Nồng độ Interleukin-12 trong huyết thanh và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến

Tài liệu Nồng độ Interleukin-12 trong huyết thanh và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 46 NỒNG ĐỘ INTERLEUKIN-12 TRONG HUYẾT THANH VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN VẢY NẾN Lê Ngọc Phụng*, Lê Thái Vân Thanh**, Văn Thế Trung** TÓM TẮT Mở đầu: IL-12 đóng vai trò là cytokine tiền viêm trong bệnh vảy nến. Đã có một số nghiên cứu xác định nồng độ IL-12 trong huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến tuy nhiên đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi trong kết quả của các tác giả. Mục tiêu: Xác định nồng độ IL-12 trong huyết thanh và mối liên quan giữa nồng độ IL-12 huyết thanh với đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân vảy nến. Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện để đánh giá nồng độ IL- 12 trong huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến tại bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh, so sánh với nhóm chứng khoẻ mạnh tương đồng về tuổi và giới. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh được đo bằng xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzyme (ELISA). Xác định mối liên quan gi...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nồng độ Interleukin-12 trong huyết thanh và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 46 NỒNG ĐỘ INTERLEUKIN-12 TRONG HUYẾT THANH VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN VẢY NẾN Lê Ngọc Phụng*, Lê Thái Vân Thanh**, Văn Thế Trung** TÓM TẮT Mở đầu: IL-12 đóng vai trò là cytokine tiền viêm trong bệnh vảy nến. Đã có một số nghiên cứu xác định nồng độ IL-12 trong huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến tuy nhiên đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi trong kết quả của các tác giả. Mục tiêu: Xác định nồng độ IL-12 trong huyết thanh và mối liên quan giữa nồng độ IL-12 huyết thanh với đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân vảy nến. Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện để đánh giá nồng độ IL- 12 trong huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến tại bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh, so sánh với nhóm chứng khoẻ mạnh tương đồng về tuổi và giới. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh được đo bằng xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzyme (ELISA). Xác định mối liên quan giữa nồng độ IL-12 huyết thanh với đặc điểm lâm sàng bao gồm thể lâm sàng và mức độ nặng bệnh vảy nến dựa theo chỉ số PASI. Kết quả: Trong 6 tháng, 70 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, trong đó 59 bệnh nhân vảy nến thông thường, 6 bệnh nhân vảy nến đỏ da toàn thân, 5 bệnh nhân viêm khớp vảy nến. Nhóm chứng là 35 người bình thường. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh ở nhóm bệnh vảy nến (10,07 pg/ml) cao hơn so với nhóm người bình thường (7,94 pg/ml) với p=0,02. Trong nhóm bệnh nhân vảy nến, nồng độ IL-12 huyết thanh của nhóm bệnh nhân viêm khớp vảy nến (30,46 pg/ml) cao hơn so với nhóm bệnh nhân vảy nến thông thường (9,15 pg/ml) với p<0,001 và nhóm bệnh nhân vảy nến đỏ da toàn thân (6,73 pg/ml) với p=0,03. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh có tương quan thuận với PASI (Spearman rho=0,385, p=0,003). Kết luận: Nồng độ IL-12 trong huyết thanh của bệnh nhân vảy nến cao hơn so với nhóm người bình thường. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh có mối tương quan thuận với chỉ số PASI. Từ khóa: Interleukin-12, PASI, vảy nến. ABSTRACT SERUM LEVELS OF INTERLEUKIN-12 AND ITS RELATION TO CLINICAL CHARACTERISTICS IN PSORIATIC PATIENTS Le Ngoc Phung, Le Thai Van Thanh, Van The Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 1- 2018: 46 – 51 Background: Interleukin-12 (IL-12) plays a role of proinflammatory cytokine in psoriasis. There have been many studies determining the serum levels of this cytokine in psoriatic patients but with conflicting results. Objectives: To evaluate serum levels of IL-12 and to assess the relation of these levels to clinical characteristics in psoriatic patients. Participant and Method: A cross-sectional study was performed to assess the serum IL-12 levels of psoriatic patients at Ho Chi Minh City Hospital of Dermato Venereology, in comparison with age and sex- * Học viên Cao học - Bộ môn Da Liễu – ĐHYD TP.HCM ** Bộ môn Da Liễu – ĐHYD TP.HCM Tác giả liên lạc: TS. BS Lê Thái Vân Thanh ĐT: 0903774310 Email: chamsocdadhyd@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học 47 matched healthy controls. Serum IL-12 levels were measured by an enzyme-linked immunosorbent assay (ELISA). Clarifying the relation between serum levels of IL-12 and clinical characteristics including clinical classification and disease severity represented by the Psoriasis Area and Severity Index (PASI). Results: In 6 months, 70 psoriatic patients were enrolled, including 59 psoriasis vulgaris patients, 6 erythrodermic psoriasis patients and 5 psoriatic arthritis patients. There were 35 healthy controls. Median serum IL-12 levels were significantly increased in psoriatic patients as compared with controls (10.07 pg/ml versus 7.94 pg/ml, respectively) (p=0.02). In patients with psoriatic arthritis, IL-12 levels were markedly elevated (30.46 pg/ml), compared with patients with psoriasis vulgaris (9.15 pg/ml) (p<0.001) and patients with erythrodermic psoriasis (6.73 pg/ml) (p=0.03). Serum IL-12 levels were positively correlated with PASI (Spearman r=0.385, p=0.003). Conclusion: We found that serum IL-12 levels of psoriatic patients were significantly higher than those of controls. Serum levels of IL-12 were positively correlated with PASI scores. Keywords: Interleukin-12, PASI, psoriasis ĐẶT VẤN ĐỀ Vảy nến là một bệnh da mạn tính thường gặp ở Việt Nam và các nước trên thế giới. Tỷ lệ bệnh chiếm khoảng 2%-3% dân số toàn cầu và có sự khác nhau tùy từng khu vực(6). Mặc dù có nhiều vấn đề chưa hiểu rõ trong cơ chế sinh bệnh của bệnh vảy nến, nhưng với tiến bộ của nền y học hiện nay đã chỉ ra vai trò thiết yếu của cytokine trong bệnh vảy nến. Trong các cytokine, IL-12 góp phần quan trọng vào quá trình miễn dịch, kích hoạt một chuỗi hoạt động tạo ra các cytokine và chemokine(8). Nhiều nghiên cứu về IL-12 đã được báo cáo trên thế giới nhưng có rất nhiều tranh cãi trong kết luận của các nghiên cứu này. Tại Việt Nam, thuốc sinh học nhắm vào IL-12 như ustekinumab, một loại thuốc-kháng thể đơn dòng nhắm vào trục IL-12/IL-23, đã được lưu hành khá phổ biến(11). Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào xác định nồng độ IL-12 cũng như mối liên quan của IL-12 với đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân Việt Nam mắc bệnh vảy nến. Chính vì vậy, việc xác định nồng độ IL-12 và mối liên quan của IL-12 với đặc điểm lâm sàng là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện để đánh giá nồng độ IL-12 trong huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến đến khám và điều trị tại bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu chọn nhóm bệnh là những bệnh nhân ≥18 tuổi đến khám nội trú, ngoại trú có bệnh vảy nến thông thường, viêm khớp vảy nến, vảy nến đỏ da toàn thân đồng ý tham gia nghiên cứu. Nhóm chứng là những người khỏe mạnh ≥18 tuổi tình nguyện tham gia vào nghiên cứu và tiền sử gia đình không mắc bệnh vảy nến. Chúng tôi dự trù cỡ mẫu nghiên cứu cho nhóm bệnh là 66 người và nhóm chứng là 33 người dựa theo nghiên cứu của Takahashi H. và các cộng sự(9). Các bệnh nhân được hỏi bệnh sử và thăm khám để ghi nhận thông tin dịch tể và lâm sàng. Sau đó nhóm bệnh và nhóm chứng được lấy máu xét nghiệm định lượng nồng độ IL-12 huyết thanh. Nồng độ IL-12 trong huyết thanh được đo bằng xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzyme (ELISA). Chỉ số PASI dựa vào các yếu tố chính là hồng ban, dày da và tróc vảy của tổn thương theo thang điểm 0-4 (0: không ảnh hưởng, 1: nhẹ, 2: vừa, 3: nặng, 4: rất nặng) và diện tích từng phần cơ thể bị tổn thương theo thang điểm 0-6 (0%: 0, 1-9%: 1, 10-29%: 2, 30-49%: 3, 50-69%: 4, 70-89%: 5, 90-100%: 6). PASI đánh giá trên bốn phần chính của cơ thể là vùng đầu, chi trên, thân, chi dưới với diện tích từng phần tương đương lần lượt là 10%, 20%, 30%, 40%. Chỉ số PASI thay đổi từ 0-72, chỉ số càng cao mức độ bệnh càng nặng. PASI được phân độ như sau: nhẹ PASI20. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 48 Dữ liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 18.0. Sử dụng kiểm định Chi-square để so sánh tỷ lệ. Dùng kiểm định t so sánh hai trung bình. Sử dụng kiểm định Spearman để đánh giá mối tương quan giữa hai biến số liên tục không có phân phối chuẩn. KẾT QUẢ Đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của đối tượng nghiên cứu Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ học của nhóm bệnh nhân vảy nến n Tỷ lệ % Nam 36 51,4 Nữ 34 48,6 Tổng 70 100 Kết quả nghiên cứu cho thấy trong các bệnh nhân vảy nến, tỷ lệ nam (51,4%) cao hơn nữ (48,6%). Bảng 2: So sánh về giới và tuổi giữa nhóm bệnh nhân vảy nến và nhóm người bình thường Nhóm bệnh vảy nến Nhóm bình thường p Nam 36 (51,4%) 16 (45,7%) 0,581 (1) Nữ 34 (48,6%) 19 (54,3%) Tuổi trung bình 47,30±14,36 46,97±14,24 0,912 (2) (1) phép kiểm Chi-square (2) phép kiểm t Nhóm bệnh nhân vảy nến có tỷ lệ nam (51,4%) cao hơn so với nữ (48,6%), ngược lại nhóm người bình thường có tỷ lệ nữ (54,3%) cao hơn so với nam (45,7%), tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,581). Tuổi trung bình của nhóm bệnh vảy nến (47,30±14,36) cao hơn so với nhóm người bình thường (46,97±14,24) và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p=0,912. Bảng 3: Phân bố theo thời gian bị bệnh của bệnh nhân vảy nến Thời gian bị bệnh (năm) n Tỷ lệ % <5 22 31,4 5-10 21 30,0 >10 27 38,6 Tổng 70 100 Trong mẫu nghiên cứu, nhóm bệnh nhân mắc bệnh trên 10 năm chiếm tỷ lệ cao nhất với 38,6%. Thời gian mắc bệnh trung bình là 10 năm, dao động từ ít nhất 1 năm đến lâu nhất là 45 năm. Bảng 4: Phân bố theo thể lâm sàng bệnh vảy nến Thể lâm sàng n Tỷ lệ % Vảy nến thông thường 59 84,3 Vảy nến đỏ da toàn thân 6 8,6 Viêm khớp vảy nến 5 7,1 Tổng 70 100 Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong nhóm bệnh vảy nến đa số là vảy nến thông thường chiếm tỷ lệ 84,3%, kế đến là vảy nến đỏ da toàn thân (8,6%), thấp nhất là viêm khớp vảy nến (7,1%). Bảng 5: Độ nặng bệnh vảy nến theo phân độ PASI PASI n Tỷ lệ % Nhẹ (PASI<10) 15 25,4 Trung bình (10≤PASI≤20) 26 44,1 Nặng (PASI>20) 18 30,5 Tổng 59 100 Trong nhóm bệnh nhân vảy nến, đa số ở mức độ bệnh trung bình (44,1%) và mức độ bệnh nặng (30,5%). Nồng độ IL-12 trong huyết thanh Bảng 6: Nồng độ IL-12 huyết thanh của nhóm bệnh vảy nến và nhóm người bình thường Nồng độ IL-12 (pg/ml) p (1) Trung vị Thấp nhất Cao nhất Nhóm bệnh vảy nến 10,07 5,38 35,38 0,02 Nhóm bình thường 7,94 5,36 24,75 (1) phép kiểm Mann-Whitney Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm bệnh vảy nến có nồng độ IL-12 huyết thanh cao hơn so với nhóm người bình thường, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,02. Ngoài ra, có ít nhất 18,6% bệnh nhân vảy nến có nồng độ IL-12 huyết thanh cao hơn mức nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình của nhóm người bình thường. Bảng 7: So sánh nồng độ IL-12 giữa các thể lâm sàng của nhóm bệnh nhân vảy nến và nhóm người bình thường So sánh nồng độ IL-12 huyết thanh p (1) Nhóm bình thường so với Vảy nến thông thường 0,030 Nhóm bình thường so với Viêm khớp vảy nến <0,001 Nhóm bình thường so với Vảy nến đỏ da toàn thân 0,396 (1) phép kiểm Mann-Whitney Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học 49 Nồng độ IL-12 huyết thanh ở nhóm người bình thường thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh vảy nến thông thường và nhóm bệnh viêm khớp vảy nến (với p lần lượt là 0,030 và <0,001), cao hơn không có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh vảy nến đỏ da toàn thân (p=0,396). Mối liên quan giữa nồng độ IL-12 huyết thanh với đặc điểm dịch tễ và lâm sàng của bệnh nhân vảy nến Bảng 8: Nồng độ IL-12 huyết thanh theo tuổi khởi phát Tuổi khởi phát Nồng độ IL-12 (pg/ml) p (1) Trung vị Thấp nhất Cao nhất 0,508 ≤40 14,81 5,38 35,38 >40 8,99 5,38 33,33 ≤30 7,53 5,38 31,97 0,164 >30 12,68 5,38 35,38 (1) phép kiểm Mann-Whitney Nhóm bệnh khởi phát trước 40 tuổi có nồng độ IL-12 huyết thanh cao hơn so với nhóm bệnh khởi phát sau 40 tuổi, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,508). Tương tự, sự khác biệt về nồng độ IL-12 huyết thanh giữa nhóm bệnh khởi phát trước 30 tuổi và sau 30 tuổi không có ý nghĩa thống kê (p=0,164). Bảng 9: Nồng độ IL-12 huyết thanh theo thời gian bị bệnh Thời gian bệnh (năm) Nồng độ IL-12 (pg/ml) p (1) Trung vị Thấp nhất Cao nhất 0,763 ≤10 9,15 5,92 33,76 >10 12,68 5,38 35,38 ≤5 15,92 5,92 33,76 0,076 >5 8,61 5,38 35,38 (1) phép kiểm Mann-Whitney Nhóm bị bệnh vảy nến trên 10 năm có nồng độ IL-12 huyết thanh cao hơn so với nhóm bị bệnh vảy nến dưới 10 năm, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,763). Tương tự, sự khác biệt về nồng độ IL-12 huyết thanh giữa nhóm bị bệnh vảy nến trên 5 năm và dưới 5 năm không có ý nghĩa thống kê (p=0,076). Bảng 10: Nồng độ IL-12 huyết thanh giữa các thể lâm sàng Nồng độ IL-12 (pg/ml) Trung vị p (1) Vảy nến thông thường 9,15 0,001 Vảy nến đỏ da toàn thân 6,73 Viêm khớp vảy nến 30,46 (1) phép kiểm Kruskal-Wallis Trong nhóm bệnh nhân vảy nến, nhóm viêm khớp vảy nến có nồng độ IL-12 huyết thanh cao nhất. Sự khác biệt về nồng độ IL-12 huyết thanh giữa các nhóm lâm sàng có ý nghĩa thống kê với p=0,001. Bảng 11: Nồng độ IL-12 huyết thanh theo độ nặng bệnh vảy nến (theo phân độ PASI) Mức độ bệnh Nồng độ IL-12 (pg/ml) Trung vị p (1) Nhẹ (PASI<10) 7,92 0,016 Trung bình (10≤PASI≤20) 8,77 Nặng (PASI>20) 17,26 (1) phép kiểm Kruskal-Wallis Nồng độ IL-12 huyết thanh cao nhất ở nhóm bệnh mức độ nặng và thấp nhất ở nhóm bệnh mức độ nhẹ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,016. Bảng 12: So sánh nồng độ IL-12 huyết thanh giữa từng cặp độ nặng bệnh vảy nến (theo phân độ PASI) So sánh nồng độ IL-12 huyết thanh p (1) Nhẹ so với Trung bình 0,301 Nặng so với Nhẹ 0,02 Nặng so với Trung bình 0,013 (1) phép kiểm Mann-Whitney Biểu đồ 1: Mối tương quan giữa nồng độ IL-12 huyết thanh với chỉ số PASI Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 50 Nồng độ IL-12 huyết thanh ở nhóm bệnh mức độ nặng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh mức độ nhẹ và trung bình (với p lần lượt là 0,02 và 0,013). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh mức độ nhẹ và nhóm bệnh mức độ trung bình (p=0,301). Nồng độ IL-12 huyết thanh có mối tương quan tuyến tính thuận mức độ vừa với chỉ số PASI (rho=0,385), sự tương quan có ý nghĩa thống kê (p=0,003). BÀN LUẬN Nồng độ IL-12 huyết thanh ở nhóm bệnh nhân có tuổi khởi phát bệnh trước 40 tuổi cao hơn so với nhóm bệnh nhân khởi phát bệnh sau 40 tuổi, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,508). Tương tự như vậy, khi so sánh nồng độ IL-12 huyết thanh giữa nhóm bệnh nhân khởi phát trước 30 tuổi và khởi phát sau 30 tuổi, chúng tôi cũng không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,164). Theo Fitzpatrick(4), bệnh càng khởi phát sớm, diễn biến bệnh càng dai dẳng kéo dài, biểu hiện lâm sàng càng nặng nề, các phản ứng viêm trong cơ thể càng tăng và mạnh mẽ, theo đó các cytokine cũng tăng cao. Một nghiên cứu Phạm Ngọc Trâm(10) về nồng độ IL-17 trong huyết thanh của bệnh nhân vảy nến đã ghi nhận nồng độ cytokine này ở nhóm bệnh nhân có thời gian khởi phát bệnh sớm trước 40 tuổi cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân có thời gian khởi phát bệnh muộn sau 40 tuổi. Bệnh nhân bị bệnh dài hơn 10 năm có nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình cao hơn so với nhóm bệnh nhân bị bệnh ngắn hơn 10 năm, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,763). Kết quả của chúng tôi khác biệt với kết quả của Attalah và các cộng sự(2), họ ghi nhận được nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình của nhóm bệnh nhân bị bệnh trên 10 năm là 39,26±11,11 pg/ml, của nhóm bệnh nhân bị bệnh dưới 10 năm là 34,09±13,65 pg/ml, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,026). Chúng tôi cũng tiến hành so sánh nồng độ IL-12 huyết thanh giữa nhóm bệnh nhân bị bệnh ngắn hơn 5 năm và dài hơn 5 năm nhưng không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,076). Theo y văn, bệnh vảy nến diễn tiến càng lâu, các rối loạn miễn dịch càng trầm trọng và gây ra càng nhiều hậu quả nặng nề, cho chúng tôi gợi ý có khả năng IL-12 huyết thanh sẽ tăng cao ở những đối tượng bệnh nhân có thời gian mắc bệnh càng lâu. Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi lại không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa, có thể vì chúng tôi chưa có khả năng đánh giá toàn diện IL-12 trong mô tổn thương bằng các phương pháp xét nghiệm khác và cỡ mẫu của chúng tôi chưa đủ lớn để tìm ra sự khác biệt. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận kết quả nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình của nhóm bệnh nhân vảy nến là 10,07 (5,38-35,38) pg/ml, cao hơn so với nhóm người bình thường là 7,94 (5,36-24,75) pg/ml. Kết quả này tương đương với nghiên cứu của Borska L. và các cộng sự(3) với nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình của nhóm bệnh nhân là 30,9±5,4 pg/ml, nhóm người bình thường là 24,53±1,1 pg/ml. Khác với nghiên cứu của tác giả Sharon E. Jacob và các cộng sự(5) với nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình ở nhóm bệnh nhân là 8,5±1,2 pg/ml, thấp hơn so với nhóm người bình thường là 42,2±5,3 pg/ml. Điều này có thể do việc sử dụng hóa chất, các bộ kit đo lường khác nhau, cách chọn mẫu khác nhau giữa các nghiên cứu đã gây ra sự chênh lệch này. Nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình giữa nhóm người bình thường thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm bệnh nhân vảy nến thông thường và viêm khớp vảy nến. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Attalah và các cộng sự(2). Có thể do viêm khớp vảy nến là một thể lâm sàng nặng với những tổn thương và biến chứng ở khớp, do đó tại các khớp diễn ra quá trình viêm dữ dội dẫn đến nồng độ một số cytokine trong đó có IL-12 có thể tăng khá cao trong huyết thanh. Chúng tôi ghi nhận nồng độ IL-12 huyết thanh trung bình của nhóm bệnh vảy nến đỏ da toàn thân thấp hơn so với nhóm người bình thường, mặc dù sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,396), kết quả này Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học 51 gợi ý về vai trò của những yếu tố cytokine khác trong sinh bệnh học vảy nến đỏ da toàn thân. Ngoài ra, chúng tôi chưa tìm thấy nghiên cứu nào khác có những so sánh tương tự nên chưa thể có dữ liệu để tiến hành đối chiếu. Nhóm bệnh nhân có mức độ bệnh nặng có nồng độ IL-12 huyết thanh cao nhất và thấp nhất là nhóm bệnh nhân có mức độ bệnh nhẹ, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,016). Nhóm bệnh nhân ở mức độ bệnh nặng có nồng độ IL- 12 huyết thanh cao hơn có ý nghĩa thống kê (p=0,006) so với nhóm bệnh nhân ở mức độ bệnh nhẹ và trung bình. Nghiên cứu của tác giả Attalah và các cộng sự cho kết quả tương tự nghiên cứu của chúng tôi(2). Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận nồng độ IL-12 huyết thanh có mối tương quan thuận mức độ vừa với chỉ số PASI (rho=0,385 và p=0,003). Tương tự với kết quả nghiên cứu của Takahashi H. và các cộng sự(9) cũng ghi nhận mối tương quan thuận mức độ vừa (r=0,444 và p=0,0003), nghiên cứu của Ozer Arican và các cộng sự(1) cũng ghi nhận nồng độ IL-12 huyết thanh có mối tương quan thuận mức độ rất chặt chẽ (r=0,93 và p<0,05). Tuy nhiên, một số nghiên cứu cũng cho thấy không có mối tương quan giữa nồng độ IL- 12 huyết thanh và chỉ số PASI, như nghiên cứu của Aikaterini Kyriakou và các cộng sự(7) (rho=0,167 và p= 0,36) và nghiên cứu của Attalah và các cộng sự(2) (r= -0,11 và p>0,05). KẾT LUẬN Nồng độ IL-12 trong huyết thanh của bệnh nhân vảy nến cao hơn so với nhóm người khỏe mạnh bình thường. Nhóm viêm khớp vảy nến có nồng độ IL-12 cao hơn so với nhóm vảy nến đỏ da toàn thân và vảy nến thông thường. Nồng độ IL-12 huyết thanh có mối tương quan thuận với chỉ số PASI. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Arican O, al et (2005) "Serum Levels of TNF-α, IFN-γ, IL-6, IL- 8, IL-12, IL-17, and IL-18 in Patients With Active Psoriasis and Correlation With Disease Severity". Mediators of Inflammation. Hindawi Publishing Corporation, 273-279. 2. Attallah DA, al et (2016) "Serum levels of IL-12 and IL-23 in psoriatic patients with or without concomitant hepatitis C: a comparative study". Journal of the Egyptant Women’s Dermatologic Society, 13 (2), 71-76. 3. Borska L, al et (2008) "Serum levels of the pro-inflammatory cytokine interleukin-12 and the anti-inflammatory cytokine interleukin-10 in patients with psoriasis treated by the Goeckerman regimen". Int J Dermatol, 800-805. 4. Gudjonsson EJ, Elder JT (2012) "Psoriasis". Fitzpatrick’s Dermatology in General Medicine 8th edition, McGraw-Hill, 197- 231. 5. Jacob SE, al et (2003) "Simultaneous measurement of multiple Th1 and Th2 serum cytokines in psoriasis and correlation with disease severity". Mediators of Inflammation, 12 (5), 309-313. 6. King-man HO (2010) "Psoriasis Medical Bulletin". The Hong Kong Medical Diary, 15 (5), 10-14. 7. Kyriakou A, al et (2014) "Serum levels of TNF-α, IL-12/23p40, and IL-17 in plaque psoriasis and their correlation with disease severity". Journal of Immunology Research, 1-9. 8. Patterson J. W (2016) "Psoriasis". Weedon’s Skin Pathology 4th edition., Churchill Livingstone, 82-89. 9. Takahashi H, al et (2010) "Serum cytokines and growth factor levels in Japanese patients with psoriasis". Clin Exp Dermatol, 35 (6), 645-649. 10. Phạm Ngọc Trâm (2014) Nồng độ interleukin-17 trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến tại bệnh viện Da Liễu thành phố Hồ Chí Minh từ 01/10/2013 đến 30/04/2014, Luận văn thạc sĩ y học, Trường Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, 11. Yeilding N, al et (2011) "Development of the IL-12/23 antagonist ustekinumab in psoriasis: past, present, and future perspectives". Ann NY Acad Sci, 1222, 30-39. Ngày nhận bài báo: 14/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 28/02/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnong_do_interleukin_12_trong_huyet_thanh_va_moi_lien_quan_vo.pdf
Tài liệu liên quan