Nồng độ lipid máu trên bệnh nhân mụn trứng cá thông thường đến khám tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu Nồng độ lipid máu trên bệnh nhân mụn trứng cá thông thường đến khám tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học 101 NỒNG ĐỘ LIPID MÁU TRÊN BỆNH NHÂN MỤN TRỨNG CÁ THÔNG THƯỜNG ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Phan Thúy*, Lê Thái Vân Thanh** TÓM TẮT Mở đầu: Mụn trứng cá là một trong những bệnh lý da liễu phổ biết nhất và có tác động đáng kể đến thanh thiếu niên và người trẻ tuổi. Mụn trứng cá thường có liên quan đến sự tăng tiết bã nhờn ở da. Một số nghiên cứu về lipid máu ở bệnh nhân mụn trứng cá cho thấy sự gia tăng cholesterol toàn phần (TC) và lipoprotein trọng lượng phân tử thấp (LDL) và sự giảm HDL. Một nghiên cứu khác cho thấy nồng độ TC cũng như triglycerides (TG) ở bệnh nhân bị mụn trứng cá khi so sánh với nhóm chứng không khác biệt đáng kể. Bên cạnh đó, nồng độ HDL giảm đáng kể ở những bệnh nhân có sang thương mụn trứng cá nặng và mức LDL tăng lên khi tình trạng mụn trứng cá trở nên trầm trọng hơn. Mối liên quan giữa nồng độ lipid máu và mụn trứng cá là một đề tài cần đ...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 419 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nồng độ lipid máu trên bệnh nhân mụn trứng cá thông thường đến khám tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học 101 NỒNG ĐỘ LIPID MÁU TRÊN BỆNH NHÂN MỤN TRỨNG CÁ THÔNG THƯỜNG ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Phan Thúy*, Lê Thái Vân Thanh** TÓM TẮT Mở đầu: Mụn trứng cá là một trong những bệnh lý da liễu phổ biết nhất và có tác động đáng kể đến thanh thiếu niên và người trẻ tuổi. Mụn trứng cá thường có liên quan đến sự tăng tiết bã nhờn ở da. Một số nghiên cứu về lipid máu ở bệnh nhân mụn trứng cá cho thấy sự gia tăng cholesterol toàn phần (TC) và lipoprotein trọng lượng phân tử thấp (LDL) và sự giảm HDL. Một nghiên cứu khác cho thấy nồng độ TC cũng như triglycerides (TG) ở bệnh nhân bị mụn trứng cá khi so sánh với nhóm chứng không khác biệt đáng kể. Bên cạnh đó, nồng độ HDL giảm đáng kể ở những bệnh nhân có sang thương mụn trứng cá nặng và mức LDL tăng lên khi tình trạng mụn trứng cá trở nên trầm trọng hơn. Mối liên quan giữa nồng độ lipid máu và mụn trứng cá là một đề tài cần được tiến hành nghiên cứu và phân tích nhiều hơn. Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát nồng độ lipid máu ở bệnh nhân mụn trứng cá và đánh giá mối liên quan giữa lipid máu ở bệnh nhân mụn trứng cá so với nhóm đối chứng. Đối tượng và Phương pháp: Tiến hành thu nhận vào nghiên cứu 96 bệnh nhân mụn trứng cá (nhóm bệnh) thỏa mãn tiêu chí chọn mẫu và 96 bệnh nhân nhóm đối chứng (nhóm chứng) tương ứng về độ tuổi và giới tính với nhóm bệnh. Các chỉ số về lipid máu được thu thập và so sánh với nhóm đối chứng. Điểm số GAGS được tính toán để phân loại và đánh giá. Kết quả: Có 27,08% bệnh nhân mụn trứng cá có bất thường nồng độ Cholesterol máu, cao hơn so với nhóm chứng (23,95%), 12,5% số bệnh nhân mụn trứng cá có bất thường nồng độ Triglyceride máu, trong khi con số này ở nhóm chứng là 9,38%. Tỷ lệ ở nhóm bệnh có bất thường nồng độ HDL máu cao gấp 3 lần so với nhóm chứng; tỷ lệ bất thường nồng độ LDL máu ở bệnh nhân mụn trứng cá cao hơn khoảng 4% so với những bệnh nhân thuộc nhóm chứng (37,5% và 33,3% tương ứng). Tuy nhiên, nghiên cứu chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ rối loạn lipid ở những bệnh nhân mụn trứng cá so với bệnh nhân không mắc mụn trứng cá. Tìm ra các yếu tố liên quan và ảnh hưởng đến lipid máu trên bệnh nhân mụn trứng cá: Tuổi và thời gian và điểm số GAGS ảnh hưởng đến nồng độ Cholesterol máu; BMI, độ nặng của mụn và điểm số GAGS ảnh hưởng đến nồng độ Triglyceride máu. Đặc biệt, nghiên cứu ghi nhận nồng độ Triglyceride máu càng tăng khi mụn càng nặng và có sự tương quan, khi bệnh nhân bị mụn càng nặng thì khả năng bất thường nồng độ Triglyceride máu càng nhiều; dạng lâm sàng, độ nặng và điểm số GAGS ảnh hưởng đến nồng độ HDL máu. Đáng chú ý là nồng độ HDL càng giảm thì độ nặng của mụn càng nghiêm trọng; tuổi và điểm số GAGS ảnh hưởng đến nồng độ LDL máu. Kết luận: Bệnh nhân mụn trứng cá có khả năng bất thường nồng độ lipid máu. Sự bất thường ghi nhận trong nghiên cứu này có thể là do các yếu tố khác nhau cần được xem xét trong quá trình sinh bệnh cũng như trong điều trị bệnh nhân mụn trứng cá. Từ khóa: mụn trứng cá, lipid máu, cholesterol, triglycerides, low-density lipoprotein (LDL), high-density lipoprotein (HDL) * Bệnh viện Da Liễu Tp. HCM ** Bộ môn Da liễu ĐH Y Dược TP. HCM. Tác giả liên lạc: TS. BS. Lê Thái Vân Thanh ĐT: 0903774310 Email: chamsocdadhyd@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 102 ABSTRACT BLOOD LIPID PROFILE IN ACNE PATIENTS AT HCMC HOSPITAL OF DERMATO VENERELOGY Nguyen Thi Phan Thuy, Le Thai Van Thanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 1- 2018: 101 - 106 Background: Acne vulgaris is considered one of the most common dermatological disorders affecting adolescents and young adults. Acne vulgaris is frequently associated with increased sebum excretion. Its pathophysiology includes increased sebum production and sebum analysis in some studies have shown increased triglycerides and wax/ cholesterol esters in acne patients. It has been reported that the serum lipid profile of acne patients differs significantly from that in healthy controls. Acne patients have significantly low plasma high- density lipoprotein cholesterol (HDL-C) levels. Total cholesterol (TC), low-density lipoprotein cholesterol (LDL-C) levels are elevated in acne patients. It indicates that the relationship of acne vulgaris and serum lipid profile needs further exploration. Objective: The aim of this study is to investigate the relevance of lipids, lipoproteins levels and evaluate the relationship between plasma lipid profile and acne in acne patients compare with healthy controls. Materials & Method: 96 acne patients and 96 age and sex matched controls were included in study. Fasting lipid profile of acne patients was compared with health controls. Measurement of GAGS was used for grading acne. Results: There was 27.08% of patients with abnormal blood cholesterol levels, higher than the control group (23.95%). 12.5% of patients with abnormal blood Triglyceride levels, while the number in the control group was 9.38%. The incidence of abnormal blood high-density lipoprotein (HDL) levels was three times higher than the control group; the blood high-density lipoprotein (LDL) abnormalities in acne patients were about 4% higher than in control patients (37.5% and 33.3%, respectively). The study found no statistically significant difference in the prevalence of lipid disorders in acne patients compared with non-acne patients. Find out the factors involved and affect blood lipids in acne patients: Age and duration of illness and GAGS score affect the blood cholesterol levels; BMI, acne severity and GAGS score impact to the blood Triglyceride levels. In particular, the study noted that the higher the blood Triglyceride levels concentration, the more severe the acne and the more correlated the acne patients, the more abnormal the blood Triglyceride levels. In addition, clinical classification, severity, and GAGS score affect the blood HDL levels. Notably, the lower the HDL level, the worse the severity of acne; age and GAGS scores impact blood LDL levels. GAGS scores account for 7.2% of changes in blood cholesterol levels in acne patients. Similarly, GAGS scores impact about 4.9%, 2.3% and 4.5% of changes in blood triglyceride levels, high- density lipoprotein and low-density lipoprotein respectively. Conclusion: Acne patients are more likely to have some abnormality in blood lipid profile. This abnormality that we demonstrated in this study might due to different factors that must be considered in the pathogenesis as well as in the treatment of acne patients. Keywords: Acne vulgaris, blood lipid, cholesterol, triglycerides, low-density lipoprotein, high-density lipoprotein. ĐẶT VẤN ĐỀ Mụn trứng cá là bệnh da thường gặp trong chuyên ngành da liễu. Ngày nay, nó được xem là bệnh lý viêm mạn tính của cấu trúc nang lông tuyến bã, thường xuất hiện trong lứa tuổi thanh thiếu niên với nhiều biểu hiện lâm sàng đa dạng(6) và sự tăng tiết bã nhờn được xem là cơ chế chính gây sự phát triển của mụn. Tuy nhiên, cơ chế thực sự vì sao tăng tiết bã nhờn làm gia tăng mụn trứng cá thì cho đến hiện nay vẫn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học 103 chưa biết rõ. Người ta chỉ ghi nhận độ nặng của mụn có mối liên quan sự tăng tiết bã nhờn. Một số nghiên cứu về lipid máu ở bệnh nhân mụn trứng cá cho thấy sự gia tăng cholesterol toàn phần (TC) và lipoprotein trọng lượng phân tử thấp (LDL) và sự giảm HDL(1,7,8). Một nghiên cứu khác cho thấy nồng độ TC cũng như triglycerides (TG) ở bệnh nhân bị mụn trứng cá khi so sánh với nhóm chứng không khác biệt đáng kể. Bên cạnh đó, HDL giảm đáng kể ở những bệnh nhân có sang thương mụn trứng cá nặng và mức LDL tăng lên khi tình trạng mụn trứng cá trở nên trầm trọng hơn(1,6). Theo tìm hiểu của chúng tôi tại Việt Nam, hiện chưa có báo cáo của nghiên cứu nào về mối liên quan giữa lipid máu và mụn trứng cá. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài:“Nồng độ lipid máu trên bệnh nhân mụn trứng cá thông thường đến khám tại bệnh viện da liễu TPHCM”. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Thiết kế nghiên cứu Cắt ngang phân tích (có nhóm đối chứng) Đối tượng nghiên cứu Các bệnh nhân mụn trứng cá thông thường đến khám tại bệnh viện Da Liễu TP.HCM từ 8/2016 đến tháng 1/2017. Cỡ mẫu Tiến hành thu nhận vào nghiên cứu 96 bệnh nhân mụn trứng cá (nhóm bệnh) thỏa mãn tiêu chí chọn mẫu và 96 bệnh nhân nhóm đối chứng (nhóm chứng) tương ứng về độ tuổi và giới tính với nhóm bệnh. Cách thức tiến hành Tiến hành chọn mẫu liên tục thuận tiện: Bệnh nhân sau khi được giải thích và đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ được chọn vào nhóm tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu viên tiến hành hỏi bệnh sử, khám lâm sàng và làm xét nghiệm lipid máu. Cuối cùng ghi nhận kết quả vào bảng thu thập số liệu. Các xét nghiệm được tiến hành tại phòng xét nghiệm máu của Bệnh viện Da Liễu thành phố Hồ Chí Minh. Công cụ thu thập Mẫu bệnh án nghiên cứu gồm 3 phần: Phần 1: Thông tin chung; Phần 2: Đặc điểm lâm sàng; Phần 3: Xét nghiệm cận lâm sàng. KẾT QUẢ Tỉ lệ rối loạn lipid máu theo từng chỉ số cholesterol, triglyceride, HDL và LDL-C ở nhóm bệnh cao hơn so với nhóm chứng, trong đó rối loạn lipid dạng giảm HDL chiếm tỉ lệ cao nhất. Bảng 1: Tỉ lệ rối loạn lipid máu ở nhóm bệnh nhân mụn trứng cá và nhóm đối chứng Nhóm bệnh Nhóm chứng P Tần số (n) Tỉ lệ (%) Tần số (n) Tỉ lệ (%) Cholesterol ≥ 5,2 mmol/L 26 27,08 23 23,95 0,5 Triglyceride ≥ 1,7 mmol/L 12 12,5 9 9,38 0,36 HDL < 1,04 mmol/L 45 46,8 14 14,6 0,54 LDL ≥ 3,4 mmol/L 36 37,5 32 33,33 0,48 Bảng 2: Sự khác biệt nồng độ HDL máu ở nhóm bệnh nhân mụn trứng cá và nhóm đối chứng Nồng độ HDL Nhóm bệnh (n=96) Nhóm chứng (n=96) P Trung bình ± độ lệch chuẩn 1,14 ± 0,4 1,28 ± 0,39 0,01 Cao nhất 4,04 4,1 Thấp nhất 0,44 0,82 Nồng độ HDL máu trung bình ở nhóm bệnh là 1,14 ± 0,4, thấp hơn nồng độ HDL máu trung bình ở nhóm chứng là 1,28 ± 0,39. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,01. Nồng độ cholesterol máu tương quan thuận biến với độ tuổi mắc bệnh, nghĩa là độ tuổi mắc bệnh càng lớn thì nồng độ cholesterol càng cao. Đây là mối tương quan với mức độ vừa (r= 0,34) và có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Nồng độ cholesterol có mối tương quan yếu, có ý nghĩa thống kê (p< 0,05), nghĩa là nồng độ cholesterol tăng khi thời gian mắc bệnh càng kéo dài. Tỷ lệ bệnh nhân mụn ở mức độ trung bình có bất thường nồng độ triglyceride máu cao gấp Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 104 2,06 lần so với nhóm bệnh nhân mụn ở mức độ nhẹ. Đặc biệt, tỷ lệ bệnh nhân mụn ở mức độ nặng và rất nặng có bất thường nồng độ triglyceride máu cao gấp 4,2 lần và 8,7 lần so với nhóm bệnh nhân mụn ở mức độ nhẹ. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Có sự tương quan thuận ở mức độ yếu (r= 0,27) giữa nồng độ triglyceride máu với chỉ số khối cơ thể BMI (p< 0,05). Điểm số GAGS= 0,89 + 0,01 x nồng độ triglyceride; p=0,012 ; R2=0,049 (Bảng 3). Bảng 3: Bất thường nồng độ triglyceride máu theo độ nặng của bệnh Độ nặng của bệnh PR* (KTC 95%) P Nhẹ 1 Trung bình 2,06 (1,41 ± 3,02) <0,001 Nặng 4,24 (1,98 ± 9,12) <0,001 Rất nặng 8,74 (2,8± 27,54) <0,001 Kiểm định chi bình phương khuynh hướng ; PR*: Lượng hóa mối quan hệ Biểu đồ 1: Mối tương quan nồng độ triglyceride máu và điểm số GAGS Điểm số GAGS giải thích cho 4,9% sự thay đổi về nồng độ triglyceride huyết thanh, mức ý nghĩa về điểm số GAGS có ý nghĩa thống kê. Từ phương trình hồi quy nếu điểm số GAGS tăng lên 1 điểm thì nồng độ triglyceride máu sẽ tăng lên 0,01 đơn vị. Bảng 4: Bất thường nồng độ HDL máu theo dạng lâm sàng mụn trứng cá Dạng lâm sàng mụn PR* (KTC 95%) P Trứng cá nhân 1 Trứng cá sẩn mụn mủ 0,79 (0,71 ± 0,89) <0,001 Trứng cá nốt nang - - Kiểm định chi bình phương khuynh hướng ; PR*: Lượng hóa mối quan hệ Tỷ lệ bệnh nhân mắc trứng cá sẩn mụn mủ có bất thường nồng độ HDL máu thấp hơn 0,2 lần so với nhóm bệnh nhân mắc bệnh trứng cá nhân. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p <0,001 (KTC 95%=0,71 ± 0,89). Điểm số GAGS= 1,26 - 0,01 x nồng độ HDL ; p=0,002 ; R2=0,023. Biểu đồ 2: Mối tương quan nồng độ HDL máu và điểm số GAGS Điểm số GAGS giải thích cho 2,3% sự thay đổi về nồng độ HDL huyết thanh, mức ý nghĩa về điểm số GAGS có ý nghĩa thống kê. Từ phương trình hồi quy nếu điểm số GAGS tăng lên 1 điểm thì nồng độ HDL máu sẽ giảm đi 0,01 đơn vị. Có mối tương quan thuận ở mức độ yếu (r=0,27) giữa nồng độ LDL máu với độ tuổi mắc bệnh (p< 0,05). Sự khác biệt nồng độ LDL máu theo giới tính ở bệnh nhân mụn trứng cá có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). BÀN LUẬN Tỉ lệ rối loạn lipid máu theo từng chỉ số cholesterol, triglyceride, HDL và LDL-C ở nhóm bệnh cao hơn so với nhóm chứng, trong đó rối loạn lipid dạng giảm HDL chiếm tỉ lệ cao nhất. Cụ thể, 27,08% bệnh nhân mụn trứng cá có bất thường Cholesterol – cao hơn so với nhóm chứng (23,95%); 12,5% số bệnh nhân mụn trứng cá có bất thường Triglyceride huyết thanh, trong khi con số này ở nhóm chứng là 9,38%; sự chênh lệch đáng kể nhất là tỷ lệ bất thường HDL máu ở nhóm bệnh nhân mụn trứng cá so với nhóm chứng, theo đó tỷ lệ ở nhóm bệnh có bất thường HDL cao gấp 3 lần so với nhóm chứng ; tỷ lệ bất thường LDL máu ở bệnh nhân mụn trứng cá cao Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học 105 hơn khoảng 4% so với những bệnh nhân thuộc nhóm chứng (37,5% và 33,3% tương ứng). Trong một nghiên cứu tương tự được tiến hành năm 2016 của Sheikh Manzoor và cộng sự cũng ghi nhận kết quả tương tự nhưng với tỷ lệ bất thường thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Theo đó, 17,33% bệnh nhân mụn trứng cá có bất thường nồng độ cholesterol máu so với con số 5% ở nhóm chứng ; bất thường HDL ở nhóm bệnh nhân mụn trứng cá mặc dù cao hơn so với nhóm chứng như sự chênh lệch là không đáng kể (10,67% và 10%) ; tỷ lệ bất thường LDL ở nhóm bệnh là 8% cao gấp hơn 3 lần so với nhóm chứng (2,5%). Bên cạnh đó khi hồi cứu y văn với những nghiên cứu khác chúng tôi cũng tìm ra sự không đồng nhất về sự khác biệt giữa các tỷ lệ rối loạn lipid huyết thanh. Cụ thể, tỉ lệ bất thường nồng độ Cholesterol trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với hầu hết các nghiên cứu của các tác giả Sheikh, Da Cunha. Kết quả rối loạn TG ở nghiên cứu của chúng tôi cao hơn trong nghiên cứu của Da Cunha nhưng lại thấp hơn nghiên cứu của Sheikh. Tỉ lệ giảm nồng độ HDL máu của chúng tôi cao hơn khá nhiều so với nghiên cứu của Da Cunha và Sheikh. Kết quả rối loạn LDL của chúng tôi thấp hơn trong nghiên cứu của Da Cunha, cao hơn trong nghiên cứu Sheikh (8%)(6). Theo kết quả công bố từ các y văn ghi nhận chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về rối loạn lipid máu giữa nhóm mụn và nhóm không mụn. Trong các nghiên cứu về khảo sát nồng độ lipid máu hiếm thấy các nghiên cứu khảo sát tỷ lệ rối loạn lipid chung(2,4) do rối loạn lipid chưa là chỉ dấu đặc hiệu phản ánh mụn trứng cá và cũng chưa tìm thấy các tài liệu y văn chính thống báo cáo về tỷ lệ rối loạn lipid nói chung trên dân số mụn. Nồng độ cholesterol máu tương quan thuận biến với độ tuổi mắc bệnh, nghĩa là độ tuổi mắc bệnh càng lớn thì nồng độ cholesterol càng cao. Đây là mối tương quan với mức độ vừa (r= 0,34) và có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Kết quả này tương đồng với một nghiên cứu về rối loạn lipid trên những bệnh nhân nguy cơ tại bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, tuổi càng cao thì nồng độ cholesterol càng cao, tương tự như vậy nghiên cứu của Lê Thị Ánh Như cho thấy tỷ lệ rối loạn chuyển hóa lipid chung tăng dần theo tuổi, lần lượt là 82,1%, 89,9% và 91,3% ở các nhóm tuổi < 55, 55 – 64, và > 64 tuổi(5). Kết quả phân tích mối tương quan giữa nồng độ Triglyceride máu và chỉ số khối cơ thể ghi nhận có sự tương quan thuận ở mức độ yếu (r= 0,27) giữa nồng độ triglyceride máu với chỉ số khối cơ thể BMI (p< 0,05). Kết quả này cũng phù hợp với y văn, theo nghiên cứu tại bệnh viện Đại học Y Dược thì BMI cao có liên quan đến tình trạng giảm HDLc và tăng triglycerides. Cụ thể, BMI ở những bệnh nhân tăng triglyceride máu là 24,6 trong khi ở những bệnh nhân bình thường chỉ là 23. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu ghi nhận có sự khác biệt nồng độ triglyceride máu theo độ nặng của mụn trứng cá có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Shiekh và cộng sự. Khi tiến hành lượng hóa mối quan hệ khuynh hướng giữa bất thường nồng độ TG và độ nặng ghi nhận có mối liên quan có tính chất khuynh hướng. Đặc biệt độ nặng của bệnh càng tăng thì tỷ lệ bất thường TG càng cao, từ đó gợi ý cần chú ý theo dõi TG trong lâm sàng điều trị mụn. Tuy nhiên, để có thể áp dụng kết quả này trong lâm sàng cần phải tiến hành những nghiên cứu chuyên sâu để tìm hiểu về mối quan hệ tuyến tính giữa hai biến số này. Độ nặng của bệnh càng nặng thì nồng độ HDL máu càng thấp. Kết quả này cho thấy, tình trạng mụn trứng cá càng nặng thì nồng độ HDL càng thấp. Do vậy, khi dựa vào kết quả cận lâm sàng HDL chúng ta có thể tiên lượng về độ nặng cũng như tiến triển lâm sàng của mụn trứng cá. Tuy vậy, cũng cần có nhiều nghiên cứu hoặc các báo cáo hàng loạt ca về mối liên quan này để có thể áp dụng vào thực tiễn lâm sàng. Sự khác biệt nồng độ LDL máu theo giới tính ở bệnh nhân mụn trứng cá có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Điều này có thể được lý giải bởi theo nhiều y văn thì giới nữ có xu hướng bị rối loạn LDL máu cao hơn nam giới. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 106 KẾT LUẬN Bệnh nhân mụn trứng cá có khả năng bất thường nồng độ lipid máu cao. Sự bất thường đã chứng minh trong nghiên cứu này có thể là do các yếu tố khác nhau cần được xem xét trong quá trình sinh bệnh cũng như trong điều trị bệnh nhân mụn trứng cá. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abdel-latif NN, El-Akawi Z, Abdul RK (2007), “The Relationship between Blood Lipids Profile and Acne”, Journal of Health Science, 53(3), pp. 596-599. 2. Arora MK, Seth S, Dayal S (2010), “The relationship of lipid profile and menstrual cycle with acne vulgaris”, ClinBio- chem, 43, pp.1415-20. 3. El-Akawi Z, et al (2007), “The relationship between blood lipid profile and acne”, Journal of health science,53(5), pp. 596- 599. 4. Huỳnh Kim Hiệu (2006), “Đặc điểm lâm sàng và các yếu tố nguy cơ của mụn trứng cá ở phụ nữ trưởng thành”, Luận văn tốt nghiệp y khoa, Đại học Y Dược TP.HCM 5. Luiza A, Da Cunha MG (2015), “Study of lipid profile in adult women with acne”, Dovepress Orginal Research, 8, pp. 449-454. 6. Nguyễn Thị Minh Hồng (2008), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và đánh giá hiệu quả điều trị bệnh trứng cá thông thường bằng vitamin A acide tại viện da liệu quốc gia”, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ chuyên khoa cấp II, Đại học Y Hà Nội. 7. Pappas A, Anthonavage M, Gordon JS (2002), “Metabolic fate and selective utilization of major fatty acids in human sebaceous gland”, Journal of Investigative Dermatology, 118(1), pp. 164-171. 8. Sheikh M, et al (2016), “The relationship between blood lipid profile and acne in non-obese, non-PCOS patients”, International Journal of Contemporary Medical Research, 3(4), pp. 1096-1099. Ngày nhận bài báo: 14/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 28/02/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnong_do_lipid_mau_tren_benh_nhan_mun_trung_ca_thong_thuong_d.pdf
Tài liệu liên quan