Tài liệu Phân loại đau đầu nguyên phát tại phòng khám thần kinh Bệnh viện Nguyễn Trãi: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 179
PHÂN LOẠI ĐAU ĐẦU NGUYÊN PHÁT
TẠI PHÒNG KHÁM THẦN KINH BỆNH VIỆN NGUYỄN TRÃI
Lý Thanh Hùng*, Lê Văn Tuấn**
TÓM TẮT
Mở đầu: Đau đầu là một trong những vấn đề thường gặp trong lĩnh vực thần kinh và dễ dàng nhận biết bởi
người bệnh lẫn bác sĩ điều trị. Trong hầu hết các trường hợp, đau đầu thường không nguy hiểm, nhưng một số ít
trường hợp cần sự đánh giá và chú ý của bác sĩ điều trị.
Sự thống nhất về lâm sàng ngày càng có nhiều tranh cãi do mức độ phức tạp của bệnh tật và các phác đồ điều
trị không đạt được hiệu quả như mong muốn. Việc thiết lập một sơ đồ toàn diện và có tính thực hành cho các rối
loạn đau đầu là cần thiết.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ các loại đau đầu nguyên phát theo ICHD-3, Mô tả đặc điểm dân số, lâm sàng và các
mối liên quan với các loại đau đầu nguyên phát
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên người bệnh đến khá...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 332 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân loại đau đầu nguyên phát tại phòng khám thần kinh Bệnh viện Nguyễn Trãi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 179
PHÂN LOẠI ĐAU ĐẦU NGUYÊN PHÁT
TẠI PHÒNG KHÁM THẦN KINH BỆNH VIỆN NGUYỄN TRÃI
Lý Thanh Hùng*, Lê Văn Tuấn**
TÓM TẮT
Mở đầu: Đau đầu là một trong những vấn đề thường gặp trong lĩnh vực thần kinh và dễ dàng nhận biết bởi
người bệnh lẫn bác sĩ điều trị. Trong hầu hết các trường hợp, đau đầu thường không nguy hiểm, nhưng một số ít
trường hợp cần sự đánh giá và chú ý của bác sĩ điều trị.
Sự thống nhất về lâm sàng ngày càng có nhiều tranh cãi do mức độ phức tạp của bệnh tật và các phác đồ điều
trị không đạt được hiệu quả như mong muốn. Việc thiết lập một sơ đồ toàn diện và có tính thực hành cho các rối
loạn đau đầu là cần thiết.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ các loại đau đầu nguyên phát theo ICHD-3, Mô tả đặc điểm dân số, lâm sàng và các
mối liên quan với các loại đau đầu nguyên phát
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên người bệnh đến khám
tại phòng khám Thần Kinh bệnh viện Nguyễn Trãi từ tháng 02/2017 đến tháng 05/2017.
Kết quả: Nghiên cứu khảo sát 356 người bệnh, nữ giới chiếm 79,2%. Tỷ lệ đau đầu migraine là 17,4%, đau
đầu dạng căng thằng là 82,6%. Tuổi khởi phát đau đầu trung bình là 31,97 tuổi, thời gian mỗi cơn đau trung
bình là 27,61 giờ. Đau đầu migraine có mối liên quan với tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình hình kinh tế.
Đau đầu dạng căng thẳng có mối liên quan với tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, trình độ học vấn.
Kết luận: Giáo dục bệnh nhân ghi lại một nhật ký đau đầu giúp theo dõi diễn tiến bệnh và giúp cho chẩn
đoán dễ dàng hơn. Khuyến cáo bệnh nhân không nên lơ là với triệu chứng đau đầu cũng như không nên uống
thuốc điều trị triệu chứng đau đầu mà không có sự chỉ định của các thầy thuốc chuyên khoa. Các nghiên cứu
chuyên sâu trên cộng đồng cần được thực hiện.
Từ khóa: Đau đầu nguyên phát, ICHD – 3, Migraine, đau đầu dạng căng thẳng
ABSTRACT
CLASSIFICATION OF PRIMARY HEADACHE AT NEUROLOGICAL OUTPATIENT CLINIC IN
NGUYEN TRAI HOSPITAL
Ly Thanh Hung, Le Van Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 173 - 181
Introduction: Headache is one of the most common health problems in the neurological field, which can be
recognized by the patient and physician. In general, headache is not a dangerous problem, but doctor’s attention is
needed to further access for treatment.
The clinical features of headache are controversial due to the complexity of health problems and the effects of
treatment, need further study in the future.
Objectives: To determine the prevalence of primary headache based on ICHD-3 scale. To describe the
characteristics of population, clinical features and relevant factors.
Method: This cross-sectional study conducted in a public hospital in Vietnam among adult patients coming
to the hospital during the period of February to May, 2017.
Results: There are 356 patients were surveyed during the study’s period. About 79.2% patients were female.
* Bệnh viện Nguyễn Trãi ** Bộ môn Thần kinh - Đại học Y Dươc thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: BS. Lý Thanh Hùng ĐT: 0938 170031 Email: hunglydr@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 180
The prevalence of migraine was 17.4%, tension headache was 82.6%. The age of onset of headache was 31.97, the
duration of headache was 27.61 hours. Migraine headache is associated with age, occupation, education and
economic level. Tension type headache is associated with marital status, occupation and education.
Conclusion: Health care providers should engaged patients and help them to check their health problems via
diary headache. Self-medication of patients without prescription should be checked by doctors and physicians. The
further studies are needed.
Key word: Primary headache, ICHD – 3, migraine, tension type headache
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau đầu là một trong những vấn đề thường
gặp trong lĩnh vực thần kinh và dễ dàng nhận biết
bởi người bệnh lẫn bác sĩ điều trị. Trong những
năm gần đây, đau đầu càng ngày càng có nhiều
cách phân loại dựa trên mức độ phức tạp của nó,
nhất là trong đau đầu mạn tính(2,18). Đau đầu là
một triệu chứng cực kỳ phổ biến với khả năng
mắc phải trong vòng một năm là 90% và trong
toàn bộ cuộc đời là 99%(4). Các nghiên cứu trong
và ngoài nước cho thấy rằng tỷ lệ đau đầu các loại
xảy ra trong suốt cuộc đời mỗi người là từ 66%
đến 78,83%(10,15). Theo một nghiên cứu ghi nhận
được, có tới trên 80% số người đau đầu không đi
đến khám chữa bệnh tại bất kỳ cơ sở y tế nào(10).
Trong hầu hết các trường hợp, đau đầu
thường không nguy hiểm, nhưng một số ít
trường hợp cần sự đánh giá và chú ý của bác sĩ
điều trị. Đau đầu có thể là một triệu chứng (chủ
quan) có thể không có nguyên nhân hoặc do một
số nguyên nhân thường được bỏ qua. Một số
nguyên nhân phổ biến được xác định là: mệt
mỏi, làm việc quá sức và thiếu ngủ, căng thẳng
và lo lắng, sử dụng các loại thuốc và hành vi
sống cá nhân.
Việc thiết lập một sơ đồ toàn diện và có tính
thực hành cho các rối loạn đau đầu là cần thiết,
tuy nhiên, việc xây dựng vấn đề này là rất khó
khăn. Sự thống nhất về lâm sàng ngày càng có
nhiều tranh cãi do mức độ phức tạp của bệnh tật
và các phác đồ điều trị không đạt được hiệu quả
như mong muốn. Ngoài ra, các phân loại về đau
đầu ngày càng chi tiết và phức tạp nhưng không
có một sự đồng thuận nhất định làm cho việc
nhận biết đau đầu trên lâm sàng ngày càng khó
khăn hơn. Cho đến nay đau đầu vẫn được chẩn
đoán theo hệ thống các dữ liệu lâm sàng chủ
quan, y học vẫn chưa có một xét nghiệm đặc
hiệu nào cho chẩn đoán đau đầu(7,17,18).
Việc nhận biết đau đầu nguyên phát hay thứ
phát thông qua một thang đo hay công cụ đo
lường cụ thể là một vấn đề rất quan trọng và có
ý nghĩa rất lớn trong việc điều trị. Trong những
năm gần đây nhất là từ khi có bảng phân loại
ICHD-I-1998 (The International Classification of
Headache Disorders) và bảng phân loại ICHD-
II-2004, khái niệm đau đầu nguyên phát có thay
đổi, thay vào đó nhiều chuyên gia nhấn mạnh
vai trò của các triệu chứng cảnh báo trước hay
triệu chứng sớm.
Theo Bảng Phân loại Quốc tế Đau Đầu phiên
bản 3-Beta năm 2013 (ICHD III-The International
Classification of Headache Disorders, 3rd edition
(Beta version)(5) đã có những cập nhật thay đổi
hơn so với các phiên bản trước đó và tương đối
toàn diện hơn so với các bảng phân loại khác.
Tuy nhiên, thực tế trên thực hành lâm sàng các y,
bác sĩ sử dụng nhiều bảng phân loại đau đầu
khác nhau dẫn đến chẩn đoán đôi khi còn chưa
thống nhất. Ngoài ra, hiện nay vẫn chưa có công
trình nghiên cứu nào về phân loại đau đầu
nguyên phát tại Việt Nam theo bảng phân loại
quốc tế đau đầu phiên bản III được báo cáo.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện
tại Phòng khám thần kinh Bệnh Viện Nguyễn
Trãi từ tháng 02/2017 đến tháng 05/2017.
Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh đến khám tại phòng khám Thần
Kinh bệnh viện Nguyễn Trãi từ tháng 02/2017
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 181
đến tháng 05/2017
Thu thập dữ liệu
Tiêu chuẩn chọn vào
Người bệnh tỉnh táo, hợp tác tốt và đồng ý
tham gia nghiên cứu
Người bệnh có than phiền đau đầu
Tiêu chuẩn loại trừ
Người bệnh nhỏ hơn 18 tuổi
Người bệnh không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán
theo Bảng Phân loại Quốc tế Đau Đầu phiên bản
3-beta năm 2013
Bệnh nhân đau đầu thứ phát (viêm xoang, chấn
thương sọ não, u não, tai biến mạch máu não,.)
dựa vào kết quả cận lâm sàng và hình ảnh học.
Phân tích dữ liệu
Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.0.
Xử lý số liệu bằng phần mềm Stata 13.0
KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu tại phòng khám
chuyên khoa thần kinh của bệnh viện Nguyễn
Trãi từ tháng 02 đến tháng 05 năm 2017, chúng
tôi thu thập được 356 mẫu phù hợp với tiêu chí
chọn mẫu.
Trong mẫu nghiên cứu, tỷ lệ nữ giới cao hơn
nam giới với 79,2% và 20,8%. Người bệnh phân
bố khá đồng đều giữa các nhóm tuổi,tuy nhiên
nhóm tuổi <30 tuổi chiếm tỉ lệ 9,8%. Có 77% mẫu
nghiên cứu “Có gia đình”. Dân tộc Kinh chiếm
đa số với 96,4%. Có 31,5% người bệnh là “Lao
động phổ thông”, các ngành nghề khác chiếm tỷ
lệ tương tự nhau.
Bảng 1: Đặc tính mẫu nghiên cứu (n= 356)
Biến số Tần số Tỉ lệ (%)
Giới tính
Nam 74 20,8
Nữ 282 79,2
Nhóm
tuổi
Dưới 30 tuổi 35 9,8
Từ 30 đến 39 tuổi 85 23,9
Từ 40 đến 49 tuổi 99 27,8
Từ 50 tuổi trở lên 137 38,5
Tình trạng hôn
nhân
Độc thân 69 19,4
Có gia đình 274 77
Khác 13 3,6
Dân tộc Kinh 343 96,4
Biến số Tần số Tỉ lệ (%)
Khác 13 3,6
Nghề nghiệp
Lao động phổ thông 112 31,5
Công chức, viên chức 66 18,5
Tiểu thương, tiểu chủ 19 5,3
Tự do 60 16,9
Nội trợ 54 15,2
Khác 45 12,6
Bảng 2: Đặc tính mẫu nghiên cứu (n= 356) (tiếp theo)
Biến số Tần số Tỉ lệ (%)
Trình độ học vấn
Tiểu học 30 8,4
Trung học cơ sở 105 29,5
Trung học phổ thông 143 40,2
Trung cấp, cao đẳng 5 1,4
Đại học 73 20,5
Nơi cư trú
Thành thị 202 56,7
Nông thôn 154 43,3
Tình hình kinh tế
Thu nhập cao 11 3,1
Thu nhập trung bình 168 47,2
Thu nhập thấp 165 46,4
Không có thu nhập 12 3,3
Có 40,2% mẫu nghiên cứu có trình độ học
vấn là “Trung học phổ thông”, trình độ “Đại
học” chiếm 20,5%. Có 56,7% người bệnh đến từ
“Thành thị”. “Thu nhập trung bình” và “Thu
nhập thấp” chiếm đa số mẫu nghiên cứu với
47,2% và 46,4%.
Bảng 3: Tỉ lệ các loại đau đầu (n= 356)
Các loại đau đầu Tần số Tỉ lệ (%)
Đau đầu 356 100
Đau đầu migraine 62 17,4
Loại đau đầu
migraine (n=
62)
Migraine tiền triệu điển hình 6 9,7
Migraine mạn tính 4 6,5
Migraine không tiền triệu 52 83,8
Đau đầu dạng căng thẳng 294 82,6
Loại đau đầu
dạng căng
thẳng (n= 294)
Căng thẳng từng cơn
không thường xuyên
91 31,0
Căng thẳng từng cơn
thường xuyên
165 56,1
Căng thẳng mạn tính 38 12,9
Đau đầu migraine chiếm 17,4% mẫu nghiên
cứu. Trong đó, chủ yếu là migraine không tiền triệu
chiếm 83,8% các trường hợp đau đầu migraine.
Đau đầu dạng căng thẳng chiểm 82,6% mẫu
nghiên cứu, trong đó chủ yếu là “căng thẳng
từng cơn thường xuyên” với 56,1%. Căng thẳng
từng cơn không thường xuyên chiếm 31,0% và
căng thẳng mạn tính chiếm 12,9%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 182
Tuổi trung bình khởi phát đau đầu là 31,97 ±
7,78 tuổi. Cao nhất là 50 tuổi và thấp nhất là 15 tuổi.
Thời gian mỗi cơn đau đầu kéo dài trung
bình 27,61 ± 6,86 giờ, cao nhất là 3ngày và thấp
nhất là 30 phút.
Bảng 4: Tuổi khởi phát đau đầu, thời gian đau đầu
(n= 356)
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Cao
nhất
Thấp
nhất
Tuổi khởi phát
đau đầu
31,97 7,78 50 15
Thời gian mỗi
cơn đau đầu
17,61 6,86 30 3
Bảng 5: Migraine và đặc tính của đối tượng nghiên cứu (n= 356)
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Migraine
p
PR
(KTC 95%) Có (%) Không (%)
Giới tính
Nam 10 (13,5) 64 (86,5) 0,320 0,73 (0,39-1,37)
Nữ 52 (18,4) 230 (81,6) 1
Nhóm tuổi
Dưới 30 tuổi 10 (28,6) 25 (71,4) 1
Từ 30 đến 39 tuổi 22 (25,9) 63 (74,1) 0,761 0,91 (0,48-1,71)
Từ 40 đến 49 tuổi 16 (16,2) 83 (83,8) 0,106 0,56 (0,28-1,13)
Từ 50 tuổi trở lên 14 (10,2) 123 (89,8) 0,005 0,36 (0,17-0,74)
Tình trạng hôn nhân
Độc thân 11 (15,9) 58 (84,1) 0,467 2,07 (0,29-14,75)
Có gia đình 50 (18,3) 224 (81,7) 0,373 2,37 (0,35-15,90)
Khác 1 (7,7) 12 (92,3) * 1
Dân tộc
Kinh 59 (17,2) 284 (82,8) 0,584 0,75 (0,27-2,07)
Khác 3 (23,1) 10 (76,9) * 1
Nghề nghiệp
Lao động phổ thông 14 (12,5) 98 (87,5) 0,544 1,35 (0,51-3,56)
Công chức, viên chức 21 (31,8) 45 (68,2) 0,008 3,44 (1,39-8,52)
Tiểu thương, tiểu chủ 4 (21,1) 15 (78,9) 0,183 2,27 (0,68-7,61)
Tự do 11 (18,3) 49 (81,7) 0,177 1,98 (0,73-5,34)
Khác 7 (15,6) 38 (84,4) 0,346 1,68 (0,57-4,94)
Nội trợ 5 (9,3) 49 (90,7) 1
Phép kiểm 2 *Phép kiểm Fisher
Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa đau đầu migraine và các biến số
giới tính, tình trạng hôn nhân và dân tộc. Có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ đau đầu
migraine theo tuổi và nghề nghiệp.
Bảng 6: Migraine và đặc tính của đối tượng nghiên cứu (n= 356) (tiếp theo)
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Migraine
P
PR
(KTC 95%) Có (%) Không (%)
Trình độ học vấn
Tiểu học 1 (3,3) 29 (96,7) * 1
Trung học cơ sở 11 (10,5) 94 (89,5) 0,264 3,14 (0,42-23,44)
Trung học phổ thông 27 (18,9) 116 (81,1) 0,083 5,66 (0,80-40,19)
Trung cấp, cao đẳng 2 (40,0) 3 (60,0) 0,027 12,00 (1,32-109,28)
Đại học 21 (28,8) 52 (71,2) 0,031 8,63 (1,21-61,47)
Nơi cư trú
Thành thị 47 (23,3) 155 (76,7) 0,002 2,39 (1,39-4,11)
Nông thôn 15 (9,7) 139 (90,3) 1
Tình hình kinh tế
Thu nhập cao 4 (36,4) 7 (63,6) 0,004 3,57 (1,51-9,33)
Thu nhập trung bình 38 (22,6) 130 (77,4) 0,002 2,33 (1,35-4,02)
Không có thu nhập 4 (33,3) 8 (66,7) 0,009 3,44 (1,36-8,69)
Thu nhập thấp 16 (9,7) 149 (90,3) * 1
Phép kiểm 2 *Phép kiểm Fisher
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa đau
đầu migraine và trình độ học vấn, nơi cư trú và
tình hình kinh tế.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 183
Bảng 7: Đau đầu dạng căng thẳng và đặc tính mẫu nghiên cứu (n= 356)
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Đau đầu căng thẳng
p
PR
(KTC 95%) Có (%) Không (%)
Giới tính
Nam 65 (87,8) 9 (12,2) 0,181 1,08 (0,98-1,20)
Nữ 229 (81,2) 53 (18,8) 1
Nhóm tuổi
Dưới 30 tuổi 25 (71,4) 10 (28,6) 1
Từ 30 đến 39 tuổi 63 (74,1) 22 (25,9) 0,767 1,04 (0,81-1,33)
Từ 40 đến 49 tuổi 85 (85,9) 14 (14,1) 0,108 1,20 (0,96-1,50)
Từ 50 tuổi trở lên 121 (88,3) 16 (11,7) 0,057 1,24 (0,99-1,54)
Tình trạng hôn
nhân
Độc thân 58 (84,1) 11 (15,9) * 1
Có gia đình 223 (81,4) 51 (18,6) 0,590 0,97 (0,86-1,09)
Khác 13 (100) 0 (0) <0,001 1,19 (1,07-1,32)
Dân tộc
Kinh 284 (82,8) 59 (17,2) 0,583 1,08 (0,80-1,46)
Khác 10 (76,9) 3 (23,1) 1
Nghề nghiệp Lao động phổ thông 101 (90,2) 11 (9,8) 0,802 1,01 (0,91-1,14)
Công chức, viên chức 45 (68,2) 21 (31,8) 0,006 0,77 (0,63-0,93)
Tiểu thương, tiểu chủ 15 (79,0) 4 (21,0) 0,354 0,89 (0,69-1,14)
Tự do 48 (80,0) 12 (20,0) 0,356 0,93 (0,78-1,09)
Khác 37 (82,2) 8 (17,8) 0,252 0,90 (0,76-1,07)
Nội trợ 48 (88,9) 6 (11,1) 1
Phép kiểm 2 *Phép kiểm Fisher
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa
đau đầu dạng căng thẳng với giới tính, nhóm
tuổi và dân tộc. Có mối liên quan giữa đau đầu
dạng căng thẳng theo tình trạng hôn nhân và
nghề nghiệp
Bảng 8: Đau đầu dạng căng thẳng và đặc tính của đối tượng nghiên cứu (n= 356) (tiếp theo)
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Đau đầu căng thẳng
P
PR
(KTC 95%) Có (%) Không (%)
Trình độ học vấn
Tiểu học 27 (90,0) 3 (10,0) * 1
Trung học cơ sở 94 (89,5) 11 (10,5) 0,7939 0,99 (0,87-1,14)
Trung học phổ thông 118 (82,5) 25 (17,5) 0,229 0,92 (0,80-1,06)
Trung cấp, cao đẳng 3 (60,0) 2 (40,0) 0,274 0,67 (0,32-1,38)
Đại học 52 (71,2) 21 (28,8) 0,015 0,79 (0,66-0,96)
Nơi cư trú
Thành thị 154 (76,2) 48 (23,8) <0,001 0,84 (0,76-0,92)
Nông thôn 140 (90,9) 14 (9,1) 1
Tình hình kinh tế
Thu nhập cao 7 (63,6) 4 (36,4) 0,879 0,95 (0,52-1,74)
Thu nhập trung bình 131 (78,0) 37 (22,0) 0,452 1,17 (0,78-1,76)
Thu nhập thấp 148 (89,7) 17 (10,3) 0,150 1,35 (0,90-2,02)
Không có thu nhập 8 (66,7) 4 (33,3) 1
Phép kiểm 2 *Phép kiểm Fisher
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa
đau đầu dạng căng thẳng và tình hình kinh tế.
Trình độ học vấn và nơi cư trú có ảnh hưởng
đến tỷ lệ đau đầu dạng căng thẳng.
BÀN LUẬN
Tỷ lệ các loại đau đầu
Kết quả nghiên cứu ghi nhận được có 100%
mẫu nghiên cứu có lưu hành đau đầu nguyên.
Kết quả này cao hơn so với kết quả của một
nghiên cứu hệ thống dựa trên y văn do Stovner
L.J. và Andree C. tiến hành năm 2010, khi ghi
nhận có hơn 50% người trưởng thành có đau
đầu trong vòng 1 năm qua, tỷ lệ đau đầu chung
là 60%(15). Nghiên cứu của Oshinaike O. và cộng
sự (2014), ghi nhận tỷ lệ đau đầu chung ở nhân
viên y tế ở một trung tâm sức khỏe ở Lagos,
Nigeria là 39,3%(11), tỷ lệ này là thấp hơn so với
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 184
nghiên cứu của chúng tôi. Nghiên cứu của
Pedraza M.I. và cộng sự tiến hành năm 2015 ghi
nhận được 71,8% các trường hợp đau đầu
nguyên phát của bệnh nhân đến khám tại một
phòng khám chuyên khoa đau đầu tại Tây Ban
Nha(12). Có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ đau đầu
giữa nghiên cứu của chúng tôi so với tác giả
Oshinaike O. do đối tượng nghiên cứu là khác
nhau, mẫu nghiên cứu của chúng tôi là người
bệnh tại một phòng khám thần kinh, còn đối
tượng trong nghiên cứu của tác giả Oshinaike O.
là nhân viên y tế. Có thể thấy rằng, tỷ lệ đau đầu
là khác nhau theo các đặc tính mẫu khác nhau.
Bên cạnh đó, tỷ lệ đau đầu trong nghiên cứu của
chúng tôi cao hơn so với hai tác giả còn lại. Tác
giả Stovner L.J. và Andree C. tiến hành trên cộng
đồng dựa trên y văn, tỷ lệ là thấp hơn so với
nghiên cứu của chúng tôi, tuy nhiên kết quả
nghiên cứu có tính đại diện cao do số lượng mẫu
là lớn, và được kiểm soát nghiêm ngặt theo quy
trình của một nghiên cứu hệ thống dựa trên y
văn. Mặc dù có sự tương đồng giữa nghiên cứu
của chúng tôi và nghiên cứu của tác giả Pedraza
M.I. và cộng sự về đối tượng là người bệnh đăng
ký khám bệnh tại một phòng khám chuyên khoa
thần kinh về đau đầu, nhưng tỷ lệ đau đầu ghi
nhận được là cao hơn, 100% so với 71,8%. Sự
khác biệt có thể do việc sử dụng thang đo ICHD-
II trong nghiên cứu của tác giả Pedraza M.I.,
trong khi đó chúng tôi sử dụng ICHD-III. Tuy
nhiên, có thể thấy rằng tỷ lệ đau đầu ghi nhận
được là rất cao và đang có xu thế ngày càng tăng,
cả ngay trong cộng đồng.
Đau đầu migraine trong nghiên cứu của
chúng tôi ghi nhận được là 17,4%. Kết quả này
tương đương so với một số nghiên cứu trong và
ngoài nước khi tỷ lệ này dao động từ 12,8%-
18,9%(6,8,11,13,14). Tuy nhiên, so với nghiên cứu của
Al Jumah M.A và cộng sự (2013) tỷ lệ migraine là
32%(1), so với tác giả Pedraza M.I. và cộng sự thì
tỷ lệ này là khá cao với 53%(12). Tại Việt Nam,
nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy Lan của người
bệnh tại phòng khám Thần Kinh, bệnh viện Đại
học Y dược TP.HCM ghi nhận được 36,5% các
trường hợp đau đầu migraine(9). Tùy vào từng
đối tượng nghiên cứu mà tỷ lệ đau đầu migraine
là khác nhau. Mỗi đối tượng nghiên cứu có
những đặc tính về dân số-xã hội khác nhau,
ngoài ra văn hóa, hành vi, lối sống cũng như môi
trường sống khác nhau của các đối tượng cũng
có ảnh hưởng đến tỷ lệ này. Cần có nhiều nghiên
cứu về các đối tượng khác nhau để hiểu rõ hơn
về vấn đề này.
Đối với đau đầu dạng căng thẳng, nghiên
cứu ghi nhận được tỷ lệ rất cao với 82,6% mẫu
nghiên cứu báo cáo là có tình trạng này. Tỷ lệ
này cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Sedlic
M. và cộng sự (2016) trên đối tượng là học sinh
với 38,3%(13). Tỷ lệ này là cao hơn so với nghiên
cứu của tác giả Pedraza M.I. và cộng sự (2015)(12)
và tác giả Nguyễn Thị Thúy Lan (2010)(9) với tỷ lệ
đau đầu căng thẳng tương ứng là 10,5% và
44,6%. Tỷ lệ đau đầu căng thẳng có sự thay đổi
theo từng đối tượng. Có xu hướng tăng lên theo
thời gian và độ tuổi của đối tượng nghiên cứu.
Đau đầu Migraine và các yếu tố liên quan
Một số nghiên cứu trên thế giới ghi nhận có
sự khác biệt về tỷ lệ đau đầu migraine giữa nam
giới và nữ giới, trong đó tỷ lệ đau đầu ở nữ giới
là cao hơn so với nam giới. Nghiên cứu do Buse
C.D. và cộng sự tiến hành năm 2013 ghi nhận,
nữ giới có tỷ lệ đau đầu migraine cao từ 1,48 đến
3,25 lần so với nam giới. Nghiên cứu thực hiện
dựa trên hệ thống dữ liệu của trung tâm Nghiên
cứu và phòng ngừa Migraine Hoa Kỳ từ năm
2004, tất cả các đặc tính mẫu nghiên cứu cũng
như các loại đau đầu được ghi nhận một cách
chính xác(3). Estrogen là một yếu tố liên quan đến
đau đầu migraine, nghiên cứu cho thấy cường
độ và tần suất đau đầu ở phụ nữ gia tăng sau
tuổi dậy thì và giảm sau thời kỳ mãn kinh. Đau
đầu Migraine xảy ra tương đương nhau ở nam
và nữ trước tuổi dậy thì, nhưng sau tuổi này thì
tần suất ở nữ cao hơn so với nam giới. Nghiên
cứu của chúng tôi không ghi nhận được sự khác
biệt về tỷ lệ đau đầu giữa nam giới và nữ giới.
Kết quả này có thể là do sự chênh lệch về tỷ lệ
nam và nữ trong nghiên cứu, khác với các
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 185
nghiên cứu trước đó có sự chênh lệch nam và nữ
không đáng kể.
Tỷ lệ đau đầu migraine tăng dần theo độ
tuổi, cao nhất là độ tuổi từ 30 đến 39 tuổi(16).
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thúy Lan
ghi nhận tỷ lệ đau đầu mạn tính của những
người ở độ tuổi trên 50 tuổi là 28,1%, thấp hơn là
nhóm 30 đến 40 tuổi với 24,1%(9). Trong nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ migraine ở những người
từ 50 tuổi trở lên bằng 0,37 lần so với những
người dưới 30 tuổi. Sự khác biệt này có thể do
đặc điểm của đối tượng tại nơi thực hiện nghiên
cứu. Hầu hết ở những người trên độ tuổi 50
thường chú ý đến các vấn đề sức khỏe khác (các
bệnh thường gặp ở độ tuổi này như tăng huyết
áp, đái tháo đường, các bệnh về cơ xương
khớp.v.v.) so với triệu chứng đau đầu, thường
bỏ qua triệu chứng này vì triệu chứng này là phổ
biến, do đó người bệnh hạn chế đến khám tại
khoa Thần kinh. Trong khi đó, những người
dưới độ tuổi 30, vấn đề đau đầu là ít xảy ra, điều
đó dẫn đến việc chú ý đi khám bệnh khi tình
trạng đau đầu kéo dài. Ngoài ra, kỹ thuật chọn
mẫu thuận tiện tại thời điểm nghiên cứu có thể
làm gia tăng cơ hội cho sai lệch trong nghiên
cứu. Bên cạnh đó, tiêu chuẩn chọn bệnh cũng
như các yếu tố liên quan đến đặc điểm kinh tế và
bảo hiểm y tế của người dân cũng là những
nguyên nhân có thể đưa đến sự khác biệt này.
Nghiên cứu không ghi nhận được có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ đau đầu
migraine với tình trạng hôn nhân và dân tộc.
Điều này là hoàn toàn phù hợp khi đau đầu
migraine là một dạng tổn thương bệnh lý, các cá
nhân đều có cơ hội mắc bệnh là như nhau. Yếu
tố tình trạng hôn nhân và dân tộc có thể không
trực tiếp tác động gia tăng tỷ lệ đau đầu
migraine mà có tác động gián tiếp vào một yếu
tố khác để làm tăng tình trạng này. Trong nghiên
cứu, không ghi nhận được mối liên quan về mặt
thống kê giữa các yếu tố này với tình trạng đau
đầu migraine của đối tượng nghiên cứu.
Tất cả các ngành nghề đều có tỷ lệ đau đầu
migraine cao hơn so với nhóm nội trợ, theo kết
quả nghiên cứu. Tuy nhiên, chỉ ghi nhận được
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm
người là công chức, viên chức so với nhóm nội
trợ. Với những người làm công chức, viên chức,
áp lực công việc về giấy tờ, quy định, chính sách
và các thủ tục hành chính khác là rất lớn. Tình
trạng căng thẳng, áp lực kéo dài là yếu tố thúc
đẩy cho các vấn đề liên quan đến đau đầu, trong
đó có các vấn đề về mạch máu não. Các ngành
nghề khác nhau có những đặc thù công việc
khác nhau, do đó khả năng xảy ra tình trạng đau
đầu migraine là khác nhau, tăng hay giảm tùy
thuộc nhiều đặc điểm khác của đối tượng nghiên
cứu như thói quen, hành vi, lối sống, Nghiên
cứu chỉ dừng lại ở việc ghi nhận ngành nghề của
đối tượng, chưa đi sâu hơn vào các yếu tố thúc
đẩy đau đầu theo từng ngành nghề. Cần thực
hiện các nghiên cứu chuyên sâu hơn về vấn đề
này trong cộng đồng.
Trình độ học vấn cũng là một trong những
nguyên nhân gây ra đau đầu migraine. Nghiên
cứu ghi nhận được ở những người có học vấn
Đại học có tỷ lệ đau đầu migraine cao gấp 8,63
lần so với những người có trình độ Tiểu học, và
sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Không
ghi nhận được sự khác biệt về mặt thống kê giữa
các nhóm còn lại. Sự khác biệt này có thể là do
những yếu tố về áp lực học tập. Ngoài ra, trình
độ học vấn khác nhau dẫn đến việc lựa chọn
nghề nghiệp cũng khác nhau. Những người có
trình độ học vấn cao thường lựa chọn những
ngành nghề sử dụng trí óc. Điều này tác động
gián tiếp lên tình trạng migraine.
Thu nhập có liên quan đến tình trạng đau
đầu migraine, theo kết quả nghiên cứu. Những
người có thu nhập cao có tỷ lệ đau đầu migraine
cao hơn so với những người thu nhập thấp. Áp
lực công việc là yếu tố chủ yếu tác động trực tiếp
lên vấn đề này. Thu nhập càng cao thì áp lực
công việc càng lớn. Ngoài ra, các yếu tố về đời
sống xã hội cũng góp phần tạo áp lực về thu
nhập của đối tượng.
Nghiên cứu không ghi nhận được mối liên
quan giữa tình trạng đau đầu migraine với các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 6 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 186
yếu tố tiền sử gia đình đau đầu, bản thân đau đầu
hay tiền sử bệnh nội khoa và ngoại khoa. Cần các
nghiên cứu chuyên sâu hơn về các yếu tố này với
cỡ mẫu lớn hơn và kỹ thuật chọn mẫu mang tính
đại diện hơn trong việc xác định sự liên quan.
Ngoài ra, việc tìm hiểu cơ chế cũng cần được ghi
nhận để có thể có những can thiệp thích hợp.
Hành vi lối sống như hút thuốc lá, uống rượu,
bia không có mối liên quan đến tình trạng đau
đầu migraine trong nghiên cứu của chúng tôi.
Các y văn trong nước và trên thế giới ghi
nhận có mối liên quan về tỷ lệ đau đầu migraine
với các yếu tố stress, trầm cảm và mất ngủ. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, không
ghi nhận được mối liên quan giữa các yếu tố này
và tình trạng đau đầu. Điều này là do tỷ lệ stress,
trầm cảm và mất ngủ nghiên cứu ghi nhận được
là thấp từ đối tượng nghiên cứu.
Đau đầu dạng căng thẳng và các yếu tố liên quan
Tỷ lệ đau đầu dạng căng thẳng ở nam và nữ
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Mặc dù, mỗi
giới tính có những áp lực riêng về vai trò mỗi cá
nhân, nhưng sự căng thẳng để gây ra tình trạng
đau đầu là không có khác biệt đáng kể. Nam hay
nữ để có thể chịu những áp lực như nhau và do
đó, tình trạng đau đầu do căng thẳng là như nhau.
Tỷ lệ đau đầu dạng căng thẳng tăng theo độ
tuổi, có nghĩa là độ tuổi càng cao thì đau đầu dạng
căng thẳng càng tăng. Tuy nhiên, nghiên cứu ghi
nhận được sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê giữa độ tuổi và tình trạng đau đầu dạng căng
thẳng. Theo kết quả nghiên cứu, ở những độ tuổi
khác nhau, những áp lực tác động lên mỗi cá
nhân là khác nhau, nhưng việc này gây ra tình
trạng đau đầu là như nhau ở các nhóm tuổi.
Nghiên cứu cũng ghi nhận rằng không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng đau
đầu dạng căng thẳng với các yếu tố dân tộc.
Những người có tình trạng hôn nhân khác
(ly thân, ly dị, góa) có tỷ lệ đau đầu căng thẳng
gấp 1,19 lần so với những người độc thân. Tình
trạng hôn nhân có những áp lực về lối sống tinh
thần và xã hội khác nhau, từ đó ảnh hưởng lên
chất lượng cuộc sống, gây tình trạng căng thẳng.
Các xung đột, mâu thuẫn hay các vấn đề tiêu cực
liên quan đến mối quan hệ gia đình, xã hội góp
phần làm gia tăng tình trạng căng thẳng. Tình
trạng này kéo dài lâu ngày, không chỉ gây ra đau
đầu dạng căng thẳng mà còn nhiều vấn đề sức
khỏe khác. Tuy nhiên, nghiên cứu không đi sâu
và các vấn đề sức khỏe khác.
Công chức, viên chức được ghi nhận là có
tình trạng đau đầu dạng căng thẳng thấp hơn so
với những người làm công việc nội trợ. Không
ghi nhận được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở
những nhóm nghề khác so với những người làm
việc nội trợ. Mỗi ngành nghề khác nhau có
những áp lực khác nhau, có thể nói rằng, tình
trạng đau đầu dạng căng thẳng đang ngày càng
phổ biến và xuất hiện ở tất cả các nhóm nghề.
Tùy theo đặc điểm nghề nghiệp khác nhau mà
áp lực công việc sẽ khác nhau. Bên cạnh đó, khả
năng của mỗi cá nhân trong việc đối phó với
stress, căng thẳng và áp lực cũng là một trong
những yếu tố giúp làm tăng hay giảm tỷ lệ đau
đầu dạng căng thẳng. Tuy nhiên, trong nghiên
cứu của chúng tôi không đánh giá yếu tố đối phó
với stress, áp lực và căng thẳng, cần thiết thực
hiện các nghiên cứu chuyên sâu hơn về lĩnh vực
này để đánh giá một cách toàn diện.
Nghiên cứu ghi nhận những người có trình
độ học vấn Đại học có tỷ lệ đau đầu dạng căng
thẳng là thấp hơn so với những người có trình
độ tiểu học.
Nơi cư trú của đối tượng là một trong những
yếu tố góp phần làm gia tăng tình trạng đau đầu
dạng căng thẳng. Nghiên cứu ghi nhận được
rằng, những người cư trú tại thành thị có tỷ lệ
đau đầu dạng căng thẳng cao hơn so với những
người cư trú tại nông thôn. Với môi trường sống
tại thành phố Hồ Chí Minh, áp lực công việc và
các điều kiện sống cạnh tranh góp phần làm gia
tăng tình trạng căng thẳng của đối tượng.
Nghiên cứu chưa đi cụ thể vào các yếu tố đời
sống, xã hội của đối tượng nghiên cứu. Cần các
nghiên cứu đánh giá các yếu tố này trong cộng
đồng để có những giải pháp thích hợp.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 187
Theo kết quả nghiên cứu, những người có
thu nhập có tình trạng đau đầu dạng căng thẳng
cao hơn so với những người không có thu nhập,
tuy nhiên sự khác biệt là không có ý nghĩa thống
kê. Cần nghiên cứu chuyên sâu hơn về yếu tố
này để đánh giá tác động thật sự lên tình trạng
đau đầu dạng căng thẳng.
Các nghiên cứu trước đó ghi nhận có mối
liên quan giữa tiền sử gia đình và đau đầu dạng
căng thẳng(9,8). Tuy nhiên trong nghiên cứu của
chúng tôi, tình trạng đau đầu dạng căng thẳng ở
nhóm có tiền sử gia đình và không có tiền sử gia
đình có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Tiền sử bản thân như đau đầu, các bệnh nội
khoa và ngoại khoa ghi nhận không có mối liên
quan với tỷ lệ đau đầu dạng căng thẳng. Mặc dù,
tỷ lệ đau đầu ghi nhận theo các yếu tố này là rất
cao, nhưng hầu hết người bệnh đều có bệnh lý
kèm theo, do đặc điểm là người bệnh đến khám
tại phòng khám. Cần nghiên cứu trên cộng đồng
để có thể ghi nhận khách quan hơn các yếu tố
này, từ đó có đánh giá chính xác hơn về các yếu
tố tiền sử bản thân.
Yếu tố hành vi lối sống như hút thuốc lá, uống
rượu, bia không có mối liên quan đến tỷ lệ đau
đâu dạng căng thẳng. Các hành vi này phụ thuộc
vào giới tính. Trong khi đó, trong nghiên cứu, tỷ
lệ nam giới và nữ giới có sự chênh lệch đáng kể.
Mặc dù y văn ghi nhận, stress, trầm cảm và
mất ngủ là những yếu tố góp phần gây nên tình
trạng căng thẳng, nhưng nghiên cứu chưa ghi
nhận được mối liên quan giữa các yếu tố này với
tỷ lệ đau đầu dạng căng thẳng.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ đau đầu migraine là 17,4%, đau đầu
dạng căng thẳng là 82,6%. Tuổi khởi phát đau
đầu là 31,97±7,78 tuổi. Có mối liên quan giữa đau
đầu migraine và nhóm tuổi, nghề nghiệp, trình
độ học vấn, nơi cư trú và tình hình kinh tế. Có
mối liên quan giữa đau đầu dạng căng thẳng với
tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, trình độ học
vấn và nơi cư trú.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al Jumah MA, Hussein M, Al Khathaami A, Kojan S, Stovner L,
Steiner T. (2013) "The prevalence of primary headache disorders in
Saudi Arabia". Journal of the Neurological Sciences, 333 (1), pp. e499
2. Altura BM, Altura BT (2001) "Tension headaches and
muscle tension:is there a role for magnesium".
Med.Hypotheses, 57 (6), pp. 705-13
3. Buse CD, Loder WE, Gorman AJ, Stewart FW, Reed LM, Fanning
MK, Serrano D, Lipton BR (2013) "Sex Differences in the Prevalence,
Symptoms, and Associated Features of Migraine, Probable Migraine
and Other Severe Headache: Results of the American Migraine
Prevalence and Prevention (AMPP) Study". Headache
4. Evans RW, Mathew NT (2005) Handbook of Headache, 2nd
edition, Philadelphia: Lippincott Williams & Wilkins
5. International Headache Society (2013) "Headache Classification
Committee of the International Headache Society (IHS). The
International Classification of Headache Disorders, 3rd edition
(beta version)". Cephalalgia, 33 (9), pp. 629-808
6. Manandhar K, Risal A, Steiner TJ, Holen A, Linde M (2015) "The
prevalence of primary headache disorders in Nepal: a nationwide
population-based study". J Headache Pain, 16, pp. 95
7. Miller EA. (2006) "Headache". CONTINUUM: Lifelong Learning
in Neurology, 12 (6)
8. Nguyễn Anh Diễm Thúy (2011) Đặc điểm lâm sàng và chất
lượng sống ở bệnh nhân đau đầu mạn tính hàng ngày, Luận văn
Thạc sĩ Y học, Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh
9. Nguyễn Thị Thúy Lan (2010) Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và
phân loại đau đầu mạn tính hằng ngày, Luận án Bác Sĩ chuyên
khoa cấp cấp II, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh
10. Nguyễn Văn Chương (2010) Chẩn đoán và điều trị các bệnh đau
đầu thường gặp, Nhà xuất bản Y học
11. Oshinaike O, Ojo O, Okubadejo N, Ojelabi O, Dada A (2014)
"Primary Headache Disorders at a Tertiary Health Facility in
Lagos, Nigeria: Prevalence and Consultation Patterns". BioMed
Research International
12. Pedraza MI, Mulero P, Ruíz M, de la Cruz C, Herrero S, Guerrero
AL (2015) "Characteristics of the first 2000 patients registered in a
specialist headache clinic". Neurología, 30 (4), pp. 208-213
13. Sedlic M, Mahovic D, Kruzliak P (2016) "Epidemiology of
Primary Headaches Among 1,876 Adolescents: A Cross-
Sectional Survey.". Pain Med, 17 (2), pp. 353-9
14. Stovner JL, Andree C (2010) "Prevalence of headache in Europe: a
review for the Eurolight project". J Headache Pain, 11, pp. 289-299
15. Stovner JL, Hagen K, Jensen R, Katsarava Z, Lipton R, Scher A,
Steiner T, Zwart JA (2007) "The global burden of headache: a
documentation of headache prevalence and disability
worldwide". Cephalalgia, 27 (3), pp. 193-210
16. Vetvik GK, MacGregor AE (2017) "Sex diff erences in the
epidemiology, clinical features, and pathophysiology of
migraine". Lancet Neurol
17. Vũ Anh Nhị (2010) Đau đầu dai dẳng hằng ngày thể mới. Chẩn
đoán và điều trị đau đầu, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, tr. 114-134
18. Vũ Anh Nhị, Nguyễn Bá Thắng (2010) Đau đầu căng thẳng. Chẩn
đoán và điều trị đau đầu, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia, tr. 28-55.
Ngày nhận bài báo: 16/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_loai_dau_dau_nguyen_phat_tai_phong_kham_than_kinh_benh.pdf