Tài liệu Nội dung dạy học rèn kĩ năng hội thoại trong chương trình Tiểu học tiếng Việt và tiếng Lào qua cái nhìn so sánh - Đặng Thị Lệ Tâm: Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 111 - 115
111
NỘI DUNG DẠY HỌC RÈN KĨ NĂNG HỘI THOẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH
TIỂU HỌC TIẾNGVIỆT VÀ TIẾNG LÀO QUA CÁI NHÌN SO SÁNH
Đặng Thị Lệ Tâm*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Hội thoại là hoạt động thường xuyên và phổ biến của loài người khi sử dụng ngôn ngữ. Muốn dạy
sử dụng một thứ tiếng nói có kết quả cao trong giao tiếp phải dạy hội thoại.Thông qua việc rèn kĩ
năng hội thoại, người học mới thực sự học sử dụng tiếng nói phong phú, đa dạng. Bài viết tìm hiểu
vấn đề nội dung dạy học rèn kĩ năng hội thoại trong chương trình dạy tiếng mẹ đẻ cho học sinh
tiểu học của hai nước Lào và Việt Nam, từ đó có cái nhìn đối chiếu vấn đề dạy học hội thoại trong
nhà trường tiểu học của hai quốc gia.
Từ khoá: Hội thoại, chương trình, giao tiếp, tiểu học, kĩ năng...
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Giao tiếp là hoạt động mang tính xã hội của
con người, là một trong những điều kiện quan
trọng để xã hội loài người tồn tạ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 496 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nội dung dạy học rèn kĩ năng hội thoại trong chương trình Tiểu học tiếng Việt và tiếng Lào qua cái nhìn so sánh - Đặng Thị Lệ Tâm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 111 - 115
111
NỘI DUNG DẠY HỌC RÈN KĨ NĂNG HỘI THOẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH
TIỂU HỌC TIẾNGVIỆT VÀ TIẾNG LÀO QUA CÁI NHÌN SO SÁNH
Đặng Thị Lệ Tâm*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Hội thoại là hoạt động thường xuyên và phổ biến của loài người khi sử dụng ngôn ngữ. Muốn dạy
sử dụng một thứ tiếng nói có kết quả cao trong giao tiếp phải dạy hội thoại.Thông qua việc rèn kĩ
năng hội thoại, người học mới thực sự học sử dụng tiếng nói phong phú, đa dạng. Bài viết tìm hiểu
vấn đề nội dung dạy học rèn kĩ năng hội thoại trong chương trình dạy tiếng mẹ đẻ cho học sinh
tiểu học của hai nước Lào và Việt Nam, từ đó có cái nhìn đối chiếu vấn đề dạy học hội thoại trong
nhà trường tiểu học của hai quốc gia.
Từ khoá: Hội thoại, chương trình, giao tiếp, tiểu học, kĩ năng...
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Giao tiếp là hoạt động mang tính xã hội của
con người, là một trong những điều kiện quan
trọng để xã hội loài người tồn tại và phát
triển. Trong đó, “ngôn ngữ là phương tiện
giao tiếp quan trọng nhất của loài người”
(V.I.Lênin) (dẫn theo [1.19]). Hiện nay, các
nước phát triển trên thế giới đều quan tâm
nghiên cứu vấn đề giao tiếp và đưa nội dung
này vào dạy học trong nhà trường từ tiểu học
đến đại học. Xu hướng phát triển chung của
giáo dục các nước tiên tiến trên thế giới là
hướng đến việc hình thành các loại năng lực
cho học sinh, trong đó giao tiếp là một năng
lực quan trọng.
Hội thoại là hoạt động thường xuyên và phổ
biến của loài người khi sử dụng ngôn ngữ.
Muốn dạy sử dụng một thứ tiếng nói có kết
quả cao trong giao tiếp phải dạy hội thoại.
Thông qua việc học hội thoại, người học mới
thực sự học sử dụng tiếng nói phong phú, đa
dạng, gắn với cuộc sống, học tiếng nói trong
giao tiếp và để giao tiếp. Hơn nữa, dạy hội
thoại là dạy văn hóa ứng xử trong giao tiếp.
Các hàm lượng văn hóa của mỗi dân tộc hàm
chứa trong ngôn ngữ (như các nghi thức lời
nói, các cách sử dụng tu từ về từ, câu) khi
được tích cực hóa sẽ trở thành vốn riêng của
từng người.
*
Tel: 0912 454828, Email: letamsptn79@gmail.com
Quan niệm này đã làm thay đổi diện mạo
chương trình và sách giáo khoa dạy tiếng mẹ
đẻ và dạy tiếng nước ngoài của các nước trên
thế giới. Hiện nay, trong chương trình giáo
dục phổ thông của nhiều nước trên thế giới, kĩ
năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết) được coi
là mục tiêu chiến lược trong giáo dục, đặc
biệt là việc hình thành và phát triển các kĩ
năng nghe và nói (hội thoại).
Bài viết này tìm hiểu vấn đề dạy học hội thoại
trong chương trình dạy tiếng mẹ đẻ cho học
sinh tiểu học của hai nước Việt Nam và Lào - là
hai nước cùng nằm trong khu vực Đông Nam
Á, cùng có nền giáo dục đã và đang phát triển
mạnh mẽ trong khu vực và trên thế giới. Văn
bản Chương trình của hai nước trên bao gồm:
- Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu
học của Việt Nam: do Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành kèm theo Quyết định số
16/2006/QĐ - BGDĐT ngày 5 tháng 5 năm
2006. Chương trình được áp dụng từ khi ban
hành đến nay.
- Chương trình giáo dục cấp Tiểu học của
Lào: do Viện nghiên cứu Khoa học giáo dục -
Bộ Giáo dục và Đào tạo Lào ban hành năm
2010, đăng tải trên trang
Moes.edu.la. Chương trình được áp dụng từ
khi ban hành (2010) đến nay.
Nội dung dạy học hội thoại của Việt Nam và
Lào không tách ra mà được trình bày trong
chương trình dạy tiếng mẹ đẻ dành cho
Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 111 - 115
112
trường phổ thông, nằm trong hoặc bên cạnh
các mạch nội dung khác (như đọc, nghe,
viết,...). Vì thế, trong khuôn khổ bài báo này,
tác giả sẽ xem xét chung về các chương trình
nhưng tập trung chủ yếu vào sử dụng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống
hóa, đối chiếu về phương diện nội dung dạy
học nhằm tìm ra những nét tương đồng và
khác biệt.
NỘI DUNG DẠY HỌC HỘI THOẠI
TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỦA VIỆT
NAM VÀ LÀO
Mô tả
Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu
học của Việt Nam
Trong chương trình giáo dục phổ thông cấp
Tiểu học môn Tiếng Việt của Việt Nam, nội
dung dạy học hội thoại được cụ thể qua kĩ
năng nói trong bảng 1 như sau:
Bảng 1. Nội dung dạy học hội thoại trong chương trình môn Tiếng Việt
Lớp Kĩ năng nói
1
- Nói lời chào hỏi, chia tay trong gia đình, trường học.
- Trả lời câu hỏi; đặt câu hỏi (theo mẫu).
- Kể lại những câu chuyện được nghe kể trên lớp (kết hợp nhìn tranh minh họa và đọc lời gợi ý
dưới tranh).
- Nói về mình và người thân bằng một vài câu
2
- Biết nói lời chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, mời, nhờ, yêu cầu, tự giới thiệu; đáp lời cảm ơn, xin lỗi,
lời mời...trong các tình huống giao tiếp ở trường học, gia đình, nơi công cộng.
- Trả lời và đặt câu hỏi đơn giản.
- Kể một mẩu chuyện hoặc một đoạn của câu chuyện được nghe.
- Nói lời giới thiệu đơn giản về bản thân, gia đình, bạn bè, trường lớp theo gợi ý.
3 - Dùng lời nói phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp chính thức trong sinh hoạt lớp, sinh hoạt Đội.
- Đặt câu hỏi về vấn đề chưa biết, trả lời câu hỏi của người đối thoại.
- Kể từng đoạn hoặc kể toàn bộ câu chuyện đơn giản đã được nghe.
- Phát biểu ý kiến trong cuộc họp; giới thiệu hoạt động của tổ, lớp, chi đội; trình bày miệng
báo cáo ngắn (đã viết theo mẫu) về hoạt động của tổ, lớp, chi đội.
4 - Kể câu chuyện đã nghe, đã đọc; thuật lại sự việc đã chứng kiến hoặc tham gia. Kể chuyện
bằng lời của nhân vật.
- Bày tỏ ý kiến riêng khi trao đổi, thảo luận về vấn đề gần gũi. Đặt câu hỏi, trả lời câu hỏi làm
rõ vấn đề trong trao đổi thảo luận.
- Giới thiệu về con người, lịch sử, văn hóa, địa phương.
5 - Kể câu chuyện đã nghe, đã đọc; thuật lại sự việc đã chứng kiến hoặc tham gia.
- Trao đổi, thảo luận về đề tài phù hợp với lứa tuổi; bày tỏ ý kiến, thái độ về vấn đề đang trao
đổi, thảo luận.
- Giới thiệu lịch sử, văn hóa, các nhân vật tiêu biểu của địa phương.
* Chương trình giáo dục cấp Tiểu học của Lào
Nội dung hội thoại qua kĩ năng nghe và nói được thể hiện trong Bảng 2.
Nhận xét
Điểm tương đồng
Nội dung dạy học hội thoại trong chương trình tiểu học của hai nước đều hết sức đa dạng, phong
phú, có khả năng giúp các em giao tiếp phù hợp với mọi hoàn cảnh của cộng đồng. Với cách
nhìn nhận toàn diện về nguyên tắc giao tiếp, cả hai chương trình đã chú trọng xây dựng các nội
dung dạy học để rèn luyện kĩ năng nghe nói cho học sinh bên cạnh các nội dung dạy học đọc,
viết và phù hợp với việc giao tiếp của học sinh từ 6-11 tuổi.
Nhìn vào bảng thống kê, các kĩ năng hội thoại ở các lớp của hai chương trình đã có sự lặp lại và
nâng cao, đã thể hiện tính hệ thống trong nội dung học tập, giúp học sinh từng bước rèn luyện kĩ
năng sử dụng nghi thức lời nói trong từng năm học.
Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 111 - 115
113
Bảng 2. Nội dung dạy học hội thoại trong chương trình môn Tiếng Lào
Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5
1.Nói để gửi
thông tin như:
Chào mừng, giới
thiệu tên của bản
thân và người
khác.
2. Nói để thông
báo với giáo viên
và bạn thân trong
chủ đề ngắn và
phù hợp.
Như: hai học sinh
hội thoại cùng
nhau.
3. Trình bày
nhóm: tranh vẽ và
một cái gì đó mà
giáo viên giúp đỡ.
1.Tham gia và lắng
nghe, biết dùng lời
nói để đề xuất ý
kiến, miêu tả đặc
điểm cử chỉ, tính
tính
2.Thông tin với giáo
viên,bạn cùng
lớp,trường và khách
đã đến thăm.
Thảo luận theo đôi,
theo nhóm và trình
bày trước lớp về
chủ đề đơn giản,
nghe – hiểu và thực
hiện yêu cầu của
giáo viên
3. Trình bày thành
tích của mình và
của nhóm, có giáo
viên giúp đỡ.
1.Báo cáo, nói chính
xác về mục tiêu, tình
hình sự việc, biết
miêu tả phải có mở
đầu, nội dung, kết
luận câu chuyện hợp
với chủ đề.
2.Thông tin với
những người chung
quanh về các mục
tiêu của công việc và
mục đích, phạm vi,
chủ đề cũ và chủ đề
mới bằng câu hỏi và
câu từ chối.
3. Trình bày thành
tích của mình và của
nhóm trên bảng có
giáo viên giúp đỡ.
1.Báo cáo được
những sự kiện, kể
lại kinh nghiệm đã
trải qua.Nói năng
đúng đắn, hợp lý
chuẩn mực với các
tình huống và người
nghe. Biết giao tiếp
với cộng đồng.
2.Trình bày những
khó khăn của đề tài
mà bản thân đang
nghiên cứu.
3.Giới thiệu thành
tích cá nhân hay
của nhóm với các
bạn cùng lớp đúng
với mục tiêu.
1.Biết thuyết phục
người khác, biết
nói mở đầu,trình
bày nội dung
thông tin chính
xác và biết kết
luận phù hợp chủ
đề liên quan.
2.Thông tin với
cộng đồng về mục
tiêu, chủ đề của
vấn đề đang
nghiên cứu thuộc
nhiều lĩnh vực.
3. Đóng góp ý
kiến và giới thiệu
chi tiết rõ ràng
cho khán giả và
người nghe.
Bên cạnh đó, nội dung dạy học hội thoại
trong chương trình của hai nước đều chú
trọng mọi hình thức hội thoại: đơn thoại, song
thoại, đa thoại. Chương trình được sắp xếp
theo trật tự kĩ năng từ dễ đến khó, từ đối
thoại, dạng lời nói các em thường sử dụng
hàng ngày đến đơn thoại, dạng lời nói yêu
cầu HS phải tự mình sáng tạo cả nội dung lẫn
cấu trúc hình thức và phương thức liên kết.
Cách sắp xếp chương trình này phù hợp với
đặc điểm tâm lí ngôn ngữ của HS lứa tuổi
tiểu học. Vì học sinh tiểu học chưa quen nói
trước đông người, vốn từ và khả năng ứng xử
ngôn ngữ còn hạn chế. Việc rèn luyện kỹ
năng nói lời hội thoại ở mức đơn giản trong
quan hệ hoà hợp có tác dụng giúp học sinh
sớm có khả năng hoà nhập với xã hội rộng
lớn. Hơn nữa, nó còn tạo tiền đề để sau này
các em nói lời hội thoại phức tạp ở các mức
độ, yêu cầu khác nhau trong các cuộc giao
tiếp chính thức. Có thể nói, với các đề tài, nội
dung hội thoại đã được đưa vào dạy học trong
chương trình Tiếng Việt mới đã tạo ra được
nhu cầu, hứng thú luyện nói cho học sinh.
Nhất quán với cách viết chung của chương
trình cấp học, nội dung dạy học hội thoại của
cả hai chương trình cũng không đưa ra các
quy định về thời lượng, cách sắp xếp, tổ chức
cụ thể cho mỗi nội dung học tập, rèn luyện.
Việc làm này sẽ do các nhà soạn sách, các
giáo viên căn cứ vào trình độ của học sinh,
đối chiếu với yêu cầu kiến thức và kĩ năng để
tự quy định. Cách làm mềm dẻo đó sẽ tạo ra
nhiều phương án thực hiện chương trình thích
hợp với thực tiễn giáo dục đa dạng ở mỗi
quốc gia.
Sự khác biệt giữa hai chương trình
Thông qua việc khảo sát chương trình Tiếng
Việt tiểu học, chúng ta có thể thấy nội dung
dạy học hội thoại được chia làm hai giai đoạn.
Nếu như ở giai đoạn đầu (lớp 1, 2), học sinh
chỉ được làm quen và học các nghi thức giao
tiếp đơn giản, thông thường như chào hỏi, xin
lỗi, giới thiệu về bản thân thì lên các lớp
trên, hội thoại có tính chất nghi thức hơn như
hội họp (tổ chức, xây dựng chương trình, điều
khiển và phát biểu trong cuộc họp), giới thiệu
các hoạt động của trường, địa phương, tập nói
lời giải thích, tán thành hay bác bỏ một vấn
đềNếu như việc rèn kĩ năng giao tiếp với
các nghi thức lời nói tối thiểu, đơn giản cho
học sinh đặt nền móng văn hóa và cách ứng
Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 111 - 115
114
xử văn hóa cho học sinh (từ bậc Tiểu học) thì
việc rèn kĩ năng giao tiếp chính thức phục vụ
đời sống và học tập sẽ giúp các em tự thích
ứng được với công việc học tập, với cuộc
sống hàng ngày. Đây là những đóng góp rất
lớn của môn Tiếng Việt trong việc hình thành
nhân cách cho học sinh tiểu học.
Mặt khác, trong chương trình Tiếng Việt tiểu
học, các chủ đề hội thoại được trình bày cụ
thể, chi tiết; mỗi một kĩ năng, chiến lược, thái
độ và hành vi giao tiếp đều được người thiết
kế “động từ hóa” thành những thao tác cụ thể
nên người thực hiện biết phải làm gì khi thực
hiện nội dung này. Các đề tài luyện nói đều
gần gũi, quen thuộc với đặc điểm tâm lý, tư
duy của các em. Đó là những nghi thức giao
tiếp như: cảm ơn, xin lỗi, mời, nhờ, yêu cầu,
đề nghị, gọi điện, chia buồn, an ủi, ngạc
nhiên, thán phục...và lời đáp tương ứng là
những nghi thức giao tiếp tối thiểu, cần thiết
cho mỗi con người. Trong khi chương trình
hội thoại của Lào được nêu một cách khái
quát, chủ yếu nêu lên các yêu cầu chung phù
hợp với độ tuổi từng lớp. Nếu so sánh ở yêu
cầu cần đạt về khả năng sử dụng kĩ năng hội
thoại thì chúng tôi thấy, chương trình của Lào
yêu cầu học sinh cao hơn, học sinh cần
“Thông tin với những người chung quanh về
các mục tiêu của công việc (lớp 3) Trình
bày những khó khăn của đề tài mà bản thân
đang nghiên cứu (lớp 4)”. Một điều nhận thấy
rất rõ trong nội dung nghe - nói của Lào có
đưa thêm các hình thức dạy học đa dạng, hoạt
động đánh giá nhóm đồng đẳng đã được chú
ý, nội dung thảo luận nhóm và cách thức tổ
chức thảo luận đã được nêu chi tiết, rõ ràng.
Ví dụ: “Thảo luận theo đôi, theo nhóm và
trình bày trước lớp về chủ đề đơn giản,
nghe – hiểu và thực hiện yêu cầu của giáo
viên (lớp 2) hay Thông tin với cộng đồng về
mục tiêu, chủ đề của vấn đề đang nghiên
cứu thuộc nhiều lĩnh vực (lớp 5)”. Các hình
thức, nội dung đánh giá đã ghi rõ yêu cầu
về chuẩn bị và sản phẩm đối với học sinh
trong bài thực hành.
KẾT LUẬN
Chương trình giáo dục phổ thông của hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến
việc hình thành năng lực sử dụng ngôn ngữ
cho học sinh thông qua 4 kĩ năng cơ bản,
gồm: nghe (listening), nói (speaking), đọc
(reading), viết (writing). Một số nước còn chú
ý thêm kĩ năng quan sát (viewing) và trình
bày (presenting). Các kĩ năng trên là cơ sở
quan trọng để hình thành và rèn luyện cho HS
năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ với nhiều
cấp độ khác nhau. Trong đó, kĩ năng nghe –
nói, đặc biệt là kĩ năng hội thoại được chú ý
nhiều hơn cả. Vì thế, đối với việc xây dựng
chương trình môn học tiếng mẹ đẻ cho nhà
trường phổ thông của tất cả các nước, trong
đó có Việt Nam, rèn kĩ năng hội thoại không
thể không được quan tâm từ mục tiêu, chuẩn
kiến thức kĩ năng đến nội dung, phương pháp
dạy học và kiểm tra đánh giá...
Theo PGS.TS Bùi Mạnh Hùng, “Trong bối
cảnh đổi mới giáo dục của Việt Nam, vốn bị
tách biệt quá lâu với những thành tựu giáo
dục trên thế giới, nghiên cứu giáo dục chưa
phát triển đủ mạnh để dẫn đường cho đổi mới
giáo dục, việc tham khảo kinh nghiệm giáo
dục quốc tế, đặc biệt là kinh nghiệm về xây
dựng chương trình để nắm bắt được tinh thần
của nền giáo dục hiện đại là vấn đề sống còn
và cấp bách” [4]. Sau khi so sánh vấn đề nội
dung dạy học rèn kĩ năng hội thoại trong môn
Tiếng Việt của Việt Nam và môn Tiếng Lào
của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
chúng tôi nhận thấy, mặc dù có một vài khác
biệt, nhưng nhìn chung dạy học hội thoại của
Lào và Việt Nam có nhiều điểm giống nhau
do những tương đồng về văn hoá, lịch sử và
giáo dục, đặt trọng tâm vào giáo dục và mang
tính xã hội, coi giáo dục là mục đích lớn nhất
cho việc đào tạo nhân tài.
Chúng ta vẫn biết rằng mọi so sánh đều khập
khiễng, nhất là đối tượng so sánh bao giờ
cũng có tính lịch sử của nó. Nhưng để có cơ
sở đổi mới vấn đề nội dung dạy học rèn kĩ
năng hội thoại trong chương trình dạy tiếng
Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 111 - 115
115
mẹ đẻ cho học sinh tiểu học, cần đối chiếu
chương trình giáo dục phổ thông của Việt
Nam và một số nước trong trong khu vực và
trên thế giới, từ đó phát huy những việc đã
làm tốt; đồng thời tiếp thu, điều chỉnh lại
những gì còn bất cập, góp phần đổi mới
chương trình và sách giáo khoa phổ thông ở
nước ta, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa và hội
nhập với xu thế quốc tế về giáo dục phổ thông
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Ngọc Chừ (CB), Nguyễn Thị Ngân Hoa,
Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán (2007), Nhập môn
Ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
2.Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Chương trình
giáo dục phổ thông cấp Tiểu học.Nhà xuất bản
Giáo dục.
3. Bộ Giáo dục và đào tạo - Viện nghiên cứu Khoa
học giáo dục (2010), Chương trình giáo dục cấp
Tiểu học ( Moes.edu.la).
4. Bùi Mạnh Hùng (2013), Về định hướng đổi mới
chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn ở
trường phổ thông, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa
học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ
thông Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm.
SUMMARY
THE CONTENT TEACHING CONVERSATIONS
IN PRIMARY CURRICULUM IN VIETNAMESE AND LAO LANGUAGE
THROUGH A COMPARATIVE GLANCE
Dang Thi Le Tam
*
University of Education - TNU
Conversation is a frequent and popular activity of the human race when they use languages. To
teach learners how to use a languageeffectively it is necessary to teach conversations. Only
through conversations, learners can learn a language in a varied, abundant way. The
paperinvestigates the issue of teaching conversations in the mother tongue teaching curriculumfor
primary pupils in Laos and Vietnam, from which the teaching of conversationsin primary schools
in the two countries is compared and contrasted.
Key words: Conversation, curriculum, communication, primary schools, skills
Ngày nhận bài: 17/8/2018; Ngày phản biện: 14/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018
*
Tel: 0912 454828, Email: letamsptn79@gmail.com
116
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 453_503_1_pb_356_2127126.pdf