Tài liệu Phân lập β-Sitosterol và tectoridin từ lá xạ can tại Việt Nam: Bùi Thị Bình và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 51 - 54
51
PHÂN LẬP β-SITOSTEROL VÀ TECTORIDIN TỪ LÁ XẠ CAN
TẠI VIỆT NAM
Bùi Thị Bình1, Lê Công Huân1,*, Khổng Thị Hoa1, Nguyễn Thị Hồng1,
Đặng Thu Hằng1, Nguyễn Thị Hồng Hạnh2, Đỗ Thị Hà3
1Trường Đại học Y Dược Thái Bình,
2Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên, 3Viện Dược liệu
TÓM TẮT
Xạ can là một dược liệu quý được dùng làm thuốc chữa các bệnh viêm đường hô hấp trên như: Ho,
tiêu đờm, viêm họng, viêm amidan có nhiều đờm, khản tiếng. Trong nước, đã có nhiều bài báo
nghiên cứu thành phần hóa học của rễ xạ can mà chưa có nhiều công bố về thành phần hóa học của
lá. Vì vậy, trong bài báo này chúng tôi đã nghiên cứu dịch chiết ethanol từ lá xạ can Belamcada
chinensis (L.) DC. Kết quả đã phân lập hai hợp chất: β-sitosterol (1), tectoridin (2). Cấu trúc các
hợp chất được xác định dựa trên cơ sở dữ liệu hóa lý và phân tích phổ NMR, MS, IR và so sánh
với các dữ liệu phổ đã công bố.
Từ khóa: Xạ can, lá, ...
4 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân lập β-Sitosterol và tectoridin từ lá xạ can tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bùi Thị Bình và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 51 - 54
51
PHÂN LẬP β-SITOSTEROL VÀ TECTORIDIN TỪ LÁ XẠ CAN
TẠI VIỆT NAM
Bùi Thị Bình1, Lê Công Huân1,*, Khổng Thị Hoa1, Nguyễn Thị Hồng1,
Đặng Thu Hằng1, Nguyễn Thị Hồng Hạnh2, Đỗ Thị Hà3
1Trường Đại học Y Dược Thái Bình,
2Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên, 3Viện Dược liệu
TÓM TẮT
Xạ can là một dược liệu quý được dùng làm thuốc chữa các bệnh viêm đường hô hấp trên như: Ho,
tiêu đờm, viêm họng, viêm amidan có nhiều đờm, khản tiếng. Trong nước, đã có nhiều bài báo
nghiên cứu thành phần hóa học của rễ xạ can mà chưa có nhiều công bố về thành phần hóa học của
lá. Vì vậy, trong bài báo này chúng tôi đã nghiên cứu dịch chiết ethanol từ lá xạ can Belamcada
chinensis (L.) DC. Kết quả đã phân lập hai hợp chất: β-sitosterol (1), tectoridin (2). Cấu trúc các
hợp chất được xác định dựa trên cơ sở dữ liệu hóa lý và phân tích phổ NMR, MS, IR và so sánh
với các dữ liệu phổ đã công bố.
Từ khóa: Xạ can, lá, flavonoid, β-sitosterol, tectoridin.
ĐẶT VẤN ĐỀ**
Xạ can có tên khoa học là Belamcanda
chinensis (L.) DC. thuộc chi Belamcada
Adans họ Lay ơn (Iridaceae). Cây phân bố ở
Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Philipin, Việt
Nam[1]. Trong dân gian, lá xạ can được
làm thuốc chữa ho, tiêu đờm, viêm họng,
viêm amidan có nhiều đờm, khản tiếng, còn
dùng chữa sốt, sưng tắc tia sữa dùng dạng
thuốc sắc, bột làm viên ngậm hoặc dùng tươi
[1]. Nghiên cứu thành phần hóa học của thân
rễ xạ can cho thấy có mặt của các chất như
các hợp chất stillben, các hợp chất phenolic
và các triterpen, iridal triterpenoid,
isoflavonoid và flavonoid, [5], [6]. Trong
nước, một số tác giả bước đầu nghiên cứu
thành phần hóa học trong rễ xạ can cho thấy
sự có mặt của các hợp chất flavonoid và
triterpenoid [2], [3]. Tuy nhiên, tại Việt Nam
vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu
thành phần hóa học trên bộ phận lá. Trong bài
báo này, chúng tôi báo cáo những kết quả
nghiên cứu mới về phân lập và xác định cấu
trúc hóa học của hợp chất chiết được trên bộ
phận lá xạ can.
NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Nguyên liệu
*
Email: huanc3d@gmail.com
Nguyên liệu dùng trong nghiên cứu là lá xạ
can (Belamcada chinensis (L.)DC.) được thu
hái tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình tháng
11/ 2014. Tên khoa học được ThS. Nguyễn
Quỳnh Nga, Khoa Tài nguyên - Viện Dược
liệu giám định bằng phương pháp so sánh
hình thái. Tiêu bản mẫu hiện được lưu tại Khoa
Tài nguyên - Viện Dược liệu. Toàn bộ lá xạ can
chất lượng tốt được lựa chọn, sấy ở 50oC đến độ
ẩm còn dưới 2%, xay thành bột làm nguyên liệu
nghiên cứu thành phần hóa học.
Dung môi, hóa chất
Các dung môi dùng cho chiết xuất và phân
lập hoạt chất: ethanol, n-hexan, ethylacetat,
methanol, n-butanol... Dung môi, hóa chất sử
dụng trong nghiên cứu đều đạt tiêu chuẩn tinh
khiết phân tích (PA).
Thiết bị dụng cụ
Các chất được phân lập bởi các cột sắc ký
(cột thủy tinh) với hạt silicagel 160 cỡ hạt
0,04 - 0,063 mm (Merck). Sắc ký lớp mỏng
sử dụng bản mỏng nhôm tráng sẵn silicagel
GF254. Nhiệt độ nóng chảy được đo bằng máy
đo điểm chảy nhiệt điện Gallenkamp (Sanyo
electrothermal digital). Phổ hồng ngoại (IR)
được ghi bằng máy Impac 410-Nicolet FT-IR.
Phổ khối lượng (MS) được ghi bằng máy khối
phổ phun mù điện tử (MS) Hewlett Packard
HP 5890. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR)
Bùi Thị Bình và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 51 - 54
52
được ghi bằng máy Bruker AV-500 dùng
DMSO-d6 làm dung môi. Độ chuyển dịch hóa
học () được biểu thị bằng đơn vị phần triệu
(ppm), lấy mốc là pic của chất chuẩn nội
tetramethylsilan (TMS).
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân lập các hợp chất
Phân lập các hợp chất từ lá xạ can bằng sắc
ký lớp mỏng và sắc ký cột
Sắc ký lớp mỏng (TLC): Sắc ký lớp mỏng
được thực hiện trên bản mỏng nhôm tráng sẵn
silicagel GF254. Phát hiện chất bằng đèn tử
ngoại bước sóng 254 và 365 nm hoặc dùng
thuốc thử hiện màu H2SO4 10% được phun
đều khi hiện màu, hoặc dung dịch
FeCl3/ethanol 5%.
Sắc ký cột (CC): Sắc ký cột được tiến hành
với chất hấp phụ là silicagel pha thường (cỡ
hạt 0,040 - 0,063 mm, Merck).
Phương pháp xác định các cấu trúc hóa học
các hợp chất
Nhiệt độ nóng chảy được đo bằng máy đo
điểm chảy nhiệt điện Gallenkamp (Sanyo
electrothermal digital). Phổ hồng ngoại (IR)
được ghi bằng máy Impac 410-Nicolet FT-IR.
Phổ khối lượng (MS) được ghi bằng máy khối
phổ phun mù điện tử (MS) Hewlett Packard
HP 5890. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-
NMR và
13
C-NMR được ghi bằng máy Bruker
AV-500 dùng DMSO-d6 làm dung môi. Độ
chuyển dịch hóa học () được biểu thị bằng
đơn vị phần triệu (ppm), lấy mốc là pic của
chất chuẩn nội tetramethylsilan (TMS).
THỰC NGHIỆM
Lá xạ can phơi khô ở 50oC, nghiền nhỏ (2,5
kg) lá cây được chiết nóng với EtOH 96% ở
nhiệt độ 80oC, trong thời gian 3 giờ × 3 lần.
Lọc và gộp các dịch chiết, cất thu hồi dung
môi dưới áp suất giảm thu được 420,63 g cao
lá xạ can. Hòa cao trong 1 lít nước và chiết
lần lượt với n-hexan (3 × 1,5 l), ethyl acetat (3
× 1,5 l), gộp các dịch chiết, sau đó đem cất
quay dưới áp suất giảm, thu được các cắn n-
hexan (30,49 g), ethyl acetat (18,63 g) và
nước (271,63 g).
Phân tách cặn n-hexan (30,49 g) bằng sắc ký
cootk silicagel với hệ dung môi n-hexan : ethyl
acetat (5:1) thu được thu được 5 phân đoạn:
D1-1(A-E). Phân đoạn D1-1B (2,5 g) tiếp tục
được chạy sắc ký cột với hệ dung môi n-hexan
: aceton (2,5:1) thu được 3 phân đoạn D1-2(A-
C). Trong đó, phân đoạn D1-Bs-2B cô cho bay
hết dung môi, kết tinh lại trong methanol thu
được 1 hợp chất ký hiệu là 1 (300 mg).
Phân tách cặn trong nước tiến hành chạy qua
cột Dainion HP-20 lần lượt với các dung môi
nước, cồn 25o, 50o, 75o, 96o. Thu hồi dung
môi dưới áp suất giảm thu được 5 phân đoạn.
Phân đoạn cồn 75o (6,95 g) tiếp tục được chạy
sắc ký cột silicagel với hệ dung môi rửa giải
DCM : MeOH : H2O (6:1:0,1) thu được 4
phân đoạn D2-2(A-D). Phân đoạn D2-2A
(430 mg) tiến hành phân lập bằng sắc kí cột
pha thường với hệ dung môi DCM : MeOH :
H2O (10:1:0,1) thu được 3 phân đoạn D2-
5(A-C). Trong đó, phân đoạn D2-5B (80 mg)
kết tinh trong hệ dung môi DCM : MeOH :
H2O (1:1) thu được 1 hợp chất màu trắng kí
hiệu là 2 (15 mg).
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Bằng các phương pháp hóa lý và phân tích
phổ cộng hưởng từ hạt nhân phối hợp với các
dữ liệu hóa lý và dữ liệu phổ đã công bố,
chúng tôi xác định được cấu trúc của 2 hợp
chất như sau:
Hình 1. Cấu trúc của các hợp chất 1, 2
Bùi Thị Bình và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 51 - 54
53
Hợp chất 1: Không màu; tonc: 168-169
o
C; Rf
= 0,61 (DCM : MeOH = 7:1); IR (KBr, cm
-1
):
3304 (OH), 3060 (CH), 1728/ 1610 (C=O),
1509, 1471, 1426 (C=C); ESI-MS (m/z):
415,31 [M+H]
+
.
1
H-NMR (500 MHz, CDCl3,
ppm): δH 5,3 (t, J = 5,1 Hz, H-6), 3,5 (d-t, J =
5,1 Hz, H-3), 0,7 (3H, s, H-18), 1,02 (3H, s,
H-19), 0,9 (3H, d, J = 6,5 Hz, H-21), 0,8 (
3H, t, J = 7,3 Hz, H-26), 0,84 (3H, d, J = 7,0
Hz, H-27); 0,80 (3H, d, J = 6,8 Hz, H-28),
0,81 (3H, d, J = 7,5 Hz, H-29);
13
C-NMR
(125 MHz, CDCl3, ppm): δ 38,5 (C-1), 32,4
(C-2), 72,8 (C-3), 42,0 (C-4), 155,1 (C-5),
117,9 (C-6), 32,3 (C-7), 32,7 (C-8), 52,2 (C-
9), 35,9 (C-10), 22,2 (C-11), 38,5 (C-12),
42,0 (C-13), 68,0 (C-14), 24,4 (C-15), 28,2
(C-16), 52,9 (C-17), 14,9 (C-18), 19,2 (C-19),
33,5 (C-20), 19,3 (C-21), 33,5 (C-22), 27,8
(C-23), 46,4 (C-24), 30,1 (C-25), 14,9 (C-26),
22,3 (C-27), 19,3 (C-27), 20,52 (C-29).
Phổ 1H-NMR xuất hiện tín hiệu của sáu nhóm
methyl δH 0,7 (3H, s, H-18), 1,02 (3H, s, H-
19); 0,80 (3H, t, J = 7,3 Hz, H-26); 0,84 (3H,
d, J = 7,0 Hz, H-27); 0,80 (3H, d, J = 6,8 Hz,
H-28), 0,81 (3H, d, J = 7,5 Hz, H-29). Ngoài
ra phổ 1H-NMR cũng cho thấy tín hiệu của
một proton olefin tại δH 5,3 (t, J = 5,1 Hz, H-
6). Trên phổ 13C-NMR cho thấy xuất hiện tín
hiệu của 29 carbon (3 cacbon tứ cấp, 11 nhóm
CH2, 6 nhóm CH3 và 9 nhóm CH), trong đó
xuất hiện tín hiệu của một nhóm metin tại δC
72,8 (C-3), tín hiệu liên kết olefin δC 155,1
(C-5) và 117,9 (C-6) cùng với tín hiệu của 6
nhóm methyl tại δC 14,9 (C-18); 19,2 (C-19);
19,3 (C-21); 14,9 (C-26); 22,3 (C-27); 20,52
(C-29). So sánh số liệu phổ NMR của hợp
chất 1 với hợp chất -sitosterol ở tài liệu [4].
Từ những điều này, cho phép khẳng định hợp
chất 1 chính là -sitosterol, một hợp chất rất
phổ biến trong thiên nhiên.
Hợp chất 2: Màu trắng; tonc: 278-279
o
C; Rf =
0,57 (DCM : MeOH = 7:1); IR (KBr, cm
-1
):
3309 (OH), 3060 (CH), 1728/ 1610 (C=O),
1509, 1471, 1426 (C=C); 1240 (C-O); ESI-
MS (m/z): 328,31 [M+H]
+
;
1
H-NMR (500
MHz, DMSO-d6, ppm): δ 8,43 (1H, s, H-2);
7,40 (2H, d,J = 8,5 Hz,H-2’, H-6’); 6,83 (2H,
d, J = 8,5 Hz,H-3’, H-5’); 6,88 (1H, s, H-8);
5,08 (1H, d, J = 7,5 Hz, H-1’’); 3,73 (1H, d, J
= 7,5 Hz, Ha-6’’); 3,45 (1H, d, J = 10,5, Hb-
6’’); 3,36 (1H, m, H-2’’); 3,34 (1H, m, H-
5’’), 3,19 (1H, m, H-4’’); 3,44 (1H, m, H-
5’’); 3,80 (3H, s, OCH3);
13
C-NMR (125
MHz, DMSO-d6, ppm): δ 154,6 (C-2); 121,09
(C-3); 180,7 (C-4); 152,8 (C-5); 132,4 (C-6);
156,5 (C-7); 94,0 (C-8); 152,4 (C-9); 106,44
(C-10); 112,04 (C-1’); 130,11 (C-2’, 6’);
115,05 (C-3’, 5’); 157,40 (C-4’); 100,17 (C-
1’’); 73,11 (C-2’’); 76,67 (C-3’’); 69,24 (C-
4’’); 77,26 (C-5’’); 60,64 (C-6’’); 60,24
(OCH3).
Dữ liệu phổ 1H-NMR của hợp chất 2 cho thấy
sự có mặt của một vòng thơm thông qua sự
xuất hiện của hai tín hiệu doublet tại H 7,40
ppm (H-2‘ và H-6‘) và 6,83 (H-3‘ và H-5‘)
với hằng số tương tác J = 8,5 Hz và tín hiệu
singlet tại 8,43 ppm (1H, s, H-2) cho thấy sự
có mặt của khung isoflavon trong phân tử hợp
chất 2. Ngoài ra còn thấy sự có mặt của một
gốc đường glucose với các tín hiệu trên phổ
1
H-NMR tại H 5,08 ppm (d, J = 7,5 Hz, H-
1’’), 3,36 (m, H-2’’), 3,34 ppm (m, H-3’’),
3,19 ppm (dd, J = 9 Hz, 8Hz, H-4’’), 3,44
ppm (m, H-5’’), 3,73 ppm (d, J = 10,5Hz, Ha-
6’’), 3,45 ppm (d, J = 7,5Hz, Hb-6’’) và các
tín hiệu phổ 13C-NMR tại C 100,17 ppm (C-
1’’), 73,11 ppm (C-2’’), 76,67 ppm (C-3’’),
69,24 ppm (C-4’’), 77,26 ppm (C-5’’), 60,64
ppm (C-6’’). Hằng số tương tác JH-1“/H-2“ là 7,5
Hz cho thấy sự hình thành liên kết O-glucosid
và cấu hình của proton anome. Trên phổ
13
C-NMR xuất hiện 20 tín hiệu tương ứng với
22 nguyên tử C do hai tín hiệu CH tại C
130,11 và 115,05 xuất hiện với cường độ cao
gấp đôi các tín hiệu C khác. Tín hiệu singlet
trên phổ 1H-NMR tại H 3,80 và tín hiệu trên
phổ 13C-NMR tại C 60,24 gợi ý sự có mặt
của một nhóm -OCH3. Từ dữ liệu phổ thu
được ở trên, kết hợp so sánh với dữ phổ công
bố của hợp chất tectoridin ở tài liệu tham
Bùi Thị Bình và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 187(11): 51 - 54
54
khảo [3] có thể khẳng định rằng hợp chất 2 là
tectoridin.
KẾT LUẬN
Bằng các phương pháp sắc ký kết hợp với các
phương pháp phổ, chúng tôi đã phân lập và
nhận dạng cấu trúc của 2 hợp chất chủ yếu
bằng các phương pháp phổ (MS, 1H-NMR,
13
C-NMR) từ dịch chiết ethanol 96% của lá
xạ can gồm -sitosterol (1) và tectoridin (2).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Dược liệu (2006), Cây thuốc và động vật
làm thuốc ở Việt Nam, tập II, Nxb KH&KT, tr.
1095-1098.
2. Đỗ Thị Thanh Huyền, Nguyễn Mạnh Cường,
Ngọ Thị Phương và cs (2013), “Các hợp chất
flavonoid từ thân rễ xạ can”, Tạp chí Dược liệu,
18, tr. 243-248.
3. Mingchuan Liu, Shengjie Yang, Linhong Jin,
Deyu Hu, Zhibing Wu and Song Yang (2012),
“Chemical Constituents of the Ethyl Acetate
Extract of Belamcanda chinensis (L.) DC Roots
and Their Antitumor Activities”, Molecules, 17,
pp. 6156-6169.
4. Sanghuyn Lee, Jiyoung Jyu, Dongwook Son, et
all (2004), “Dercusin from the Rhizome of
Belamcanda chinnesis”, Nature Product Sciences,
10(2), pp. 89-91.
5. Xu M. P., He P., Duan C. X., Yang M. (2014),
“Study on relieving effects of exogenous SNP,
Spd on Belamcanda chinensis under salt-alkalline
stress”, Phytomedicine, 39(23), pp. 4553-4558.
6. Wu C., Li Y., Chen Y., Lao X., Sheng L., Dai
R., Meng W., Deng Y., (2011), “Hypoglycemic
effect of Belamcanda chinensis leaf extract in
normal and STZ-induced diabetic rats and its
potential active faction”, Phytomedicine, 18(4),
pp. 292-299.
SUMMARY
ISOLATION OF Β-SITOSTEROL, TECTORIDIN FROM THE LEAF OF
BELAMCADA CHINENSIS (L.) DC. IN VIETNAM
Bui Thi Binh
1
, Le Cong Huan
1*
, Khong Thi Hoa
1
, Nguyen Thi Hong
1
,
Dang Thu Hang
1
, Nguyen Thi Hong Hanh
2
, Do Thi Ha
3
1Thai Binh University of Medicine and Phamacy,
2 TNU - University of Medicine and Pharmacy,
3National Institute of Medicinal Material
Belamcada chinensis (L.) DC. is a a medicinal plant that has been used to treat cough, sputum,
pharyngitis, tonsillitis, phlegmatic tonsillitis. In the country, there have been many papers on the
chemical composition of radish roots, but there have not been many publications on the chemical
composition of leaves. Therefore, in this article we have studied the leaf extracts of Belamcada
chinensis (L.) DC. As a result, two compounds were isolated: β-sitosterol (1), tectoridin (2). Their
structure were determined on the basis of physiological data and analysis of NMR, MS, IR spectral
analysis in comparison with the pulish data.
Keywords: Belamcada chinensis, leaf, flavonoid, -sitosterol, tectoridin
Ngày nhận bài: 29/5/2018; Ngày phản biện: 30/6/2018; Ngày duyệt đăng: 31/10/2018
*
Email: huanc3d@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 180_233_1_pb_3563_2127012.pdf