Nội soi nong bóng điều trị hẹp niệu quản phức tạp: Kết quả sớm qua 15 trường hợp

Tài liệu Nội soi nong bóng điều trị hẹp niệu quản phức tạp: Kết quả sớm qua 15 trường hợp: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 126 NỘI SOI NONG BÓNG ĐIỀU TRỊ HẸP NIỆU QUẢN PHỨC TẠP: KẾT QUẢ SỚM QUA 15 TRƯỜNG HỢP Võ Xuân Huy*, Đỗ Anh Toàn*,**, Ngô Xuân Thái*, Nguyễn Tuấn Vinh**, Nguyễn Ngọc Thái*, Nguyễn Văn Khoa* TÓM TẮT Mục tiêu: Nội soi nong niệu quản bằng bóng trong điều trị hẹp niệu quản phức tạp là phương pháp dễ thực hiện, đường cong học tập ngắn, chi phí thấp, thời gian nằm viện ngắn, tỷ lệ thành công cao và rất ít biến chứng. Chúng tôi đã triển khai kỹ thuật này tại bệnh viện Bình Dân và báo cáo những kết quả ban đầu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân hẹp niệu quản phức tạp được nội soi nong bóng tại bệnh viện Bình Dân trong khoảng thời gian từ tháng 4/2017 đến tháng 4/2019. Nghiên cứu mô tả hàng loạt trường hợp (case series). Kết quả: Mẫu nghiên cứu có 15 trường hợp. Tuổi trung bình: 44,2 ± 17,07 tuổi. Tỷ lệ nam/ nữ = 8/7. Bệnh nhân đều có tiền sử phẫu thuật trước...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nội soi nong bóng điều trị hẹp niệu quản phức tạp: Kết quả sớm qua 15 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 126 NỘI SOI NONG BÓNG ĐIỀU TRỊ HẸP NIỆU QUẢN PHỨC TẠP: KẾT QUẢ SỚM QUA 15 TRƯỜNG HỢP Võ Xuân Huy*, Đỗ Anh Toàn*,**, Ngô Xuân Thái*, Nguyễn Tuấn Vinh**, Nguyễn Ngọc Thái*, Nguyễn Văn Khoa* TÓM TẮT Mục tiêu: Nội soi nong niệu quản bằng bóng trong điều trị hẹp niệu quản phức tạp là phương pháp dễ thực hiện, đường cong học tập ngắn, chi phí thấp, thời gian nằm viện ngắn, tỷ lệ thành công cao và rất ít biến chứng. Chúng tôi đã triển khai kỹ thuật này tại bệnh viện Bình Dân và báo cáo những kết quả ban đầu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân hẹp niệu quản phức tạp được nội soi nong bóng tại bệnh viện Bình Dân trong khoảng thời gian từ tháng 4/2017 đến tháng 4/2019. Nghiên cứu mô tả hàng loạt trường hợp (case series). Kết quả: Mẫu nghiên cứu có 15 trường hợp. Tuổi trung bình: 44,2 ± 17,07 tuổi. Tỷ lệ nam/ nữ = 8/7. Bệnh nhân đều có tiền sử phẫu thuật trước đó. Trong đó số lượng bệnh nhân đã phẫu thuật trên đường tiết niệu nhiều nhất 88,89%, 11,11% bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật sản phụ khoa. Có bệnh nhân đã phẫu thuật trên đường tiết niệu nhiều lần. Bệnh nhân được tán sỏi nội soi chiếm tỷ lệ cao nhất 50%. Vị trí hẹp niệu quản chủ yếu là ở 1/3 giữa và 1/3 trên (87,5%). Hẹp ở 1/3 dưới là 12,5%. Chiều dài đoạn hẹp trung bình là 1,5 ±0,73cm, ngắn nhất là 0,5cm, dài nhất là 3cm. Trong đó hẹp =2cm là 25%. Tất cả bệnh nhân đều phát hiện ứ nước cùng bên tổn thương. Ứ nước độ II chiếm đa số 62,5%. Ứ nước độ III chiếm 25%, ứ nước độ I chiếm 12,5%. Thời gian phẫu thuật trung bình là 66,93 ± 18,08 phút, ngắn nhất là 40 phút và dài nhất là 100 phút. Tỷ lệ thành công về kỹ thuật: 100% (16/16). Tỷ lệ thành công sau rút thông JJ 1 tháng: 84,62% (11/13). Tỷ lệ thành công sau rút thông JJ 3 tháng: 81,81% (9/11). Kết luận: Điều trị hẹp niệu quản bằng phương pháp nội soi nong bóng có tỷ lệ thành công cao, dễ thực hiện, đường cong học tập ngắn với ít biến chứng và chi phí điều trị thấp hơn. Đặc biệt trên những bệnh nhân có nhiều nguy cơ phẫu thuật, tiên lượng cuộc mổ mở tạo hình khó khăn vì vết mổ cũ, bệnh nhân có chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng nặng nề vì hẹp niệu quản tái phát, phương pháp này sẽ là một cứu cánh và nên được cân nhắc là phương pháp tiếp cận ban đầu. Từ khoá: hẹp niệu quản, nội soi nong bóng ABSTRACT BALLOON DILATATION IN THE TREATMENT OF COMPLEX URETERAL STRICTURES: INITIAL RESULTS OF 15 PATIENTS Vo Xuan Huy, Do Anh Toan, Ngo Xuan Thai, Nguyen Tuan Vinh, Nguyen Ngoc Thai, Nguyen Van Khoa * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 126 - 131 Objectives: Balloon dilation in treatment of complex ureteral strictures is easy to perform, has a short learning curve with fewer complications, short hospitalization and lower cost. We report the initial results of this technique at Binh Dan hospital. Materials and methods: A case series was performed on patients with complex ureteral strictures who had *Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh **Bệnh viện Bình Dân Tác giả liên lạc: TS.BS. Đỗ Anh Toàn ĐT: 0983707036 Email: doanhtoan2004@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 127 undergone balloon dilation from April 2017 to April 2019 at Binh Dan hospital. Results: Sixteen ureteral strictures in fifteen (8 male, 7 female) patients were consecutively treated by balloon dilation. The mean age was 44.2 ± 17.07 years. All patients had developed strictures after a combination of surgery: 14 strictures (88.89%) after urological surgery and 2 strictures (11.11%) after gynecological surgery. Stricture after endoscopic lithotripsy had 50 % of all. The location of strictures was major in proximal and middle ureter (87.5%). 12.5% stricture was distal ureter. The mean length of stricture was 1.5 ± 0.73cm. All patients had ipsilateral hydronephrosis: 2 Grade I (12.5%), 10 Grade II (62.5%) and 4 Grade III (25%). The mean procedural time was 66.93 ± 18.08 minutes (range, 40 - 100 minutes). The technical success rate was 100%. The success rate after 1 month and 3 months withdrawing ureteral stent was 84.62 % and 81.81%, respectively. Conclusions: Balloon dilation in treatment of complex ureteral strictures is easy to perform, has a short learning curve with fewer complications, short hospitalization and lower cost. Especially for patients who had serious combined morbidities, recurrent stricture, this procedure is recommended as an effective first line treatment. Key words: ureteral strictures, balloon dilation ĐẶT VẤN ĐỀ Hẹp niệu quản là tình trạng hẹp khẩu kính của lòng niệu quản do nhiều bệnh khác nhau gây ra và dẫn tới tắc nghẽn đường tiết niệu trên(8,18). Những nguyên nhân phổ biến nhất của hẹp niệu quản bao gồm thiếu máu nuôi niệu quản, những chấn thương do phẫu thuật và không do phẫu thuật, xơ hoá quanh niệu quản, bệnh lý ác tính, và bẩm sinh(4). Mặc dù tỷ lệ mắc của bệnh lý hẹp niệu quản trong dân số chung là không rõ, nhưng rõ ràng sự hiện diện của sỏi niệu quản và những can thiệp điều trị liên quan đến sỏi là những yếu tố nguy cơ. Sự ra đời của những thủ thuật nội soi niệu quản đã dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh hẹp niệu quản cao hơn(1,19). Hẹp niệu quản làm cản trở sự lưu thông bình thường của dòng nước tiểu từ thận xuống bàng quang và gây nên nhiều biến chứng nguy hiểm như đau mỏi thắt lưng kéo dài, thận ứ nước, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, viêm đài bể thận, thận ứ mủ và cuối cùng là gây nên suy thận. Do đó việc đánh giá và điều trị đúng là rất quan trọng(4). Mục tiêu của điều trị hẹp niệu quản là giải phóng tắc nghẽn và bảo tồn chức năng thận(4). Cho tới nay có nhiều phương pháp khác nhau để điều trị hẹp niệu quản. Trong đó, mổ hở tạo hình được xem là tiêu chuẩn vàng, nhưng nó là phẫu thuật xâm lấn đáng kể, có thể gây ra nhiều biến chứng, kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị(16,18). Ngày nay, sự ứng dụng rộng rãi những kỹ thuật nội soi trong chuyên ngành tiết niệu đã cho phép điều trị hẹp niệu quản bằng các phương pháp xâm lấn tối thiểu như: nội soi đặt thông niệu quản, nội soi nong bằng bong bóng, nội soi xẻ hẹp niệu quản. Những kỹ thuật nội soi đã mang đến những lựa chọn điều trị hiệu quả và ít xâm lấn(4,16). Tuy nhiên, việc điều trị hẹp niệu quản phức tạp vẫn đang là 1 thách thức lớn trên bệnh nhân đã phẫu thuật tiết niệu nhiều lần, bệnh nhân lớn tuổi nhiều bệnh kèm theo có nguy cơ phẫu thuật cao, bệnh nhân có chất lượng cuộc sống giảm nặng vì hẹp niệu quản tái phát, nhiễm khuẩn đường tiết niệu,... Trong những trường hợp đó, nội soi nong niệu quản bằng bóng so với các phương pháp khác là dễ thực hiện, đường cong học tập ngắn, chi phí thấp, thời gian nằm viện ngắn, tỷ lệ thành công cao và rất ít biến chứng(12). Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi đã triển khai kỹ thuật nội soi nong bóng điều trị hẹp niệu quản phức tạp và báo cáo những kết quả ban đầu. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân hẹp niệu quản được chẩn đoán, điều trị và theo dõi tại bệnh viện Bình Dân Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ tháng 4/2017 đến tháng 4/2019. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 128 Tiêu chuẩn chọn bệnh Các bệnh nhân được chẩn đoán hẹp niệu quản lành tính hoặc mắc phải trước hoặc trong mổ ở tất cả các vị trí niệu quản. Tiêu chuẩn loại trừ Ung thư niệu quản, ung thư xâm lấn niệu quản gây các biến chứng hẹp niệu quản. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả hàng loạt trường hợp (case series). Các bước thực hiện Đánh giá trước mổ Bệnh nhân được làm đầy đủ các xét nghiệm cơ bản, đánh giá chức năng thận hai bên và tình trạng nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Siêu âm, chụp cắt lớp vi tính hệ tiết niệu để chẩn đoán xác định, đặc điểm, nguyên nhân bệnh lý hẹp niệu quản. Người bệnh được chuẩn bị trước phẫu thuật theo quy trình thống nhất: nhịn ăn, vệ sinh vùng phẫu thuật và toàn thân. Có thể dùng kháng sinh dự phòng trước mổ hoặc không tùy theo chỉ định. Dụng cụ phẫu thuật 1 dây dẫn (guidewire) mềm hydrophylic, 2 guidewire cứng PTFE, 2 micro guidewire. 1 thông niệu quản 6Fr hoặc 7 Fr. 1 bóng nong mạch máu ngoại biên passeo 35. 2 thông double J 5Fr hoặc 6Fr. 1 thông Foley niệu đạo 16 Fr. 1 bộ bơm xả áp lực bóng. Kỹ thuật mổ Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, nằm tư thế sản phụ khoa. Đưa máy soi vào bàng quang xác định vị trí 2 lỗ niệu quản. Đưa máy soi lên niệu quản cần can thiệp dưới hướng dẫn của guidewire mềm đến dưới đoạn hẹp. Chụp niệu quản bể thận ngược dòng bằng thuốc cản quang, quan sát trên màn hình C-arm xác định vị trí, chiều dài đoạn hẹp. Đánh dấu đoạn hẹp trên màn hình C-arm (Hình 1). Hình 1: Hình ảnh chụp niệu quản bể thận ngược dòng xác định chiều dài và vị trí hẹp niệu quản Đưa bóng nong theo micro guidewire lên niệu quản, qua chỗ hẹp sao cho đoạn hẹp đã đánh dấu trên màn hình nằm giữa vị trí 2 marker của bóng. Sau đó bóng được bơm dưới áp lực từ 10-14 Atm. Đoạn hẹp sẽ bung ra đều theo chu vi niệu quản, quan sát thấy chỗ hẹp ‘thắt eo’ biến mất trên màn hình C-arm (Hình 2). Hình 2: Hình ảnh chỗ hẹp “thắt eo” biến mất trên màn hình C-arm Khi đó, giữ áp lực bóng 5 phút rồi xả bóng. Rút bóng ra ngoài cơ thể. Đặt 2 thông double J. Kiểm tra thấy thông double J đúng vị trí (Hình 3). Rút máy soi niệu quản. Đặt thông Foley niệu đạo lưu. Kết thúc phẫu thuật. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 129 Hình 3: Hình ảnh đặt 2 thông double JJ sau nong bóng Điều trị và theo dõi sau mổ Rút thông tiểu ở hậu phẫu ngày 1. Hậu phẫu ngày 2 cho bệnh nhân xuất viện. Rút thông double J sau 2 tháng. Tái khám sau rút thông double J 1 tháng và 3 tháng. Xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu, urê, creatinin, tổng phân tích nước tiểu. siêu âm bụng tổng quát, chụp cắt lớp vi tính hệ tiết niệu (khi cần thiết) mỗi lần tái khám. Đánh giá kết quả dựa vào triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng. KẾT QUẢ Bảng 1: Nhóm tuổi + giới Tuổi Nam Nữ Tần suất Tỷ lệ Dưới 30 tuổi 2 2 4 26,67% 30 – 60 tuổi 6 4 10 66,67 % Trên 60 tuổi 0 1 1 6,66% Tổng 8 7 15 100% Tuổi trung bình: 44,2 ± 17,07 tuổi, nhỏ nhất 15 tuổi, lớn nhất 70 tuổi. Số lượng nam nhiều hơn nữ, nam/ nữ = 8/7 Khi đó, giữ áp lực bóng 5 phút rồi xả bóng. Rút bóng ra ngoài cơ thể. Đặt 2 thông double J. Kiểm tra thấy thông double J đúng vị trí (Bảng 1). Bệnh nhân đều có tiền sử phẫu thuật trước đó. Trong đó số lượng bệnh nhân đã phẫu thuật trên đường tiết niệu nhiều nhất 88,89%. 11,11% bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật sản phụ khoa. Trong đó có bệnh nhân đã phẫu thuật trên đường tiết niệu nhiều lần. Bệnh nhân được tán sỏi nội soi chiếm tỷ lệ cao nhất 50% (Bảng 2). Bảng 2: Tiền sử bệnh Loại phẫu thuật cụ thể Tần suất Tỷ lệ Tiết niệu Nội soi tán sỏi niệu quản ngược dòng 9 88,89% Nội soi hông lưng lấy sỏi 2 Mổ hở tạo hình khúc nối bể thận – niệu quản 1 Xẻ hẹp khúc nối bể thận – niệu quản nội soi 1 Nội soi hông lưng tạo hình khúc nối bể thận – niệu quản 1 Mổ mở lấy sỏi thận 2 Sản phụ khoa Mổ mở cắt tử cung + xạ trị 1 11,11% Mổ mở thai ngoài tử cung 1 Bảng 3: Vị trí hẹp niệu quản Vị trí Tần xuất Tỷ lệ 1/3 trên 7 43,75% 1/3 giữa 7 43,75% 1/3 dưới 2 12,5% Tổng 16 100% Có 1 bệnh nhân được can thiệp đồng thời ở 2 niệu quản. Vị trí hẹp niệu quản chủ yếu là ở 1/3 giữa và 1/3 trên (43,75%). Hẹp ở 1/3 dưới là 12,5% (Bảng 3). Bảng 4: Chiều dài đoạn hẹp Chiều dài đoạn hẹp Tần suất Tỷ lệ <2cm 12 75% >=2cm 4 25% Tổng 16 100% Chiều dài đoạn hẹp trung bình là 1,5±0,73cm, ngắn nhất là 0,5cm, dài nhất là 3cm. Trong đó hẹp =2cm là 25% (Bảng 4). Bảng 5: Mức độ ứ nước của thận Độ ứ nước Tần suất Tỷ lệ Độ I 2 12,5% Độ II 10 62,5% Độ III 4 25% Tổng 16 100% Tất cả bệnh nhân đều phát hiện ứ nước cùng bên tổn thương. Ứ nước độ II chiếm đa số 62,5%. Ứ nước độ III chiếm 25%, ứ nước độ I chiếm 12,5% (Bảng 5). Kết quả phẫu thuật Thời gian phẫu thuật trung bình là 66,93±18,08 phút, ngắn nhất là 40 phút và dài Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 130 nhất là 100 phút. Tỷ lệ thành công về kỹ thuật: 100% (16/16). Tỷ lệ thành công sau rút thông JJ 1 tháng: 84,62% (11/13). Tỷ lệ thành công sau rút thông JJ 3 tháng: 81,81% (9/11). BÀN LUẬN Hẹp niệu quản được chia làm các nguyên nhân lành tính, ác tính, do điều trị và vô căn, với nguyên nhân lành tính và do điều trị chiếm trên 1/3 số trường hợp(18). Tỷ lệ mắc hẹp niệu quản do điều trị được báo cáo là 0,3- 1,5%, trong đó có tới 58% là do phẫu thuật nội soi(14). Tuy nhiên gần đây, tỷ lệ hẹp niệu quản sau phẫu thuật đã tăng lên 4% và đối với các trường hợp sỏi khảm có thể tăng tới 7,8- 26,2%(2,6,9,17). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả bệnh nhân đều đã được phẫu thuật tiết niệu và sản phụ khoa. Trong đó chủ yếu là do tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng đến 50%. Điều đó cho thấy tỷ lệ hẹp niệu quản sau các phẫu thuật trên niệu quản là rất cao. Đây cũng là một thông tin quan trọng cho các bác sĩ lâm sàng về việc theo dõi xa bệnh nhân định kì sau các can thiệp đến niệu quản. Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nghiên cứu là 44,2 ± 17,07, tuổi nhỏ nhất là 15, lớn nhất là 70. Đa số bệnh nhân nằm trong lứa tuổi lao động, điều này làm giảm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và năng suất lao động của xã hội. Vị trí hẹp niệu quản thường gặp nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là ở 1/3 giữa và 1/3 trên với tỷ lệ 43,75%. Vị trí hẹp niệu quản ở 1/3 dưới ít gặp hơn chiếm tỷ lệ 12,5%. Đa số bệnh nhân vào viện với thận đã bị ứ nước nặng. Thận ứ nước độ II và độ III lần lượt là 62,5% và 25%. Theo Byun và cs, các yếu tố tiên lượng như tuổi, giới, vị trí hẹp, độ ứ nước đều không ảnh hưởng đến tỷ lệ thành công(3). Tuy nhiên, nghiên cứu khác cho thấy vị trí hẹp niệu quản 1/3 giữa có tỷ lệ thất bại cao hơn. Nguyên nhân và chiều dài đoạn hẹp là yếu tố tiên lượng quan trọng đến kết quả điều trị cuối cùng(8). Tỷ lệ thành công vị trí hẹp niệu quản đoạn xa cao hơn so với đoạn giữa theo Bannakij Lojanapiwat và cs(11). Điều trị hẹp niệu quản truyền thống bao gồm những kỹ thuật mổ mở khác nhau tuỳ thuộc vào vị trí, chiều dài, nguyên nhân của hẹp niệu quản. Mổ mở tạo hình được xem là cách tiếp cận cuối cùng để bảo toàn thành công chức năng thận, nhưng là phương pháp xâm lấn đáng kể, nhiều biến chứng, thời gian nằm viện kéo dài dẫn đến chi phí điều trị cao. Ngay sau khi ra đời, các kỹ thuật nội soi xâm lấn tối thiểu đã trở thành phương pháp tiếp cận đầu tiên trong điều trị hẹp niệu quản với tỷ lệ thành công và hiệu quả cao, biến chứng thấp(5,13). Điều này đặc biệt quan trọng và là cứu cánh cho những bệnh nhân đã có tiền sử phẫu thuật nhiều lần trên đường tiết niệu, những bệnh nhân lớn tuổi, nhiều bệnh kết hợp, những bệnh nhân phải mang ống dẫn lưu đường tiết niệu thời gian dài, bị nhiễm khuẩn đường tiết niệu tái phát Thời gian phẫu thuật trung bình của chúng tôi là 66,93 ± 18,08 phút, ngắn nhất là 40 phút và dài nhất là 100 phút. Thời gian phẫu thuật ngày càng ngắn lại cùng với sự quen thuộc và thao tác thuần thục hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 15 bệnh nhân, có 1 bệnh nhân được phẫu thuật nong niệu quản ở cả 2 bên cùng 1 cuộc mổ. Có 3 bệnh nhân còn đang đặt JJ chưa tới kỳ hạn rút, 2 bệnh nhân được theo dõi tới tháng thứ 2 sau rút JJ. Chúng tôi đạt tỷ lệ thành công về kỹ thuật là 100%, cao hơn Chaoyue Lu và cs thống kê là 89%(12). Goldficher and Gerber (1997) thành công trong 50- 76% trường hợp hẹp đoạn ngắn và không phải hẹp miệng nối niệu quản(7). Razdan và cs báo cáo tỷ lệ thành công chung 74 % trên 50 bệnh nhân được theo dõi từ 0,5-9 năm(15). Byun và cs đạt thành công 57% trong hẹp lành tính và 14% trong hẹp ác tính sau 36 tháng theo dõi và không trường hợp nào thành công khi hẹp đoạn dài hơn 2cm(3). Tỷ lệ thành công của chúng tôi đạt được lần lượt 1 tháng và 3 tháng theo dõi sau rút JJ là 84,62% và 81,81%, phù hợp với kết quả của những tác giả khác. Có 2 trường hợp chúng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 131 tôi theo dõi tới tháng thứ 13 và tháng 21 sau rút JJ và kết quả vẫn rất thành công. Trong nghiên cứu này có 1 trường hợp thất bại: bệnh nhân được can thiệp nong niệu quản 2 bên cùng 1 cuộc mổ với chiều dài đoạn hẹp lần lượt là 1,5cm ở 1/3 trên bên phải và 3cm ở 1/3 giữa bên trái. Sau khi rút JJ 1 ngày, bệnh nhân bị sốt, đau hông lưng 2 bên nhiều và được xử trí đặt lại thông JJ 2 bên. Điều này tương đồng với nhận định của nhiều tác giả: hẹp niệu quản < 2cm thành công cao hơn so với > 2cm và hẹp ở 1/3 trên thành công thấp hơn(3,12). Năm 2002 Fromer và cs đã dùng 2 thông đuôi lợn để điều trị tắc nghẽn niệu quản ác tính và thấy rằng việc dùng 2 thông giúp chống lại sự chèn ép lòng niệu quản tốt hơn. Năm 2014, Min Hong Kao và cs sử dụng 3 thông niệu quản trên 7 bệnh nhân và tất cả đều có cải thiện độ ứ nước với thời gian theo dõi 69,9 ngày(10). Các tác giả cho rằng dùng 2 hoặc 3 thông niệu quản giúp giảm xoắn và tăng không gian cần thiết giữa các ống đảm bảo dòng chảy nước tiểu thuận lợi. Trong nghiên cứu này, sau khi nội soi nong niệu quản bằng bóng, chúng tôi đặt 2 thông JJ trong 2 tháng và không có khó khăn gì về mặt kỹ thuật. KẾT LUẬN Điều trị hẹp niệu quản bằng phương pháp nội soi nong bóng có tỷ lệ thành công cao, dễ thực hiện, đường cong học tập ngắn với ít biến chứng và chi phí điều trị thấp hơn. Đặc biệt trên những bệnh nhân có nhiều nguy cơ phẫu thuật, tiên lượng cuộc mổ mở tạo hình khó khăn vì vết mổ cũ, bệnh nhân có chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng nặng nề vì hẹp niệu quản tái phát, , phương pháp này sẽ là một cứu cánh và nên được cân nhắc là phương pháp tiếp cận ban đầu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Assimos DG, Patterson LC, Taylor CL (1994). ”Changing incidence and etiology of iatrogenic ureteral injuries”. Journal of Urology, 152:2240-6 2. Brito AH, Mitre AI, Srougi M (2006). “Ureteroscopic pneumatic lithotripsy of impacted ureteral calculi”. Int Braz J Urol, 32(3):295-9. 3. Byun SS, Kim JH (2003). “Simple retrograde balloon dilation for treatment of ureteral strictures: etiology-based analysis”. Yonsei Med J, 44(2):273-8. 4. Campbell MF, Wein AJ, Kavoussi LR (2016). Campbell-Walsh Urology, 11th ed, 4:1128–1129. Philadelphia: Saunders Elsevier. 5. Corcoran AT, Smaldone MC, Ricchiuti DD & Averch TD (2009). “Management of Benign Ureteral Strictures in the Endoscopic Era”. Journal of Endourology, 23(11):1909–1912. 6. Fam XI, Singam P, Ho CC (2015). “Ureteral stricture formation after ureteroscope treatment of impacted calculi: a prospective study”. Korean J Urol, 56(1):63-7. 7. Goldfischer ER, Gerber GS (1997). “Endoscopic management of ureteral strictures”. J Urol, 157(3):770-5. 8. Hafez KS, & Wolf JS (2003). “Update On Minimally Invasive Management of Ureteral Strictures”. Journal of Endourology, 17(7):453–464. 9. Johnson DB, Pearle MS (2004). “Complications of ureteroscopy”. Urol Clin North Am, 31(1):157-71. 10. Kao MH & Wang CC (2015). “The efficacy and safety of ureteral dilation and long-term type ureteral stent for patients with ureteral obstruction”. Urological Science, 26(1):65–68. 11. Lojanapiwat B, Soonthonpun S & Wudhikarn S (2002). ”Endoscopic Treatment of Benign Ureteral Strictures”. Asian Journal of Surgery, 25(2):130–133. 12. Lu C, Zhang W, Peng Y, Li L, et al (2019). “Endoscopic balloon dilatation in the treatment of benign ureteral strictures: a meta- analysis and systematic review”. Journal of Endourology, https://doi.org/10.1089/end.2018.0797. 13. Lucas JW, Ghiraldi E, Ellis J, Friedlander JI (2018). “Endoscopic Management of Ureteral Strictures: an Update”. Current Urology Reports, 19:pp.24. 14. Parpala-Spårman T, Paananen I (2008). “Increasing numbers of ureteric injuries after the introduction of laparoscopic surgery”. Scand J Urol Nephrol, 42(5):422-7. 15. Razdan S, Silberstein IK, Bagley DH (2005). “Ureteroscopic endoureterotomy”. BJU, 95(2):94–101. 16. Richter F, Irwin RJ, Watson RA & Lang, EK (2000). ”Endourologic management of benign ureteral strictures with and without compromised vascular supply”. Urology, 55(5):652–656. 17. Roberts WW, Cadeddu JA, Micali S (1998). “Ureteral stricture formation after removal of impacted calculi”. J Urol, 159(3):723-6. 18. Tyritzis SI, Wiklund NP (2015). ”Ureteral strictures revisited trying to see the light at the end of the tunnel: a comprehensive review”. Journal of Endourology, 29(2):124-136. 19. Weinberg IJ, Ansong K, Smith AD (1987). ”Complications of ureteroscopy in relation to experience: Report of survey and author experience”. Journal of Urology, 137:384-5. Ngày nhận bài báo: 01/04/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnoi_soi_nong_bong_dieu_tri_hep_nieu_quan_phuc_tap_ket_qua_so.pdf
Tài liệu liên quan