Tài liệu Những yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng tới việc nâng cao năng lực tự chủ cho người học - Ngô Phương Anh: 86 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năng lực tự chủ (NLTC) của người học như
đã được nghiên cứu trong bài viết trước của tác
giả Ngô Phương Anh (2017), cũng như trong
nhiều bài viết cùng đề tài của các học giả như
Holec (1981), Dam (1995), Little (2009), đó là
khả năng vốn có của người học, là kỹ năng tự
chịu trách nhiệm trong học tập của người học.
Đây là một năng lực chịu chi phối và tác động
đa chiều bởi các nhóm yếu tố mà tác giả bài viết
quy về hai nhóm chính, đó là chủ quan và khách
quan. Yếu tố chủ quan bao gồm đặc điểm liên
NGÔ PHƯƠNG ANH*
*Đại học Bách khoa Hà Nội, ✉ anh.ngophuong@hust.edu.vn
Ngày nhận: 21/3/2017; Ngày hoàn thiện: 29/4/2017; Ngày duyệt đăng: 10/5/2017
NHỮNG YẾU TỐ NGOẠI CẢNH
ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC NÂNG CAO
NĂNG LỰC TỰ CHỦ CHO NGƯỜI HỌC
TÓM TẮT
Năng lực tự chủ (NLTC) của người học chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bên cạnh
những yếu tố liên quan trực tiếp đến đặc điểm cá nhân ...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 764 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng tới việc nâng cao năng lực tự chủ cho người học - Ngô Phương Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
86 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năng lực tự chủ (NLTC) của người học như
đã được nghiên cứu trong bài viết trước của tác
giả Ngô Phương Anh (2017), cũng như trong
nhiều bài viết cùng đề tài của các học giả như
Holec (1981), Dam (1995), Little (2009), đó là
khả năng vốn có của người học, là kỹ năng tự
chịu trách nhiệm trong học tập của người học.
Đây là một năng lực chịu chi phối và tác động
đa chiều bởi các nhóm yếu tố mà tác giả bài viết
quy về hai nhóm chính, đó là chủ quan và khách
quan. Yếu tố chủ quan bao gồm đặc điểm liên
NGÔ PHƯƠNG ANH*
*Đại học Bách khoa Hà Nội, ✉ anh.ngophuong@hust.edu.vn
Ngày nhận: 21/3/2017; Ngày hoàn thiện: 29/4/2017; Ngày duyệt đăng: 10/5/2017
NHỮNG YẾU TỐ NGOẠI CẢNH
ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC NÂNG CAO
NĂNG LỰC TỰ CHỦ CHO NGƯỜI HỌC
TÓM TẮT
Năng lực tự chủ (NLTC) của người học chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bên cạnh
những yếu tố liên quan trực tiếp đến đặc điểm cá nhân người học như thói quen, sở thích, nhu
cầu học tập, còn có những yếu tố ngoại cảnh như điều kiện văn hóa, môi trường sống, môi trường
học tập, đặc điểm chính trị, xã hội của người học. Để phát triển NLTC của người học một cách có
hiệu quả, người dạy cần nhận thức rõ ràng và đầy đủ các yếu tố tác động đến nó. Bài viết này đi
sâu vào phân tích các yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng tới NLTC của người học, với hi vọng giúp các
nhà quản lý giáo dục, các nhà nghiên cứu, các nhà lý luận sư phạm, người dạy và người học nhận
thức được rõ những yếu tố có tác động tích cực tới việc phát huy NLTC của người học cũng như
những yếu tố tiềm ẩn gây khó khăn, kìm hãm quá trình nâng cao NLTC của người học. Từ đó, họ
có cơ sở để lựa chọn, áp dụng hoặc xây dựng các phương pháp nâng cao NLTC của người học sao
cho phù hợp với đặc điểm môi trường chính trị xã hội xung quanh người học.
Từ khóa: ảnh hưởng, chính trị, năng lực tự chủ, văn hóa, xã hội.
quan đến cá nhân người học trong đó có thói
quen, sở thích, nhu cầu của người học. Yếu tố
khách quan bao gồm các điều kiện ngoại cảnh
như văn hóa, môi trường, chính trị, xã hội bao
quanh người học. Để phát triển NLTC một cách
có hiệu quả, người học cũng như người dạy cần
nhận thức rõ ràng và đầy đủ các yếu tố này. Trong
khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ tập trung đi
sâu vào phân tích các yếu tố ngoại cảnh có ảnh
hưởng tới NLTC của người học nhằm giúp các
nhà quản lý giáo dục, các nhà nghiên cứu, các
nhà lý luận sư phạm, giáo viên, người học xác
87KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
định được rõ những các yếu tố có tiềm năng thúc
đẩy hoặc có nguy cơ cản trở quá trình nâng cao
NLTC của người học. Trước hết bài viết sẽ trình
bày các yếu tố văn hóa xã hội, sau đó là yếu tố
môi trường lớp học và cuối cùng là văn hóa dạy
và học. Tiếp theo đó là một số nhận xét và đề
xuất của tác giả bài viết về việc phát triển NLTC
của người học.
2. YẾU TỐ VĂN HÓA, XÃ HỘI TÁC
ĐỘNG ĐẾN NĂNG LỰC TỰ CHỦ CỦA
NGƯỜI HỌC
Một trong những yếu tố khách quan tác động
đáng kể đến hiệu quả phát huy NLTC của người
học là yếu tố văn hóa, xã hội. Trên thực tế, mối
quan hệ qua lại giữa NLTC và văn hóa đã được
nghiên cứu bởi nhiều học giả như Jones (1995)
(với đối tượng người học Campuchia), Ho và
Crookall (1995) (người học Trung Quốc ở Hồng
Kông), Aoki và Smith (1996) (người học Nhật),
Marshall và Torpey (1997) (người học Nhật).
Đối với các học giả phương Tây, NLTC được
cho là gắn với những giá trị về sự tự do. Tuy
nhiên, các nhà nghiên cứu NLTC ở châu Á vừa
kể trên lại phát hiện ra mối quan hệ mật thiết
giữa yếu tố tự chủ của người học và bối cảnh học
tập (truyền thống văn hóa) và họ chứng minh
rằng NLTC của người học không phải là một yếu
tố bất biến và đơn lẻ.
Xét về ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, các
nước châu Á như: Việt Nam, Trung Quốc,
Singapore, Hàn quốc, Nhật Bản đều ít nhiều
chịu ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Khổng
Tử - xoay quanh việc tuân thủ các chuẩn mực
đạo đức gia đình, nhà trường, xã hội, đề cao vai
trò của những người thầy trong xã hội. Những
tư tưởng này đã chi phối, định hướng hành vi,
thái độ và các mối quan hệ xã hội của con người
trong đó có quan hệ thầy-trò. Mặc dù ngày nay
tư tưởng phương Tây ít nhiều ảnh hưởng, xâm
nhập và làm thay đổi tư duy của một bộ phận
người học, nhưng dấu ấn của tư tưởng nho giáo
mà trong đó thầy giáo được coi là nắm giữ vai
trò trung tâm trong môi trường giáo dục vẫn tồn
tại và có ảnh hưởng không nhỏ đối với thực tiễn
các hoạt động giáo dục. Nó được thể hiện khá rõ
trên các mặt như: khoảng cách quyền lực giữa
thầy và trò, niềm tin của thầy và trò, tư tưởng tập
thể, tư tưởng cạnh tranh trong lớp học. Chẳng
hạn, đối với người Trung Quốc, quan hệ thầy-trò
là quan hệ trên dưới, người học coi người dạy
như những người có quyền lực tối cao trong lớp
học, và việc yêu cầu người học tôn trọng tuyệt
đối người dạy là điều tất yếu.
Sự khác nhau giữa quan niệm về vai trò người
dạy của người Á Đông và người phương Tây
được miêu tả rất rõ trong Ho và Crookall (1995),
đó là, người châu Á coi trọng sự quan tâm, lòng
nhân từ, tính khuôn mẫu, mực thước của người
dạy và quyền lực gần như tối cao của họ. Trong
khi đó người phương Tây lại coi quyền lực người
dạy là yếu tố cản trở, hạn chế NLTC và làm cho
người học trở nên phụ thuộc. Cũng cần lưu ý, khái
niệm quyền lực tuyệt đối của người dạy trong
văn hóa phương Đông đồng nghĩa với việc người
dạy hoàn toàn chịu trách nhiệm về người học.
Nền văn hóa Nhật Bản là nền văn hóa đề cao
tính tập thể, cộng đồng, NLTC của người học
trước đây không được coi trọng vì người ta quan
tâm nhiều đến trách nhiệm với cộng đồng, với
tập thể. Do vậy, ngày nay để nâng cao nhận thức
về tự chủ, các nhà sư phạm Nhật Bản đang cố
gắng gắn NLTC với yếu tố cá nhân, thúc đẩy yếu
tố cá nhân hơn nữa. Thực tế, mục tiêu của các
nền giáo dục vốn đề cao trách nhiệm tập thể, xã
hội là hoàn toàn khác so với nền giáo dục ưu tiên
yếu tố cá nhân. Cụ thể, ở xã hội coi trọng quyền
lợi cá nhân, nền giáo dục của họ cố gắng trang bị
cho từng cá nhân người học nền tảng kiến thức,
kỹ năng nhằm đáp ứng yêu cầu của một vị trí
xã hội. Điều này có nghĩa là các cá nhân đều
phải học cách xử lý những tình huống mới, tình
huống chưa từng gặp và không thể đoán trước.
Thái độ của cá nhân trong xã hội này là ủng hộ
những cái mới. Ngược lại, trong một xã hội đề
cao vai trò, trách nhiệm và tinh thần tập thể như
88 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ở châu Á, giáo dục lại nhấn mạnh vào việc cung cấp cho người học những kỹ năng, thói quen giúp
tăng cường khả năng thích nghi của họ, để họ được tập thể chấp nhận. Và nền giáo dục này thường
hướng tới đối tượng người học trẻ tuổi.
Việt Nam cũng thuộc nền văn hóa coi trọng tinh thần cộng đồng, tập thể, trong đó, tư tưởng của
con người bị ảnh hưởng rất lớn bởi Khổng giáo và Phật giáo. Ngay từ nhỏ, một đứa trẻ đã được các
bậc tiền bối dạy về những quy tắc ứng xử, các khuôn phép xã hội và bổn phận của người làm con.
Các mối quan hệ đều được xác định khoảng cách một cách rạch ròi như quan hệ vua-tôi, thày-trò và
cha-con, trong đó, vế trước của mỗi một mối quan hệ đều nhận được sự tôn trọng gần như tuyệt đối
của vế sau. Việc thay đổi vai trò trong các mối quan hệ đó đồng nghĩa với việc thay đổi toàn bộ hiện
trạng văn hóa, chính trị và xã hội của cả một dân tộc.
3. YẾU TỐ VĂN HÓA LỚP HỌC VỚI NĂNG LỰC TỰ CHỦ CỦA NGƯỜI HỌC
Văn hóa lớp học trong khuôn khổ bài viết này được hiểu là những biểu hiện thái độ và những
chuẩn mực hành vi góp phần hình thành nên tính cách thói quen tự chủ của người học trong phạm
vi lớp học. Khái niệm này bao hàm những ảnh hưởng của văn hóa dân tộc và văn hóa vùng miền,
rộng hơn là tư tưởng xã hội. Như đã đề cập ở phần trên, ở các quốc gia Á Đông, thói quen lắng nghe,
im lặng trong lớp học đã đã được hình thành từ nhỏ. Theo đó, giao tiếp giữa giáo viên và người học
thường là giao tiếp một chiều. Và do kiến thức bài học được đề cao, nên người truyền đạt kiến thức
đó cũng được đề cao.
Xét về yếu tố vai trò người dạy, ở nền văn hóa Á Đông, người dạy được xã hội coi trọng vì họ là
người đem kiến thức đến cho người khác. Cũng vì thế, vị trí của người dạy cũng được đặt cao hơn so
với người học. Quyền của người dạy trong lớp học gần như là tuyệt đối, chẳng hạn như quyền kiểm soát
lớp học, quyết định lựa chọn nội dung học tập, quyết định mục tiêu giảng dạy, phương pháp giảng dạy.
Tất cả những điều này đều ngụ ý rằng, không có nhiều cơ hội cho người học phát huy khả năng tự
chủ của mình. Người học gần như không có quyền tự chủ, mà trái lại phụ thuộc vào người dạy, mặc
dù trên thực tế họ có năng lực tự chủ. Trong môi trường học tập như vậy, thì yếu tố tự chủ của người
học rõ ràng bị hạn chế và đây cũng là hạn chế chung của nền giáo dục Á Đông, trong đó có Việt Nam.
Xét về khía cạnh người học, trong quá trình phát triển, mỗi một cá nhân đều có những nét đặc
điểm riêng về mặt sinh học như cơ thể, đường nét, cũng như tính cách và tư duy. Tuy nhiên, những
điều này phần nào bị ảnh hưởng bởi yếu tố gia đình, họ hàng và môi trường xung quanh. Nét văn hóa
học tập, trong đó quan hệ thầy-trò được phân biệt rạch ròi, người học phụ thuộc từ nhỏ có ảnh hưởng
lớn đến NLTC của họ.
4. YẾU TỐ VĂN HÓA DẠY VÀ HỌC
Như đã đề cập ở trên, trong lớp học khi người dạy là người có quyền lực tối cao, nhiệm vụ lĩnh
hội thông tin mà không phản hồi đã vô tình tạo nên tính thụ động cho người học, đối lập với tính
chủ động mà người học phương Tây thường xuyên được bồi đắp. Đã có những nghiên cứu đối chiếu
phong cách học của các nước phương Tây và các nước Á Đông, như Reisch & Tang (1992, tr.12).
Nghiên cứu mô tả phong cách và phương pháp học tập trái ngược của người học. Bảng 1 sau đây làm
nổi bật sự đối lập đó:
89KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
Bảng 1: Đối chiếu phương pháp học của người học phương Tây và các nước Á Đông
Các nước phương Tây Các nước Á Đông
Cách học độc lập Cách học thuộc
Làm việc nhóm Bài giảng, báo cáo, thuyết trình
Kết hợp lý thuyết và thực hành Kiến thức lý thuyết trọn vẹn
Trao đổi/tranh luận Thụ động: giáo viên giải thích, học sinh tóm tắt
Thảo luận (phân cực quan điểm) Tích hợp các quan điểm khác nhau
Phân tích vật thể/văn bản Dùng đúng và vận dụng
So sánh đối chiếu Hiểu, giải thích
Thử nghiệm Luyện tập
Tìm lỗi Cách thích nghi
Phân chia công việc Hợp tác
Phản biện Bắt chước
Tạo sự biến đổi Mô phỏng lại
Học là tư duy Học trước, tư duy sau
Học bằng thực hành Thu nhận kiến thức
Sự phù hợp với thực tế Lý tưởng giáo dục
Thu được Truyền đạt
Bảng so sánh cho thấy, nếu phương pháp học của người phương Tây chú trọng đến việc thực hành
và tư duy sáng tạo thì ngược lại, phương pháp dạy học ở các nước Á Đông tập trung đề cao việc thu
nhận kiến thức, và phát triển khả năng bắt chước sao chép mô phỏng. Thực tế, đối với văn hóa Á
Đông, kiến thức luôn được coi là quan trọng và người ta cho rằng, nó là yếu tố giúp người học đi tới
thành công, vươn tới vị trí cao trong xã hội. Điều này có lẽ là do ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục
Khổng Tử, đó là “học để làm quan”, để thành đạt.
Việc đặt nặng vấn đề tiếp thu kiến thức khiến việc học trở nên vất vả. Ngoài ra, áp lực thi cử, tâm
lý đề cao sự hiểu biết tinh thông về kiến thức, coi trọng thành tích học tập, các kỳ thi tốt nghiệp, thi
đại học khiến cả người dạy và người học chỉ chú trọng luyện cho người học khả năng làm được nhuần
nhuyễn các dạng bài thi, hoàn thành được bài thi với kết quả cao, tỉ lệ người học đỗ đại học cao. Chính
cách dạy truyền thụ này kìm hãm NLTC của người học.
Dưới đây là bảng so sánh hành vi được đề cao đối với người học ở các nước phương Tây và Á
Đông. (Bảng 2)
90 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Bảng 2: So sánh hành vi người học phương Tây và các nước Á Đông (Reisch & Tang, tr. 11)
Các nước phương Tây Các nước Á Đông
Nêu rõ các nhu cầu (cởi mở/thẳng thắn) Kiểm soát nhu cầu/tình cảm
Thấu hiểu, hiểu suy nghĩ của người khác Chấp nhận, phục tùng
Khẳng định bản thân trước người khác Hòa đồng với người khác
Nhấn mạnh quyền của mình Hoàn thành trách nhiệm của mình
Độc lập Năng lực
Tự chịu trách nhiệm Trách nhiệm với người khác
Hình thành quan điểm cá nhân Chấp nhận sự khác nhau trong quan điểm
Giải quyết xung đột Né tránh xung đột, chịu đựng
Chia nhỏ các việc, thử nghiệm, phân tích Luyện tập
Đối xử bình đẳng với nhau Đối xử tôn trọng nhau
Nhìn nhận sâu sắc sự việc Tìm kiếm sự phổ biến
Suy luận diễn dịch Suy luận quy nạp
Phân tích Sao chép
Giảm, tập trung Thêm, tích hợp
Cách này hoặc cách kia Cách này cũng như cách kia
Nguyên bản Chỉnh sửa
Lập luận, giải thích Lắng nghe, hiểu
Làm tốt hơn người khác Làm gương cho người khác
Có thể thấy rõ rằng, sự kỳ vọng của xã hội với những hành vi của người học ở các nước Á Đông,
trong đó có Việt Nam, bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng phục tùng, tâm lý chịu đựng. Mọi hành vi
đều hướng tới những chuẩn mực xã hội chung chứ không hướng tới nhu cầu cá nhân con người. Điều
này dẫn đến việc người học Á Đông thường tập trung nhiều vào các hoạt động luyện tập, nghe hiểu,
sao chép, coi trọng trách nhiệm với tập thể, né tránh rắc rối chứ không tập trung vào giải quyết vấn đề,
không phân tích tìm tòi sáng tạo như các nước phương Tây. Vì giáo viên Á Đông thường làm nhiệm
vụ truyền thụ kiến thức nên đánh giá người học chủ yếu hướng tới năng lực ghi nhớ, và tìm ra đáp án
đúng, những lời nhận xét của người dạy đối với người học gần như là rập khuôn máy móc. Những
yếu tố này rõ ràng không giúp gì cho việc phát triển NLTC của người học.
5. NHỮNG ĐỀ XUẤT
Hiện nay đã có rất nhiều thay đổi trong hệ thống giáo dục ở các nước Á Đông. Việt Nam cũng
đang tích cực tiến hành đổi mới toàn diện nền giáo dục, trong đó đề cao vai trò của người học, lấy
người học làm trung tâm, người dạy không còn đảm nhận nhiệm vụ truyền thụ kiến thức và kiểm soát
lớp học. Để khuyến khích người học tham gia vào quá trình học của mình, điều quan trọng là người
dạy phải xác định lại vai trò của mình trong lớp học (Hill, 1994). Tuy nhiên, quá trình này đòi hỏi
nhiều thời gian.
91KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
Như đã đề cập ở trên, ở các nước phương Tây
(xã hội coi trọng cá nhân), tự chủ được gắn với
yếu tố tự do, yếu tố cá nhân, cho nên quyền của
người học là đặt ra câu hỏi cho người dạy, những
câu hỏi liên quan đến nội dung học tập cũng như
quyết định một số khía cạnh của chương trình
học. Người học có quyền phê phán, bày tỏ suy
nghĩ đối lập với người dạy. Do vậy, để trở nên tự
chủ, người học cần có tinh thần và ý thức sáng
tạo, không chỉ làm việc độc lập tốt mà còn làm
việc theo nhóm hiệu quả. Người học cần có ý
thức chịu trách nhiệm đối với việc học của mình.
Bên cạnh đó, người dạy cần tạo môi trường
học tập tự chủ khuyến khích người học chủ động
trao đổi, tranh luận phản biện, có những đề xuất
về nội dung, kiến thức học tập. Quyền tự chủ có
thể được trao dần dần cho người học, ban đầu là
để người học làm quen, ví dụ: quyền lựa chọn
các tài liệu học tập, các hoạt động học tập, sau
đó người học có thêm quyền quyết định đưa ra
tài liệu, hoạt động học tập mà họ cảm thấy phù
hợp và hứng thú khi học. Khi đã được trao quyền
như vậy người học có thể tự xác định mục tiêu
học tập, lập kế hoạch học tập, giám sát và đánh
giá quá trình học tập của mình. Họ sẽ không còn
bị động và phụ thuộc người dạy.
Những điều này còn có tác dụng giúp người
học rất nhiều trong việc chủ động với công việc
và cuộc sống sau này. Người học tự chủ có thể
tìm kiếm cơ hội làm việc tốt hơn, chủ động trong
cuộc sống của mình. Nghiên cứu của Voller
(1997) và Cotterall (2003) đã khẳng định điều
đó. Tuy nhiên, có những người có năng lực tự
chủ cao, nhưng cũng có những người năng lực
tự chủ thấp. Mức độ tự chủ ảnh hưởng trực tiếp
tới cuộc sống của một người, người tự chủ thấp
khả năng gặp khó khăn sẽ cao hơn. Do vậy, nếu
NLTC của người học được hun đúc ngay từ khi
còn nhỏ, thì sẽ tốt hơn cho họ khi trưởng thành.
Cuối cùng, người dạy cần hiểu rõ các yếu tố
phát huy và ảnh hưởng tới NLTC của người học.
Đối với vai trò của mình, người dạy dám từ bỏ
vai trò làm chủ, kiểm soát và có quyền lực tối
cao trong lớp học, thay vào đó là duy trì nhiệm
vụ điều phối, tư vấn giúp đỡ người học, cần đặt
vị trí của mình vào người học, hiểu những gì
người học đang cần và thiếu để trở nên tự chủ
hơn. Người học cần được làm chủ lớp học. Việc
tăng cường tương tác giữa người học với nhau và
giữa người học với người dạy cũng giúp ích cho
NLTC được tăng cường. Cần lưu ý rằng, NLTC
có thể là yếu tố vốn có trong mỗi cá nhân người
học, nhưng nếu nó không được quan tâm và rèn
luyện liên tục thì khả năng này có thể suy giảm.
6. KẾT LUẬN
Việc thay đổi NLTC của người học tưởng
như chỉ liên quan đến sự thay đổi tâm lý, thay
đổi cá nhân, tuy nhiên điều đó là chưa đủ. Cần
có sự thay đổi lớn trong tư tưởng văn hóa xã hội,
trong hệ thống giáo dục, cấu trúc giáo dục truyền
thống, trong mối quan hệ rạch ròi thứ bậc giữa
thầy và trò. Điều này đều có thể đạt được nếu hệ
thống giáo dục thực sự đặt vai trò người học vào
vị trí trung tâm. Khi môi trường học tập trong đó
người học được trao cơ hội và quyền tự chủ; khi
phương pháp và phong cách dạy và học được
thay đổi theo hướng đề cao tinh thần và NLTC
của người học, khi nhận thức của con người về
tầm quan trọng của sự tự chủ được nâng cao, thì
NLTC sẽ tất yếu được phát triển.
Việc phát huy NLTC của người học là cần
thiết và hợp với xu thế giáo dục thời đại. NLTC
của người học cần được rèn luyện càng sớm càng
tốt vì nó không chỉ giúp nâng cao hiệu quả học
tập mà còn giúp ích những năng lực khác của
người học. Quan điểm “hành động để thay đổi”
là cái đích hướng tới của các quan điểm giáo học
pháp hiện đại, đặc biệt đối với thực tiễn dạy và
học ở Việt Nam. Những phương pháp sư phạm
không phù hợp và thiếu sự điều chỉnh theo đặc
thù văn hóa khu vực, vùng miền, đặc điểm người
học có thể ảnh hưởng tiêu cực tới mục tiêu nâng
cao NLTC. Điều này đã được Pennycook (1994)
cảnh báo khi nghiên cứu NLTC của người học./.
Tài liệu tham khảo:
1. Aoki, N., & Smith, R. (1999). “Learner
autonomy in cultural context: The case of
Japan”. In S. Cotterall & D. Crabbe (Eds.),
92 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
EXTERNAL FACTORS INFLUENCING LEARNER AUTONOMY
NGO PHUONG ANH
Abstract: This paper aims to investigate various factors that influence learner autonomy.
The factors are diverse and complicated, ranging from learner’s personality, learning habits,
learning preferences to learners’ cultural - social background as well as their learning context.
Understanding all these factors is essential in shaping and fostering learner autonomy. However,
within this paper, only socio-cultural factors will be focused and analysed in depth. This is
expected to help teachers, learners, pedagogists and education administrators determine which
factors may promote and which inhibit their learners’ learner autonomy enhancement. From this,
they could select, apply or design methods which boost their learners’ autonomy and which are
appropriate to their particular learners and teaching context.
Keywords: learner autonomy, influencing factors, socio-cultural factor, developing learner
autonomy.
Learner autonomy and language learning:
Defining the field and effecting change, (pp. 19-
27). Frankfurt, New York: Peter Lang.
2. Cotterall, S. (2000), “Promoting learner
autonomy through the curriculum:Principles for
designing language courses”, ELT Journal 54,2:
109-117.
3. Dam, L. (1995), Learner autonomy 3: From
theory to classroom practice. Dublin: Authentik.
4. Hill, B. (1994), “Self-managed language
learning: state-of-the-art”, Language Teaching
27, 213-223.
5. Ho, J. and Crookall, D. (1995), “Breaking
with Chinese cultural traditions: Learner
autonomy in English language teaching”.
System, 23/2, 235-243.
6. Holec, H. (1981), Autonomy and foreign
language learning. Oxford, UK: Pergamon Press.
7. Jones, J. (1995), “Self-access and culture”,
ELT Journal 49, 228-234.
8. Little, D. (2009), “Learner autonomy in
action: adult immigrants learning English in
Ireland”. In F. Kjisik, P. Voller, N. Aoki and Y.
Nakata (eds), Mapping the Terrain of Learner
Autonomy: Learning Environments, Learning
Communities and Identities, pp.51-85. Tampere:
Tampere University Press.
9. Marshall, N. and M. Torpey. (1997),
“Autonomy and interaction in a self-directed
classroom.” In V. Berry, B. Adamson, and W.
Littlewood (Eds.), Applied Linguistics: Insights
into Language in Education, Hong Kong:
English Centre, University of Hong Kong.
10. Ngô Phương Anh (2017), “Năng lực tự
chủ của người học và các lý thuyết liên quan”,
Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ Quân sự, Số 5,
tr. 27-30.
11. Pennycook, A. (1994), The Cultural
Politics of English as an International Language.
Harlow: Longman.
12. Reisch, Bernhard & Tang, Zailiang
(1992), Know-how Transfer Asien. Zur Ge
staltung deutsch-asiatischer Informations-
undWeiterbildungsmaßnahmen für Wei
terbildungsfachleute, Referenten und Fach
vortragende. Bad Honnef: Institut für
Interkulturelles Management.
13. Voller, P. (1997), Does the teacher have a
role in autonomous learning? London: Longman.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 68_8297_2137253.pdf