
triệu đồng/năm chiếm 62,93%. Đối với mức
thu nhập trên 100 triệu đồng/năm thì chỉ
chiếm 21,85% (chi phí sinh học 3-5 triệu
đồng/năm), 7,07% (chi phí sinh học trên 5
triệu đồng/năm), điều này cho thấy chi phí
sinh học càng cao thì số hộ có thu nhập trên
100 triệu đồng/năm ít hơn.
Bảng 7: Thu nhập bình quân của hộ TDNT theo
trình độ sinh học
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm, 2017.
Bảng 8: Thu nhập bình quân của hộ TDNT theo
trình độ tư liệu sản xuất
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm, 2017.
Xét về trình độ tư liệu sản xuất, tại bảng 8
cho thấy, mối quan hệ giữa về trình độ tư liệu
sản xuất và thu nhập của hộ TDNT cùng
chiều với nhau. Các hộ TDNT có thu nhập
bình quân dưới 50 triệu đồng đồng/năm phần
lớn thường chỉ đầu tư cho tư liệu sản xuất ở
mức từ 6 triệu đồng trở xuống chiếm 117 hộ
(35,73% đối với hộ có thu nhập dưới 30 triệu
đồng/năm, 41,12% đối với hộ có thu nhập từ
30-50 triệu đồng/năm). Ngược lại, hộ TDNT
có thu nhập từ 50 -100 triệu đồng thường có
mức đầu tư cho tư liệu sản xuất trên 6 triệu
đồng/năm, thậm chí những hộ có thu nhập
trên 150 triệu đồng/năm đã đầu tư chi phí
sinh học trên 12 triệu đồng/năm. Điều này
cho thấy rằng, muốn có năng suất lao động
cao, thu nhập cao hơn thì người TDNT phải
bỏ ra nhiều chi phí đầu tư cho tư liệu sản
xuất. Vì thế, nhóm hộ TDNT có thu nhập
thấp khó có thể vươn lên làm giàu bởi vì họ
không có đủ nguồn vốn để đầu tư, đặc biệt là
đầu tư cho công nghệ mới như khay trượt, né
gỗ theo công nghệ Nhật (thay cho dụng cụ
nuôi truyền thống). Hơn nữa, trong bối cảnh
vật giá leo thang, việc đầu tư cho TDNT đối
với những hộ gia đình nông dân nghèo là một
thách thức lớn.
Bảng 9: So sánh thu nhập bình quân của hộ
TDNT giữa hộ nghèo và hộ không nghèo
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm, 2017.
Kết quả Bảng 9 cho thấy hộ nghèo có thu
nhập khá thấp dưới 30 triệu đồng/năm là
44,19%, từ 30-50 triệu đồng/năm là 30,28%,
không có hộ nào có thu nhập trên 150 triệu
đồng/năm. Đối với hộ không nghèo thì thu
nhập cao hơn, tập trung ở mức 50-100 triệu
đồng/năm là 38,75%, từ 100-150 triệu
đồng/năm là 18,54%, hộ không nghèo thu
nhập trên 150 triệu đồng/năm là 2,2%.
Nguyên nhân là do hộ nghèo có diện tích đất
trồng dâu ít, đa số nằm trong khoảng dưới
2000m2, hơn nữa vì trồng dâu ít nên số lứa
nuôi, sản lượng kén/năm cũng ít, những hộ
nghèo vẫn còn sử dụng những dụng cụ truyền
thống (đũi, nong, né bằng tre) mất nhiều thời
gian, công sức và không đạt hiệu quả như
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
122
việc áp dụng công nghệ mới. Bên cạnh đó,
hộ không nghèo có diện tích nhiều hơn, nên
theo hiệu suất theo quy mô có hiệu quả hơn.
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh tế trong TDNT của nông hộ
Như đã phân tích ở trên, thu nhập của hộ
TDNT huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng khá
cao và tùy thuộc vào đặc trưng của từng
nhóm xã hội. Kết quả cho thấy, có sự khác
biệt giữa hai nhóm giới nam và nữ, đối với
việc TDNT thì nữ giới chiếm ưu thế, có thu
nhập cao hơn nam giới. Về nhóm trình độ
học vấn, chủ hộ TDNT có trình độ học vấn
cao hơn thì xu hướng thu nhập cao hơn,
nguyên nhân là hộ có trình độ học vấn cao
hơn sẽ dễ chấp nhận và áp dụng kỹ thuật,
công nghệ mới vào TDNT hơn. Cũng theo
kết quả Bảng 10 thì yếu tố tuổi của chủ chưa
đủ kết luận rằng yếu tố này có ảnh hưởng đến
thu nhập của hộ TDNT huyện Lâm Hà bởi vì
mối tương quan này ở mức ý nghĩa thống kê
là Sig = 0,142> 0,05.
Kết quả hồi quy tại Bảng 10 cho thấy, mô
hình hồi quy ước lượng các yếu tố ảnh hưởng
đến thu nhập của hộ TDNT có ý nghĩa về
mặt thống kê với giá trị Sig = 0,032 < 0,05.
Như vậy, thu nhập bình quân của hộ TDNT
huyện Lâm Hà tỉnh Lâm Đồng chịu tác động
bởi các yếu tố như: giới tính, trình độ học
vấn, diện tích đất trồng dâu, trình độ sinh
học, trình độ tư liệu sản xuất, giống dâu.
Trước hết, mô hình hồi quy cho thấy, biến
DT có dấu dương β = 0.075 có ý nghĩa ở
mức Sig =0.020<5% (của thống kê t). khi các
hộ TDNT tăng diện tích 1% thì thu nhập bình
quân của hộ TDNT tăng 7.5%, các hộ TDNT
có diện tích đất trồng dâu càng nhiều thì việc
đầu tư cho giống dâu mới nhiều hơn, số lứa
nuôi càng lớn, hộ đạt được mức thu nhập
càng cao, nguyên nhân phần lớn là do hiệu
quả kinh tế tăng theo quy mô. Những hộ có
quy mô diện tích trồng dâu lớn thường nuôi
nhiều lứa với số lượng mỗi lứa lớn hơn nên
tốn nhiều chi phí hơn để tiến hành sản xuất,
vì thế họ tập trung giành nhiều thời gian cho
việc TDNT. Riêng đối với các nông hộ có
diện tích trồng dâu thấp, họ nuôi được ít tằm
hơn nên ngoài công việc nuôi tằm, họ còn
làm các công việc khác để tăng thêm thu
nhập cho gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế
cho thấy, mặc dù quy mô diện tích đất trồng
dâu khác nhau, thu nhập của các hộ có diện
tích đất trồng dâu lớn thì có thu nhập cao hơn
những hộ có diện tích trồng dâu thấp hơn,
nhưng nhìn chung thì mức lợi nhuận trên mỗi
hecta đất mà hộ TDNT thu được ở mức diện
tích trên 5.000m2 ít hơn so với hộ có diện
tích ớ mức dưới 5.000m2, nguyên nhân là do
những hộ này có diện tích lớn nên việc
chuyển đổi qua giống dâu mới chưa hết diện
tích đất chưa đạt hiệu quả tối đa.
Bảng 10: Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của
hộ TDNT
Nguồn: Số liệu xử lý của nhóm
Đồng thời, kết quả ở Bảng 10 cho thấy,
trình độ tư liệu sản xuất có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến thu nhập bình quân của hộ TDNT,
biến TLSX có β =0,372 với có ý nghĩa ở mức
Sig =0.005 < 5% (của thống kê t). Khi các hộ
TDNT tăng chi phí cho tư liệu sản xuất 1%
thì thu nhập bình quân của hộ TDNT tăng
37,2%. Kết quả này có thể lý giải rằng, biến
TLSX có ảnh hưởng nhiều (đứng thứ hai sau
biến giống dâu) trong mô hình, muốn cho thu
nhập cao thì đòi hỏi hộ TDNT phải có đầu tư
cho dụng cụ nuôi theo công nghệ mới. Có
như vậy, năng suất lao động tăng lên, hiệu
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
123
quả kinh tế cho việc TDNT mang lại cao
hơn. Đối với các hộ gia đình không có khả
năng chi phí cho việc thay đổi nói trên, ít có
đầu tư vào TLSX hiện đại thì khả năng cho
hiệu suất kinh tế của TDNT sẽ thấp và thu
nhập sẽ giảm xuống. Vì vậy, hộ TDNT cần
đầu tư để nâng cao hiệu quả tính kinh tế, góp
phần tăng thêm thu nhập.
Ngoài ra, kết quả Bảng 10 còn cho thấy,
biến G (giống dâu) có ảnh hưởng nhiều nhất
với β = 0,420, có ý nghĩa thống kê ở mức Sig
=0.001 < 5%, khi việc thay đổi giống dâu
tăng lên 1% thì thu nhập bình quân của hộ
TDNT tăng lên 42%. Điều này lý giải thêm
cho việc những hộ có diện tích trên 5.000m2
lại chưa đạt hiệu quả tương xứng (do chưa
chuyển đổi qua giống dâu mới hết diện tích).
Việc chuyển đổi qua giống dâu mới càng
nhiều thì người nông dân có xác suất thu
nhập càng cao. Cho nên, giống có ý nghĩa
khá quan trọng đối với việc nâng cao thu
nhập của hộ TDNT.
Biến trình độ sinh học có β = -0,014 với
có ý nghĩa ở mức Sig =0.003 < 5% (của
thống kê t). Khi các hộ TDNT tăng chi phí
sinh học 1% thì thu nhập bình quân của hộ
TDNT giảm 1,4%. Điều này ngược với giả
thuyết ban đầu.
4. Kết luận và khuyến nghị
Nhìn chung, thu nhập của hộ TDNT ở
huyện Lâm Hà tỉnh Lâm Đồng trong năm
2017 khá cao. Các yếu tố quan trọng ảnh
hưởng nhiều nhất đến thu nhập của hộ TDNT
như giống dâu, trình độ tư liệu sản xuất,
ngoài ra yếu tố diện tích trồng dâu, trình độ
học vấn, giới tính cũng ảnh hưởng đến thu
nhập bình quân/năm của hộ TDNT. Giải
thích cho việc thu nhập cao của TDNT năm
2017 là do việc chuyển giao thành công
giống dâu mới vào sản xuất (S7-CB (giống
siêu lá), giống VA-201 (giống siêu cành)
cũng như đạt hiệu quả cao trong TDNT khi
đổi mới dụng cụ nuôi theo công nghệ mới.
Biến TDSH có mối quan hệ ngược chiều với
thu nhập của hộ TDNT, như vậy các hộ
TDNT chưa đạt hiệu quả trong việc ứng dụng
công nghệ sinh học. Phát hiện này không chỉ
có sự thống nhất với các nghiên cứu trước đó
mà còn bổ sung thêm các yếu tố ảnh hưởng
đến thu nhập của hộ TDNT. Điều này cho
thấy, những phát hiện của nghiên cứu cung
cấp thêm bằng chứng thuyết phục về các yếu
tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ TDNT
huyện Lâm hà tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
Đồng thời, qua phân tích kết quả khảo sát,
nghiên cứu đã cho thấy rằng, hộ TDNT vẫn
chưa thật sự chuyển đổi hết qua giống dâu
mới (thể hiện nhiều ở những hộ có diện tích
lớn), cũng như sử dụng dụng cụ công nghệ
mới (thể hiện nhiều ở những hộ có diện tích
nhỏ) làm cho việc TDNT chưa đạt hiệu quả
so với tiềm năng. Trong điều kiện năm 2017,
giá kén luôn ổn định ở mức cao (trung bình
trên 150.000đ/kg), điều này thúc đẩy hộ nông
dân chuyển đổi từ cây trồng khác qua TDNT,
như vậy việc ồ ạt chuyển đổi này sẽ ảnh
hưởng đế thu nhập của hộ TDNT trong tương
lai. Do đó, để nâng cao thu nhập, cải thiện
đời sống hộ TDNT ở huyện Lâm Hà tỉnh
Lâm Đồng, nghiên cứu đề xuất một số giải
pháp sau đây:
Hộ cần phải tính toán hợp lý trong việc
chi tiêu đầu vào cho TDNT. Đồng thời, các
nhà quản lý nông nghiệp và các cơ quan ban
ngành có liên quan định hướng và tư vấn cho
hộ TDNT về cách tính toán đầu tư, chuyển
đổi giống dâu mới, công nghệ sản xuất sao
cho có hiệu quả cao nhất.
Hộ TDNT cần phải tích cực cập nhật các
kiến thức cũng như ứng dụng các phương
pháp sản xuất mới để có thể giúp đạt hiệu
quả chi phí sản xuất đầu vào, ứng dụng tốt
công nghệ sinh học, góp phần tăng năng suất
và nâng cao sản lượng trong hoạt động sản
xuất.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
124
Hộ nên thường xuyên tham gia vào các
hoạt động của Hội khuyến nông để có sự tư
vấn và hướng dẫn các kỹ thuật nuôi, quy
trình chăm sóc cũng như cách chọn giống
dâu, giống tằm tốt, sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật đúng thời điểm để tránh những rủi ro
dịch bệnh cũng làm chết tằm hàng loạt.
Chính quyền địa phương tạo điều kiện
hơn nữa đối với các Nhà phân phối, đại lý
các cấp tổ chức các buổi giới thiệu về giống,
thuốc mới nhằm giúp cho các hộ có thêm
nhiều sự lựa chọn. Mặt khác, giúp hộ tăng
thêm kiến thức về hoạt động TDNT.
Chính quyền địa phương, các tổ chức
Đoàn – Hội là cầu nối đối với sự liên kết chặt
chẽ giữa 4 nhà “nhà nước, nhà kinh doanh,
nhà khoa học và nhà nông” nhằm giúp giảm
chi phí đầu vào cho TDNT và quy hoạch tốt
việc TDNT, góp phần ổn định giá kén để cho
bà con nông dân được an tâm sản xuất và làm
giàu từ nghề TDNT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
B.G. Tabachnick & L.S. Fidell (1991), “Using multivariate statistics (3rd ed.)”. New York:
Harper Collins.
C. Roy, et al (2015), "An analytical study on determinants of income generation in rural
sericulture sector of West Bengal", Indian Journal of Economics and Development, 3
(2): 168-180.
Đinh Phi Hổ và Phạm Ngọc Dưỡng (2011), “Một số giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của
người trồng cà phê ở khu vực Tây Nguyên”, Tạp chí phát triển kinh tế, Số 250, tháng
8, năm 2011, tr 02-06.
G.S. Geetha, R.Indira, (2011), “Silkworm Rearing by Rural Women in Karnataka: A Path to
Empowerment”, Indian Journal of Gender Studies, 18 (1): 89–102.
H.T. Oshima (1993), Strategic Processes in Monsoon Asia's Economic Development, The
Johns Hopkings University Press, Baltimore, 12-285.
Lê Hồng Vân, Nguyễn Tất Thắng và Trần Hữu Cường (2017), “Thực trạng và giải pháp
phát triển sản xuất dâu tằm tỉnh Thái Bình”, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam,
15 (6): 834-843.
M. O. Ashiru (2002), “The effect of mulberry varieties on the performance of Chul Thai-5
silkworm race”, Discovery and Innovation, 14: 77–83.
Phạm Văn Vượng (1995), “Nghiên cứu một số giải pháp góp phần phát triển ngành trồng
dâu nuôi tằm trong hệ thống nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng”, Luận án phó
tiến sỹ khoa học nông nghiệp, Trường đại học nông nghiệp 1 – Hà nội.
R. Barker (2002), Giáo trình kinh tế nông thôn, Đại học Kinh tế TP. HCM.
Trương Quốc Hưng (2006), “Nghiên cứu phát triển trồng dâu nuôi tằm trên địa bàn tỉnh Hà.
S. Lakshmanan (2007), "Yield gaps in mulberry sericulture in Karnataka: An econometric
analysis", Ind. Jn. of Agri. Econ. 62 (4) 623-636.
S. Mubin, et al (2013), "Impact evaluation of development projects: A case study of project
“Development of sericulture activities in Punjab", Pakistan Journal of Science, 65 (2):
263-268.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
125
S. S. Park (1992), Tăng trưởng và phát triển, Viện Nghiên cứu quản li ́kinh tế Trung ương,
Trung tâm thông tin – tư liệu, Hà Nội.
T. Yamano and Y. Kijima (2010), “Market Access, Soil Fertility, and Income in East
Africa”, Paper 10 GRIPS Discussion, Paper 10-22.
V.V. Adolkar, S.K. Raina and D.M. Kimbu (2007), “Evaluation of various mulberry
Morus spp. (Moraceae) cultivars for the rearing of the bivoltine hybrid race Shaanshi
BV-333 of the silkworm Bombyx mori (Lepidoptera: Bombycidae)”, International
Journal of Tropical Insect Science, 27 (1): 6–14.
W.A. Lewis (1954), "Economic Development with Unlimited Supplies of Labour", The
manchester school, 22 (2): 139-191.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 46476_147230_1_pb_4933_2222257.pdf