Những vấn đề quan yếu cần đặc biệt chú ý khi đối chiếu các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á - Đoàn Hữu Dũng

Tài liệu Những vấn đề quan yếu cần đặc biệt chú ý khi đối chiếu các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á - Đoàn Hữu Dũng: 97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong trào lưu nghiên cứu so sánh chung. Nó bao quát một lúc nhiều ngôn ngữ, bất luận ngôn ngữ đó cùng hay khác loại hình và ngữ hệ. Song phải nói rằng, nghiên cứu đối chiếu hình thành một cách trực tiếp trong tiến trình tìm tòi của con người để nắm ngoại ngữ một cách nhanh hơn và tốt hơn [2, tr.35]. Nhà ngôn ngữ học Pháp Di Pietro đã viết trong cuốn “Cấu trúc ngôn ngữ qua đối chiếu” rằng: “Ngôn ngữ học đối chiếu ra đời từ kinh nghiệm dạy tiếng”. “Việc nghiên cứu đối chiếu giúp chúng ta thâm nhập vào thực chất của các quá trình ngôn NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN YẾU CẦN ĐẶC BIỆT CHÚ Ý KHI ĐỐI CHIẾU CÁC NGÔN NGỮ NAM Á VÀ ĐÔNG NAM Á ĐOÀN HỮU DŨNG HOÀNG ANH NGUYỆN Học viện Khoa học Quân sự TÓM TẮT Tiếp xúc ngôn ngữ là một quá trình diễn ra liên tục mang tính lịch sử. Trong quá trình tiếp xúc đó, việc các ngôn ngữ có vay mượn hay ảnh hưởng lẫn nhau...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 409 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề quan yếu cần đặc biệt chú ý khi đối chiếu các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á - Đoàn Hữu Dũng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong trào lưu nghiên cứu so sánh chung. Nó bao quát một lúc nhiều ngôn ngữ, bất luận ngôn ngữ đó cùng hay khác loại hình và ngữ hệ. Song phải nói rằng, nghiên cứu đối chiếu hình thành một cách trực tiếp trong tiến trình tìm tòi của con người để nắm ngoại ngữ một cách nhanh hơn và tốt hơn [2, tr.35]. Nhà ngôn ngữ học Pháp Di Pietro đã viết trong cuốn “Cấu trúc ngôn ngữ qua đối chiếu” rằng: “Ngôn ngữ học đối chiếu ra đời từ kinh nghiệm dạy tiếng”. “Việc nghiên cứu đối chiếu giúp chúng ta thâm nhập vào thực chất của các quá trình ngôn NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN YẾU CẦN ĐẶC BIỆT CHÚ Ý KHI ĐỐI CHIẾU CÁC NGÔN NGỮ NAM Á VÀ ĐÔNG NAM Á ĐOÀN HỮU DŨNG HOÀNG ANH NGUYỆN Học viện Khoa học Quân sự TÓM TẮT Tiếp xúc ngôn ngữ là một quá trình diễn ra liên tục mang tính lịch sử. Trong quá trình tiếp xúc đó, việc các ngôn ngữ có vay mượn hay ảnh hưởng lẫn nhau là một hiện tượng hoàn toàn bình thường. Việc tìm ra những điểm tương đồng hay dị biệt là giữa các ngôn ngữ hay các ngữ hệ là nhiệm vụ được đặt ra đối với ngành ngôn ngữ so sánh đối chiếu. Bài viết này chỉ nêu ra một vài vấn đề mang tính quan yếu cần đặc biệt chú ý khi đối chiếu các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á làm cơ sở cho việc tiến hành nghiên cứu so sánh các ngôn ngữ cụ thể trong ngữ hệ Nam Á và các ngôn ngữ Đông Nam Á. Từ khóa: ngôn ngữ học so sánh đối chiếu ngữ cũng như hiểu sâu hơn các quy luật điều khiển các quá trình này”. Trong khuôn khổ của bài viết, chúng tôi không thể đi vào nghiên cứu cụ thể từng bình diện đối chiếu (như đối chiếu ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp hay ngữ dụng), cũng không thể đi đối chiếu tất cả các ngôn ngữ hay tất cả các ngữ hệ trong thế giới ngôn ngữ, chúng tôi chỉ tìm ra một vài vấn đề mang tính quan yếu khi đối chiếu các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á. Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt - dân tộc đông người nhất trong các dân tộc sống trên đất Việt Nam, một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á lục địa của vùng Đông Nam Á. Hiện nay 98 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI khi nói về nguồn gốc của nó, dường như các nhà nghiên cứu đều đã thống nhất được với nhau rằng: tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc tiểu chi Việt-Mường (cũng có người gọi là tiểu chi Việt- Chứt hoặc Vietic), nằm trong khối Việt-Katu thuộc khu vực phía Đông của ngành Môn-Khme, ngữ hệ (cũng gọi là họ ngôn ngữ) Nam Á. [2, tr.316] Về mặt ngôn ngữ học, Đông Nam Á là một không gian địa-ngôn ngữ học khá rộng lớn, chứa hơn một nghìn ngôn ngữ khác nhau, không chỉ gồm những nước thuộc hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), phân bố từ vùng Đông Bắc Ấn Độ đến Đông Dương, từ vùng Hymalaya và vùng phía Nam sông Dương Tử của Trung Quốc đến tận phần cuối bán đảo Malacca. Các cộng đồng dân tộc trong vùng này chịu nhiều ảnh hưởng rất sâu đậm của văn hóa Ấn Độ và văn hóa Hán (riêng Việt Nam là nơi chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán mạnh nhất). Khi nói các ngôn ngữ Đông Nam Á thì tên gọi này được hiểu là bao gồm các ngôn ngữ tồn tại trong khu vực địa-ngôn ngữ này. Về quan hệ cội nguồn, các ngôn ngữ Đông Nam Á thuộc các ngữ hệ lớn là: ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian), ngữ hệ Thái-Kađai (Tai Kadai) và ngữ hệ H’Mông- Miên (H’Mông Mien; ngữ hệ này cho đến gần đây vẫn được gọi là ngữ hệ Mèo-Dao) [1]. Như vậy tên gọi Nam Á được dùng ở đây và trong ngôn ngữ học nói chung, là tên gọi của một ngữ hệ (cũng còn gọi là ngữ tộc) chứ không phải chỉ là tên gọi của một vùng địa lí thông thường. Ngữ hệ Nam Á được coi là một ngữ hệ lâu đời nhất ở vùng Đông Nam Á. Các ngôn ngữ thuộc những ngữ hệ khác như Thái-Kađai, Hán-Tạng,... đều là những kẻ mới đến sau, bao bọc lấy ngữ hệ Nam Á bản địa [6, tr.12]. Trong nội bộ ngữ hệ Nam Á, các nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử của ngữ hệ này, chia ra hai ngành (cũng gọi là đại chi hoặc tiểu ngữ hệ) là ngành Munda và ngành Môn-Khmer. Vì vậy, việc phân tách, sắp xếp nội bộ các ngôn ngữ Nam Á khá phức tạp. Các ngôn ngữ Nam Á có quan hệ tiếp xúc với nhau từ rất sớm và mạnh do hệ quả của những cuộc di dân lớn trong lịch sử, đó là những cuộc Nam tiến của người Việt và quá trình hình thành phương ngữ Việt Nam, đó là những cuộc di cư của cư dân Tai từ Quí Châu, Quảng Tây xuống phương Nam và vùng Tây Nam, đó là sự đổ bộ của những người H’Mông-Miên từ miền Nam và Tây Nam Trung Quốc đến Lào, Việt Nam, Thái Lan vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Các cuộc di cư này có ảnh hưởng rất lớn đến những vấn đề xã hội học, nhân chủng học, dân tộc học, và ngôn ngữ học cũng không nằm ngoài hệ quả tiếp xúc đó. Điều này tạo nên nhiều điểm tương đồng về cấu trúc ngữ pháp, hình thái và từ vựng nên đã ít nhiều gây nhầm lẫn là các ngôn ngữ này có quan hệ cội nguồn. Chính vì thế, khi đối chiếu các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á, chúng ta không nên lệ thuộc vào việc chúng có quan hệ gì về mặt nguồn gốc, tiếp xúc hay loại hình thế nào mà nên hoàn toàn tự do lựa chọn vấn đề nghiên cứu theo từng nhu cầu và nhiệm vụ cụ thể. 2. NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN YẾU CẦN CHÚ Ý KHI ĐỐI CHIẾU CÁC NGÔN NGỮ NAM Á VÀ ĐÔNG NAM Á 2.1. “Thiếu” những phạm trù bắt buộc So với các nhóm ngôn ngữ khác, trong các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á lục địa thường “thiếu” các biểu hiện của các phạm trù bắt buộc. Lưu ý ở đây là “thiếu” chứ không phải không có, chính vì vậy trong các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á sẽ phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ khác để bù lại, mà thông thường đó là bằng phương tiện từ vựng. Ví dụ như, ý nghĩa biểu thị bị động thì ngôn ngữ nào cũng có, tuy nhiên trong các ngôn ngữ Đông Nam Á lại thường thiếu vắng các phương tiện chuyên dụng để biểu hiện ý nghĩa này như động từ phản thân trong tiếng Nga hay passive voice trong tiếng Anh. Do vậy, tiếng Việt hay các ngôn ngữ Đông Nam Á lại phải dùng thêm các động từ tình thái mang ý nghĩa bị động như được, bị, phải (trong tiếng Việt), đạy, pên, toong can (trong tiếng Lào, Thái Lan), ban, trôv ban, trôv te (trong tiếng Campuchia). Tuy cũng có các phương tiện ngữ pháp biểu hiện ý nghĩa bị động, nhưng không phải lúc nào các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á cũng có thể sử dụng tương đương như các nhóm ngôn ngữ khác được. Ví dụ như: 99KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v Trong tiếng Nga: Эта книга читается мной. không thể dịch tương đương sang các ngôn ngữ Đông Nam Á là: Tiếng Việt: Quyển sách này đang được đọc bởi tôi. Tiếng Lào: Pưm nị căm lăng đạy an khọi. Một phạm trù khác nữa cũng bị thiếu vắng trong các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á, đó là phạm trù giống, số, cách của danh từ. Trong các ngôn ngữ Xlavơ (ví dụ như trong tiếng Nga) danh từ được chia theo ba giống là giống đực, giống cái và giống trung; danh từ có hai số là số ít và số nhiều; danh từ biến đổi theo sáu cách số ít và sáu cách số nhiều. Các phạm trù này không liên quan đến giới tính hay số lượng, mà nó hoàn toàn là các phạm trù ngữ pháp được xác định trên cơ sở vĩ tố đứng ở cuối từ. Chẳng hạn như ngôi nhà – дом (danh từ giống đực, số ít, cách 1), книга (danh từ giống cái, số ít, cách 1), письмо (danh từ giống trung, số ít, cách 1), газеты (danh từ số nhiều, cách 1). Bằng trực quan, người học dễ dàng nhận diện được những phạm trù này nhờ vào vĩ tố đứng ở cuối cùng của từ như phụ âm –м, các nguyên âm -а, -о, -ы chứ không thể nào lí giải vì sao ngôi nhà là giống đực, quyển sách là giống cái hay bức thư lại là giống trung bằng cách quy theo giới tính được. Tương tự như vậy, phạm trù ngôi, thời, thể của động từ cũng bị thiếu vắng trong các ngôn ngữ ở Nam Á và Đông Nam Á. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á là các ngôn ngữ đơn tiết, không biến hình. Trong khi ở các ngôn ngữ khác các phạm trù này là bắt buộc thì ở các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á, chúng được suy ra từ ngữ cảnh và khi được thể hiện thì thể hiện bằng con đường từ vựng xuất hiện ở vị trí cú pháp đặc biệt của cấu trúc, nơi chúng được phân tích lại với tư cách là một chỉ tố ngữ pháp. Ví dụ, trong tiếng Nga, chỉ cần nhìn vào vỏ hình thức của động từ читаю người ta dễ dàng đọc được các phạm trù ngữ pháp trong đó như là động từ này được chia ở ngôi thứ nhất, thời hiện tại, thể chưa hoàn thành. Tương tự như thế, động từ goes trong tiếng Anh biểu thị ngôi thứ 3 số ít thời hiện tại. Trên đây là một vài dẫn chứng cụ thể, ngoài ra còn tồn tại một số phạm trù không bắt buộc phải có nữa trong các ngôn ngữ Đông Nam Á lục địa như: động từ thì có phạm trù thức, tính nội động hay ngoại động, hệ đối vị của thức, tính gây khiến, ; danh từ là vấn đề số, từ loại, tính sở chỉ (tính xác định hay không xác định của quán từ, giới từ), tính quan hệ sở hữu, Như vậy, trong các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á thường “thiếu” hẳn các chỉ tố ngữ pháp chuyên dụng, mọi phương tiện thể hiện ý nghĩa ngữ pháp đều cơ bản sử dụng con đường từ vựng là chính, tức là dùng các từ kết nối chỉ nghĩa trong câu. 2.2. Đơn vị hình thái học căn bản chính là âm tiết Các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á có đặc trưng chung về mặt hình thái học là: đơn vị nhỏ nhất mang nghĩa là các âm tiết, hay nói chính xác hơn là các đơn vị nhỏ nhất ấy trùng với âm tiết. Đặc trưng chung này được thể hiện rõ nhất ở tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Thái Lan, tiếng Lào, tiếng Khmer. Âm tiết (syllable) là đơn vị phát âm tự nhiên của con người. Chuỗi lời nói được con người phát ra thành các khúc đoạn lớn nhỏ khác nhau. Ví dụ, từ “học sinh”: trong tiếng Việt được phát âm từ 2 âm tiết là “học” và “sinh”; trong tiếng Lào “nắc hiên” được phát âm từ 2 âm tiết là “nắc” và “hiên”; trong tiếng Anh là “pupil” = “pju” + “pl”, tiếng Nga là 3 âm tiết: “ученик” = “у” + “че” + “ник”, ... Đặc điểm về cấu tạo, chức năng, vai trò âm tiết trong các ngôn ngữ và loại hình ngôn ngữ khác nhau là không giống nhau. Đối với tiếng Việt nói riêng và các ngôn ngữ Nam Á, Đông Nam Á nói chung, cương vị ngôn ngữ học của đơn vị hình thái học căn bản rất đặc biệt, nó có ranh giới vật chất trùng khít với một âm tiết. Âm tiết của các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á vừa là đơn vị phát âm vừa có các dấu hiệu cơ bản của một đơn vị hình thái học căn bản, chúng là 2 phạm trù khác nhau chứ không thể được gộp làm một được. Đây là điểm đặc trưng quan trọng cần chú ý. Chính vì vị trí của âm tiết trong các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á như vậy mà vai trò của âm vị (như nguyên âm và phụ âm) ở trong các ngôn ngữ này chỉ có vai trò âm vị học đơn thuần, trong khi đó các đơn vị âm vị của ngôn ngữ Ấn-Âu “lại có cương vị kép” [2]: vừa là cương vị âm vị học vừa là cương vị hình thái học. 100 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Một điểm đáng chú ý nữa là, ở các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á có hình thái học của âm tiết phụ (trong mối quan hệ đối lập với các âm tiết chính), bởi khi tiếp thu từ cội nguồn Nam Á có tồn tại các đơn vị song tiết. Các tiền âm tiết (presyllable) thường là các âm tiết mở, không phải là các âm tiết đóng. Trong quá trình tiếp xúc và sự hòa nhập, dần dần các âm tiết phụ này bị mất đi và chỉ còn lại âm tiết chính, do vậy các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á dần chuyển sang hình thái học âm tiết tính. Ví dụ, trong các văn tự tiếng Việt thế kỉ XVII vẫn còn từ “la đá có nghĩa là đá” (như: mưa la đá = mưa đá, hòn la đá = hòn đá, bàn la đá = bàn đá, la đá lửa = đá lửa, ... ). Điều này làm cho hệ hình thái của các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á không phong phú như các ngôn ngữ khác, đặc biệt là các ngôn ngữ Môn-Khmer. 2.3. Có sự linh động chuyển loại Trong các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á có sự linh động chuyển loại. Một từ hoàn toàn có thể chuyển từ từ loại này sang từ loại khác, không bị hạn chế về vị trí cú pháp. Từ có thể đứng hoàn toàn tự do trong câu, nó có thể đóng vai trò là một động từ hoặc một danh từ hay một phó từ ... Tính linh động này thúc đẩy quá trình ngữ pháp hóa làm cho một đơn vị hoàn toàn thuộc từ vựng có được một vị trí thích hợp với các chức năng ngữ pháp. Thể hiện rõ nhất là trường hợp một từ có thể thực hiện những chức năng khác nhau tùy thuộc vào vị trí mà nó đảm nhận trong cấu trúc. Nguyên nhân của hiện tượng này là do đặc điểm của các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á không có tính chất biến hình như các ngôn ngữ Ấn-Âu. Về mặt hình thức, người ta không thể nhìn vào đuôi từ để nhận biết ra từ loại được mà phải luôn đặt nó trong từng vị trí của câu để xác định chức năng ngữ pháp của nó. Ví dụ từ cho trong tiếng Việt sẽ đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau khi đặt nó ở những vị trí khác nhau trong câu. Điều này xảy ra hoàn toàn đúng với từ oi trong tiếng Khmer và từ hay trong tiếng Lào. (Xem bảng 1) 2.4. Trật tự từ Trật tự từ là một phương thức ngữ pháp được cho là quan trọng hàng đầu trong các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á vì thay đổi trật tự từ sẽ dẫn đến thay đổi chức năng ngữ pháp của từ trong câu và làm cho câu bị biến đổi về ngữ nghĩa. Trong tiếng Việt và một số ngôn ngữ Đông Nam Á đa phần theo quy tắc chính trước phụ sau: năm mới (tiếng Việt) - pi may (tiếng Lào) - chhnam thmey (tiếng Khmer) , nhà mới (tiếng Việt) - hươn may (tiếng Lào) - ptias thmey (tiếng Khmer) ; trong khi đó tiếng Hán và các ngôn ngữ Ấn-Âu lại theo quy tắc ngược lại, có nghĩa là phụ trước chính sau: tân niên, tân gia, новый год, новый дом, new year, new house, . Nếu quy tắc này bị đảo lộn, có thể nghĩa của câu sẽ bị thay đổi, hoặc sẽ tạo ra những tổ hợp từ vô nghĩa. Tuy nhiên, do cơ chế tiếp xúc Chức năng trong câu Tiếng Việt (cho) Tiếng Lào (hay) Tiếng Khmer (oi) Làm phó vị từ (vị từ tình thái) - Anh ấy đóng cửa cho tôi. - Anh ấy cho tôi nhiều tiền. - Lao at pa tu hay khoi. - Lao oau nguen hay khoi lai. - Kwat back thwe oi khnhum. - Kwat oi khnhum lui chrơn. Làm vị từ gây khiến - Nó làm cho tôi sợ. - Nó làm cho anh ấy giận. - Man het hay khoi nhan. - Man het hay lao khiet. - Via thvơ khnhum oi khleak - Via thvơ kwat oi khâng Làm tác tử trạng ngữ phụ thuộc - Tôi làm thế cho vui - Khoi het bep ni phaue hay muon xeun. - Khnhum thvơka oi awpuk khnhum săpbaj. Làm ngữ khí từ tình thái - (Làm thế) họ nói cho. - (Het bep ni) kau xi vao hay. - (t’wơ djang na) kê sdây oi. Bảng 1. 101KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v và xu thế vay mượn của các ngôn ngữ nên dần dần, quy tắc trên cũng ít nhiều bị ảnh hưởng theo. Trong tiếng Việt hiện nay xuất hiện một số từ mà thành phần trung tâm lại đứng ở đầu câu. Đó thường là những danh ngữ được cấu tạo theo mô hình danh ngữ tiếng Hán. Các trường hợp này tuy không nhiều, không phổ biến nhưng chúng được dùng ngay cả trên các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày, trong cả các chương trình nghị sự của quốc hội, như là một thực thể đã được cả cộng đồng chấp nhận từ lâu, chẳng hạn như các từ: bê tông hóa, cứng hóa, cơ khí hóa, cơ chế hóa, Huynh đệ quán, Tràng An đệ nhất nhà hàng, tân bí thư, tân thủ tướng, Điều này chỉ xảy ra trong tiếng Việt chứ không xảy ra đối với tiếng Lào, Thái Lan, tiếng Khmer. Nguyên nhân có thể là do ngôn ngữ Việt chịu ảnh hưởng của tiếng Hán rất mạnh và rất sâu sắc trong một thời gian quá dài, còn tiếng Lào, tiếng Khmer tiếp xúc với tiếng Hán ít hơn nên có sự chuyển di yếu hơn. 2.5. Loại từ Loại từ là từ chỉ ra loại mà sở chỉ của nó là một danh từ đơn vị. Các danh từ trong các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á lục địa chỉ nêu khái niệm, không biểu thị nội dung về số (như trong các ngôn ngữ Ấn- Âu) nên loại từ là để cá thể hóa, để nhấn mạnh, làm nổi tính đơn vị của vật. Vì vậy, loại từ buộc phải hiện diện cùng với số từ, ví dụ: Xuất phát từ việc phân loại, ta có thể xác định một cấp hệ như sau: Phân loại => nhận diện => các thể hóa (trong đó, tối thiểu là phải phân loại và nhận diện được các từ). Điều này có thể được tiến hành trong tất cả các ngôn ngữ toàn vùng. Ở đây có điểm đáng chú ý là cách kết hợp với số từ trong tiếng Hán và tiếng Việt là giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác so với tiếng Khmer và tiếng Lào, Thái Lan. Tiếng Hán và tiếng Việt có cùng trật tự là: số từ + loại từ [danh từ đơn vị] + danh từ [danh từ khối], ví dụ như: một cốc bia, hai con gà, ba ngôi nhà, bốn cái cốc, năm quyển sách, nhưng trong tiếng Khmer, tiếng Lào, tiếng Thái Lan lại là bia một cốc, gà hai con, nhà ba ngôi, cốc bốn cái, sách năm quyển, có nghĩa là đưa danh từ khối lên đầu rồi mới đến số từ và danh từ đơn vị. Ngoài yếu tố chỉ số lượng, đặc điểm chung của các loại từ [danh từ đơn vị] của các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á là: khi khái niệm đã được giới thiệu thì nó sẽ được đánh dấu như một vật đã xác định (có khi chỉ đánh dấu bằng một loại từ, có khi bằng loại từ cùng với từ chỉ xuất, đôi khi chỉ bằng từ chỉ xuất). Ví dụ: trong tiếng Việt khi thực hiện hành động mua bán ngoài chợ, người ta có thể nói “Mua một con. Mua con này.”, tiếng Khmer là “Tinh mouy kbal hery. Tinh mouy kbal nis.”, tiếng Lào là “Seu to neung. Seu to ni.” mà không cần phải nói rõ hay lặp lại danh từ khối nữa. Đặc điểm về cách dùng loại từ là đặc điểm chung có nét khu biệt khá rõ ràng so với các ngôn ngữ khác, đặc biệt là so với các ngôn ngữ Ấn-Âu. So sánh đối chiếu loại từ trong các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á với các ngôn ngữ khác là một vấn đề rất phức tạp và khó khăn. 102 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 2.6. Chỉ tố phái sinh chỉ hướng và biểu thị thời - thể - tình thái Các chỉ số phái sinh từ từ vựng, để chỉ hưởng và biểu thị thời - thể - tình thái rất hay dùng ở khu vực Đông Nam Á. Đó thường là các động từ có hướng như: đến, về, lên, xuống, sang, qua, ra, vào, trong tiếng Việt, trong tiếng Lào là: ma, cap, ooc, nay, Ví dụ: Tiếng Việt: Anh ấy đi vào nhà. Cô ấy ra chợ. Ông ấy sang Việt Nam. Tiếng Lào: Lao khau huon. Lao ooc ta lat. Lao ma Viet Nam. Tiếng Khmer: Bong bros mok p’teas. Bong srey tov psa. Lok ta mok Vietnam. Các động từ kiểu này được gọi là phó động từ (coverbs). Các chỉ tố biểu thị thời - thể - tình thái có thể đứng trước động từ hoặc vị trí kết thúc mệnh đề. Trong tiếng Hán, -le, -zhe, -guo, 2.7. Động từ tình thái Trong ngôn ngữ, các tình thái của phát ngôn làm thành một bảng màu rất đa dạng, trong đó phần lớn đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến tính hiện thực, tính tất yếu và tính khả năng, nhưng dưới nhiều sắc thái khác nhau và có nhiều cách biểu hiện khác nhau. Cao Xuân Hạo trong cuốn Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng đã nhận định: “Trong tiếng Việt, tình thái hiện thực hay trần thuật khẳng định được diễn đạt bằng cách sắp xếp các từ ngữ biểu thị sở thuyết và các tham tố của nó theo trật tự được quy định cho một câu cơ bản có cấu trúc đề - thuyết. Nếu trật tự này không được thực hiện, hoặc nếu vi phạm một quy tắc nào đó của các cấu tạo câu, tình thái này sẽ không còn nữa, và ta chỉ có những từ ngữ rời rạc” [5, tr.96-97]. Trong các ngôn ngữ có hình thái học, tình thái được thực hiện trước tiên là bằng cách dùng một hình thái “hữu tận” của vị từ. [5, tr. 97]. Các ngôn ngữ không biến hình, vốn không thể diễn đạt tình thái bằng những biến vĩ, thường có một hệ thống vị từ tình thái rất phong phú làm trung tâm. Các động từ tình thái trong các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á có tính ngữ pháp hóa rất cao và mang rất nhiều hàm ý. Chúng tham gia vào cấu trúc phát ngôn biểu hiện thái độ của người nói với hiện thực. Tùy thuộc vào từng hành động và ngôn cảnh cụ thể qua sự thể hiện của các động từ tình thái mà người nói hoàn toàn có thể biểu lộ được sự đánh giá về điều mong muốn hay không mong muốn, có khả năng hay không có khả năng, hiện thực hay phi hiện thực, chắc chắn hay nghi ngờ, được phép hay bị cấm, của điều được nói trong phát ngôn. Chẳng hạn như các động từ: có thể, giao hẹn, hẹn, phải, cần, được, bị, dám, toan, định, nỡ, mong muốn, hi vọng, tin tưởng, tưởng,... trong tiếng Việt; sa mat, nat mai, nat, tong, tong can, yak, day, theuk, ka, ya, vang va, khuam vang, seua man,... trong tiếng Lào; arch, soniya, trovka, ban, trovban, bro sin ber, hean, chong, song khem, cher, sman,... trong tiếng Khmer. Phần lớn các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á chỉ “chọn sử dụng” một số hàm ý, thậm chí có những hàm ý bị loại hoàn toàn. Ví dụ, ở tiếng Hán động từ tình thái được qui về tình thái đạo nghĩa; ở tiếng Việt động từ tình thái được qui về phạm trù khả năng và được phép, cùng với đó là nghĩa “phải/ buộc”; trong tiếng Thái và tiếng Khmer động từ tình thái được qui về vấn đề “khả năng/cho phép” và “quá khứ”; tiếng H’Mong là phạm trù “quá khứ” nhưng không loại trừ hàm ý “khả năng/cho phép”. 2.8. Một số hiện tượng khác Ngoài các điểm quan yếu như đã nói ở trên, trong quá trình tìm hiểu, so sánh đối chiếu các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á, chúng ta còn phải đặc biệt quan tâm đến một số vấn đề đặc trưng khác, ví dụ như danh từ quan hệ (cạnh, bên [trong tiếng Việt], now (đằng trước) [tiếng Thái] ); các biểu hiện ý gây khiến bằng các động từ làm, đánh [trong tiếng Việt], oi, thvơ [trong tiếng khmer] ); 103KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v các cấu trúc có hình thức bị động như được, bị, phải + V [trong tiếng Việt], ban, trâw + V [trong tiếng Khmer] ); việc thể hiện ý nghĩa cách thức, công cụ bằng thực từ lấy, dùng và hư từ bằng [trong tiếng Việt], prơ [trong tiếng Khmer] ); cấu trúc so sánh dựa trên động từ có nghĩa “hơn” [trong tiếng Việt], ciêng [trong tiếng Khmer], Thái, Quảng Đông); và nhiều vấn đề khác nữa. Mỗi một vấn đề đặt ra cho người nghiên cứu một nhiệm vụ riêng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể đòi hỏi sự tìm tòi nghiêm túc. 3. KẾT LUẬN Tóm lại, nghiên cứu các ngôn ngữ Nam Á và Đông Nam Á lục địa có nét đặc trưng là có hiện tượng ngữ pháp hóa định hướng ngữ dụng, có một số hiện tượng ngữ pháp hóa giống nhau, có mô hình cú pháp, ngữ nghĩa tương tự nhau. Nguyên do của các hiện tượng này là sự tiếp xúc cư dân lâu năm không thể tránh khỏi qui luật tiếp xúc ngôn ngữ và việc phân tán các đặc điểm chung vào các bối cảnh ngôn ngữ riêng. Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á không bị cản trở bởi bất cứ lí do gì. Nhưng cần hết sức chú ý đến những đặc điểm chung, những dị điểm và hướng đồng qui do tiếp xúc ngôn ngữ lâu đời trong vùng đem lại./. Tài liệu tham khảo: 1. Bright, W, (Editor in chief ) (1992), Encyclopedia of Linguistics, Oxford University Press. 2. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Trần Trí Dõi (2011), Một vài vấn đề nghiên cứu so sánh – lịch sử nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 4. I.M. Pun-ki-na (1983), Tóm lược ngữ pháp tiếng Nga, Nxb. Tiếng Nga, Mát-xcơ-va, Người dịch Dương Đức Niêm, các biên tập viên Bùi Hiền, V.I. Mê-sê-ri-a-côp. 5. Cao Xuân Hạo (2006), Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Vũ Đức Nghiệu (2011), Lược khảo lịch sử từ vựng tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 7. Lê Quang Thiêm (2008), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb. ĐHQGHN, Hà Nội. 8. R.J. de Pietro (1971), Language structures in contrast, Ronley, Mass. IMPORTANT ISSUES IN COMPARING LANGUAGES OF THE SOUTH ASIAN AND SOUTH EAST ASIAN FAMILIES Abtract: Language contact is a continuous process bearing historical significance. This process naturally creates opportunities for languages to interract and borrow linguistic elements. Therefore, contrastive linguistics is tasked with finding similarities and differences between individual languages or language families. This article discusses several issues as a case-study and makes recommendations for deep research projects on comparing and contrasting languages in the South Asian and South East Asian language families. Keywords: contrastive linguistics Ngày nhận: 10/5/2016 Ngày phản biện: 14/7/2016 Ngày duyệt đăng: 21/7/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf9_8862_2137194.pdf
Tài liệu liên quan