Những vấn đề đặt ra để cuộc vận động “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thực sự đi vào cuộc sống

Tài liệu Những vấn đề đặt ra để cuộc vận động “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thực sự đi vào cuộc sống: Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG Những thuận lợi và sự cần thiết của cuộc vận động Việt Nam hiện có trên 89 triệu dân, ngoài ra còn có trên 4 triệu người Việt đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau. Như vậy, hơn 90 triệu người Việt ta quả là một thị trường tiêu thị trực tiếp và gián tiếp ngày càng mở rộng cùng với sự phát triển kinh tế nói chung và sự cải thiện thu nhập của từng người dân nói riêng. Hơn nữa, thị trường này còn có ý nghĩa hơn khi tính đến mức thu nhập quốc dân trung bình hiện nay là hơn 1000 USD/người/năm của người dân trong nước, thì có đến trên 2/3 là chi tiêu cho các nhu cầu ăn uống, ở, mặc, học tập, chữa bệnh, giải trí và đi lại hoàn toàn có thể chỉ bằng “hàng trong nước” nếu có đủ hàng có sức cạnh tranh so với hàng ngoại nhập (chỉ tính riêng trong số 10 tỷ USD hàng cơ kim khí mà Việt Nam hiện phải nhập khẩu hàng năm, thì có tới 60% là hàng mà trong ...

pdf42 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 456 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Những vấn đề đặt ra để cuộc vận động “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thực sự đi vào cuộc sống, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG Những thuận lợi và sự cần thiết của cuộc vận động Việt Nam hiện có trên 89 triệu dân, ngoài ra còn có trên 4 triệu người Việt đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau. Như vậy, hơn 90 triệu người Việt ta quả là một thị trường tiêu thị trực tiếp và gián tiếp ngày càng mở rộng cùng với sự phát triển kinh tế nói chung và sự cải thiện thu nhập của từng người dân nói riêng. Hơn nữa, thị trường này còn có ý nghĩa hơn khi tính đến mức thu nhập quốc dân trung bình hiện nay là hơn 1000 USD/người/năm của người dân trong nước, thì có đến trên 2/3 là chi tiêu cho các nhu cầu ăn uống, ở, mặc, học tập, chữa bệnh, giải trí và đi lại hoàn toàn có thể chỉ bằng “hàng trong nước” nếu có đủ hàng có sức cạnh tranh so với hàng ngoại nhập (chỉ tính riêng trong số 10 tỷ USD hàng cơ kim khí mà Việt Nam hiện phải nhập khẩu hàng năm, thì có tới 60% là hàng mà trong nước có thể sản xuất được). Còn trên 4 triệu người Việt hiện đang sinh sống ở hơn 100 nước trên thế giới với tổng thu nhập trên 40 tỷ USD/năm (trong đó hơn 50% số người và tài sản tập trung ở Mỹ, Cana đa, Pháp, LB.Nga), tức bằng gần ½ GDP trong nước, thì nhu cầu hàng Việt trong ăn uống và sinh hoạt gia đình và cá nhân khác cũng là phân khúc thị trường khổng lồ xét cả về tiềm năng và hiện thực trực tiếp tiêu thụ và giúp tiêu thụ hàng Việt Nam ở nước ngoàiĐặc biệt, với khẩu vị và thói quen “gia truyền”, thì về tâm linh và tính cấp thiết, hàng Việt còn luôn được ưu tiên trong danh mục mua sắm tổng thể và cơ bản cho ăn uống hàng ngày và nhất là đón Tết Cổ truyền của tất cả những người Việt, dù là đang sống trong nước hay định cư ổn định ở nước ngoài. Thực tiễn trong nước và thế giới đã, đang và sẽ còn tiếp tục chứng tỏ, nền kinh tế hàng hoá (nhất là đối với những hàng hóa và dịch vụ thông thường) luôn gắn chặt với sự phát triển quy mô thị trường bản địa. Đa phần các doanh nghiệp trong nước sẽ khó kinh doanh một cách hiệu quả hoặc mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh của mình nếu không bán được hàng hoá và dịch vụ trước hết cho người tiêu dùng trong nước, trong địa phương nơi đặt cơ sở doanh nghiệp... Thấm hiểu điều này, từ trước đến nay, cả Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái lan và hàng loạt quốc gia dù đang phát triển hay đã phát triển khác trên thế giới đều không ngừng đề cao vai trò của thị trường trong nước và không ngừng cổ vũ cho chủ trương sản xuất hàng trong nước chất lượng cao phục vụ cho người tiêu dùng trong nước. Họ cũng không ngần ngại xây dựng và triển khai nhiều chương trình hành động quốc gia, sử dụng nhiều hàng rào kỹ thuật và tổ hợp các biện pháp đủ loại phục vụ cho mục tiêu chung đặt ra Với tinh thần đó, chủ trương “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” mà BCT đã chính thức phát động năm 2009 là hết sức đúng đắn, kịp thời và có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đặc biệt, chủ trương đó có giá trị thực tiễn và có thể trở thành động lực mới cho phát triển đất nước trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu hiện nay, một khi nó được cụ thể hoá và thể chế hoá, đồng thời NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỂ CUỘC VẬN ĐỘNG “NGƯỜI VIỆT NAM ƯU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM” THỰC SỰ ĐI VÀO CUỘC SỐNG TS. Nguyễn Đình Dương - TS. Nguyễn Minh Phong Viện nghiên cứu phát triển KTXH Hà Nội 2 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG tạo hợp lực cần thiết từ nhiều phía theo tinh thần người Việt Nam ưu tiên tiêu thụ hàng Việt Nam cả ở trong nước, lẫn ở nước ngoài Những vấn đề đặt ra và giải pháp cho cuộc vận động Khẩu hiệu “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” không thể có giá trị thực tiễn và trở thành động lực mới cho phát triển đất nước, một khi nó không được cụ thể hoá và thể chế hoá, cũng như không thể dựa trên sự kéo dài mãi những cố gắng và hy sinh “đơn phương”, từ một phía Thực tế cho thấy, để cuộc vận động này thực sự đi vào cuộc sống, cần chú ý giải quyết tốt một số vấn đề sau: Thứ nhất, nâng cao chất lượng và sự hấp dẫn của hàng Việt Trong bối cảnh mở cửa, người tiêu dùng có quyền rộng rãi hơn trong tiếp nhận thông tin và cơ hội lựa chọn các hàng hoá và nguồn cung cấp theo ý mình. Vì vậy, sẽ thật khó thuyết phục người tiêu dùng Việt Nam mua hàng Việt Nam chỉ vì lòng yêu nước thuần tuý, dù cao cả, khi mà chất lượng hàng nội quá kém, mẫu mã lại đơn điệu và các dịch vụ hậu mãi dường như không có, so với các hàng ngọa nhập có mẫu mã bắt mắt, với nhiều tiện ích gia tăng và tính năng độc đáo, vượt trội, lại được hỗ trợ bởi làn sóng quảng cáo chuyên nghiệp, lợi hại, công phu, tinh vi, có tổ chức. Nói cách khác, hàng Việt Nam sẽ thuyết phục được người tiêu dùng Việt Nam khi những người lao động và quản lý doanh nghiệp Việt Nam “trên dưới một lòng “tận tâm hiệp lực sản xuất ra hàng hoá một cách trân trọng, giá cả cạnh tranh với hàng ngoại nhập và với chất lượng “như là làm cho mẹ mình dùng” - như lời một doanh nghiệp thành công với thị trường trong nước khẳng định - chứ không chạy theo lợi nhuận thuần tuý và lợi ích ngắn hạn mà làm ăn tắc trách, dối lừa. Hàng Việt Nam chất lượng cao dễ đọng lạ trong lòng người tiêu dùng Việt Nam hiệu quả và nhân văn hơn hẳn những clip quảng cáo đắt đỏ trên các đài truyền hình vào những giờ vàngHàng Việt Nam sẽ chinh phục người tiêu dùng Việt Nam và cả trên thị trường nước ngoài tốt hơn khi chúng ngày càng tiếp cận gần hơn các tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu nghiêm ngặt nhất về vệ sinh, an toàn thực phẩm và các yêu cầu bảo vệ môi trường, dịch vụ hậu mãi vì lợi ích người tiêu dùng và cộng đồng v.v... Thứ hai, quan tâm xây dựng, quảng bá và bảo vệ thương hiệu hàng Việt Xây dựng và bảo vệ thương hiệu là việc tạo dựng và bảo vệ một biểu tượng, hình ảnh về doanh nghiệp, cũng như về sản phẩm của doanh nghiệp trong tâm trí người tiêu dùng, làm cho người tiêu dùng tin tưởng hơn, yên tâm hơn và có mong muốn được lựa chọn và tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp, còn các đối tác khác chấp nhận đầu tư, hợp tác làm ăn với doanh nghiệp lâu dài Thực tế cho thấy, việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu có tác dụng tích cực trong việc khuyến khích hợp tác, gắn kết giữa các doanh nghiệp và thành phần kinh tế. Một thương hiệu mạnh tự thân có khả năng hấp dẫn cao với hầu hết các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Một doanh nghiệp sở hữu một thương hiệu mạnh thường trở thành một “địa chỉ đỏ” để các doanh nghiệp khác tìm đến, ký kết hợp tác, hoặc doanh nghiệp có thể lấy thương hiệu đó như là một tài sản để góp vốn vào những doanh nghiệp cổ phần mà họ muốn. Việc bảo vệ bản quyền thương hiệu theo các quy định pháp luật hiện hành và phù hợp với thông lệ quốc tế cũng là một điều kiện để đảm bảo sự hợp tác, gắn kết kinh tế ổn định và lành mạnh giữa các doanh nghiệp và thành phần kinh tế. Vấn đề thương hiệu nhiều khi được nhắc đến như một  “mốt thời thượng” của người sính chữ, làm sang trong giao tiếp, phát biểu, kiểu như “hội nhập” và “phát triển bền vững”. Từ thái cực dửng dưng coi thường, hoặc đơn giản hoá, xem việc xây dựng thương hiệu cũng chỉ là tạo ra cho hàng hoá của mình một cái tên gọi riêng và tiến hành đăng ký bảo hộ cái tên gọi đó ở những thị trường đích, nhiều doanh Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 3 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG nghiệp lại chuyển sang thái cực quá đề cao, khi cho rằng chỉ cần một thương hiệu là có thể kinh doanh và lao vào đầu tư cho việc xây dựng thương hiệu trong một thời gian nhất thời và yên tâm với thành công, bất kể sau đó thương hiệu này nhanh chóng bị rơi vào quên lãng, do nó không được chăm sóc, duy trì và phát triển trong chính hoạt động kinh doanh. Thực tế trong nước và thế giới ngày càng khẳng định, trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, thương hiệu là tài sản vô hình rất có giá của doanh nghiệp, tạo uy tín, danh dự, lợi thế cạnh tranh và quyết định thành công của doanh nghiệp trong kinh doanh. Xây dựng thương hiệu phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của các Công ước, Thoả ước quốc tế và Luật quốc gia về nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, tên gọi xuất xứ và chỉ dẫn địa lý. Khi lựa chọn tạo biểu trưng với tên gọi riêng, những dấu hiệu phân biệt cần đặc biệt lưu ý đến tính pháp lý, không trùng với tên, logo, dấu hiệu đã được người khác đăng ký bảo hộ hoặc vi phạm những trường hợp mà pháp luật quy định. Xây dựng thương hiệu cá biệt cho từng loại sản phẩm một mặt tạo ra sự đa dạng, phong phú về thương hiệu của doanh nghiệp, tạo cơ hội cao hơn cho người tiêu dùng có thể lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp. Mặt khác, với nhiều thương hiệu, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ chiếm được nhiều diện tích trưng bày hơn trong các siêu thị, tạo ra một sự cạnh tranh theo chủ định của doanh nghiệp ngay trong các sản phẩm của mình. Điều đó sẽ hạn chế bớt rủi ro cho doanh nghiệp. Một sản phẩm nào đó không thành công trên thị trường sẽ ít gây hại cho doanh nghiệp vì bản thân doanh nghiệp đã sở hữu nhiều thương hiệu. Xây dựng, phát triển và bảo vệ thương hiệu là quá trình đầu tư lâu dài, bền bỉ và liên tục, đồng nghĩa với việc duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp những dịch vụ tối ưu sau bán hàng, làm sao để người tiêu dùng biết đến, chấp nhận, tin tưởng và yên tâm khi lựa chọn sản phẩm có thương hiệu đó. Người tiêu dùng hoàn toàn không lựa chọn hàng hoá và dịch vụ vì hàng hoá và dịch vụ đó có tên hay, logo đẹp, mà chính là chất lượng, giá cả của hàng hoá, dịch vụ đó, thái độ ứng xử của doanh nghiệp. Thương hiệu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Trước hết, nó phụ thuộc vào tầm quốc gia, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và công nghệ của quốc gia. Tiếp đến, nó phụ thuộc vào chất lượng và mẫu mã cụ thể của sản phẩm, trong đó chất lượng nhiều khi rất đơn giản, chỉ là nút thắt của khuy áo được thít cẩn thận, không tuột cho hết đời sản phẩm chiếc áo sơmi. Chúng ta cần có một tư duy mới về cách làm thương hiệu. Thương hiệu Việt Nam được định hình qua một chiếc o to hay máy bay là không thực tế và đắt đỏ; hãy bán một con đinh ốc cho toàn thế giới thay vì bán cả chiếc máy do gia công lắp ráp chỉ ở một vài địa phương nội địa nào đấy. Giờ đây, thay vì làm thương hiệu cho cả một sản phẩm hoàn chỉnh, chúng ta nên chấp nhận làm thương hiệu cho một chi tiết trong cả tổng thể. Không nên dại dột đuổi theo một thương hiệu lớn có thể bị phá sản dễ dàng, mà nên sản xuất những chi tiết nhỏ bất kỳ ở đâu cũng có thể dùng, với chất lượng tốt mà chúng ta làm chủ được cả về công nghệ, nguyên liệu và chất lượng sản phẩm...Sản phẩm cần và có thể đa dạng hóa, đổi mới mẫu mã không ngừng theo nhu càu, thị hiếu người tiêu dung và thị trường, nhưng thương hiệu nên có sự ổn định và tĩnh lặng cần thiết để khắc sâu vào tâm trí và lòng người, như tên một người thân thiết trong gia đình, người quen vậyMột thương hiệu lạ cần nhiều thời gian và tiền bạc để chinh phục và nằm lại trong cộng đồng đối tác và người tiêu dùng, khách hang; Vì vậy hãy suy nghĩ kỹ hơn trước khi thay đổi thương hiệu nếu không có những thay đổi lớn khác đi kèm. Để thương hiệu nhanh chóng đến được với người tiêu, cần tăng cường các hoạt động quảng cáo có tính chuyên nghiệp cao cả trên truyền hình, báo chí, trên làn sóng phát 4 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG thanh, trên các tờ rơi, tại các hội chợ triển lãm. Lựa chọn thông điệp trong quảng cáo sẽ góp phần cực kỳ quan trọng vào sự thành công của quảng cáo. Thông điệp và nội dung quảng cáo phải ngắn gọn, rõ ràng và mang sắc thái riêng, thể hiện ý tưởng của công ty và của sản phẩm. Sự tham lam về nội dung và thiếu chọn lọc về từ ngữ, cũng như những giọng đọc thô thiển sẽ mang lại cảm giác khó chịu cho người tiếp nhận thông điệp. Hoạt động giao tiếp cộng đồng (Public Re- lation - PR) bao gồm rất nhiều các hoạt động cụ thể như tài trợ cho các chương trình thể thao, văn hoá, xã hội; hỗ trợ lũ lụt, thiên tai; giao lưu trực tiếp với khách hàng sẽ mang đến cho người tiêu dùng nhiều thông tin hơn về doanh nghiệp và về hàng hoá của doanh nghiệp, trong khi người tiêu dùng lại có cảm giác ít bị “hội chứng” quảng cáo hơn, các thông điệp ít mang tính thương mại hơn nên dễ được người tiêu dùng chấp nhận trong khi chi phí lại khá thấp. Xây dựng và quảng bá thương hiệu cần có vai trò của hiệp hội, chứ không chỉ của Nhà nước và của doanh nghiệp. Thay vì cơ cấu như một bàn tay nhà nước nối dài, hiệp hội phải mang đúng nghĩa NGO của nó, có tầm quốc tế và thực sự vỡ lợi ích của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, quản lý Nhà nước cũng cần quan tâm đến việc đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế, nhằm phòng tránh và khắc phục những hệ quả tiêu cực của lạm dụng danh nghĩa hợp tác để tạo độc quyền, lũng đoạn thị trường, triệt hạ các doanh nghiệp đối thủ trên thương trường, vì lợi ích cục bộ và doanh nghiệp mà làm tổn hại đến lợi ích xã hội, nhà nước và quyền lợi của người tiêu dùng. Hơn nữa, cũng cần quan tâm bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ và thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp chủ sở hữu đích thực, ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc, kịp thời hiện tượng gian dối, ăn cắp, chiếm đoạt thương hiệu một cách trắng trợn, bất hợp pháp, hoặc một cách tinh vi trên cơ sở dùng thủ đoạn và lách luật. Thứ ba, tăng cường sự định hướng và sự hỗ trợ của Nhà nước, hiệp hội đối với sản xuất và phân phối hàng Việt. Khẩu hiệu “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, đặc biệt khi mở rộng theo nghĩa ưu tiên tiêu thụ và bán hàng Việt Nam, sẽ không dừng lại ở ý nghĩa cổ động chính trị thuần tuý, mà ngày càng trở thành thực tiễn kinh tế-xã hội sinh động, mang lại hiệu quả to lớn toàn diện cả cấp vĩ mô, lẫn vi mô, trong nước và ở nước ngoài, trước mắt, cũng như lâu dài, khi có sự hỗ trợ có tổ chức, thông minh và thực chất của Nhà nước Việt Nam nhăm tăng thuận lợi trong tiếp cận, khả năng thanh toán và nhận thức của người tiêu dùng về hàng Việt Trước hết, Nhà nước tạo mọi cơ hội nhằm làm giảm bớt các chi phí thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tổ chức sản xuất và phân phối hàng hoá Việt Nam. Trước mắt, trong thời gian tới, cần mở rộng những hỗ trợ tài chính Nhà nước như tinh thần Thông tư số 207/2009/TT-BTC ngày 28/10/2009, theo đó, từ ngày 12/12/2009 các hoạt động đưa hàng Việt về bán tại nông thôn, các khu công nghiệp và đô thị được NSNN hỗ trợ 70% chi phí vận chuyển, quầy hàng và nhân công phục vụ, và hỗ trợ 100% kinh phí thực hiện bài viết và các hoạt động truyền thông tạo nhận thức chung cho cộng đồng hướng về hàng Việt. Đồng thời, các địa phương cần vận động các ngành hàng, quầy hàng, tiểu thương tại các chợ và trung tâm thương mại trên toàn quốc liên kết với nhau và với các doanh nghiệp cùng cam kết, đăng ký hộ kinh doanh hàng Việt đảm bảo chất lượng, giá cả và thực hiện các nội dung cam kết bảo vệ người tiêu dùng; Thực hiện chương trình khuyến mãi đối với hoạt động kinh doanh hàng Việt qua các hình thức cụ thể, như giảm giá trực tiếp qua các sản phẩm, bán đúng giá các mặt hàng Việt và các chương trình quà tặng kèm khi mua hàng Việt Nhà nước cũng cần tiếp tục phát động và duy trì những cuộc vận động cấp quốc gia, thực hiện những biện pháp đồng bộ và nhất quán cần thiết trong khuôn khổ các cam kết hội nhập đã ký, nhằm tăng cường (Xem tiếp trang 18) Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 5 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG Ngày 15/6/2009, Bộ Chính trị BCH TƯ Đảng khoá X đã có Thông báo Kết luận số 264-TB/TƯ về tổ chức Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” (dưói đây gọi tắt là CVĐ) Sự vào cuộc đồng bộ và tích cực của các cấp ngành Hà Nội là một trong những địa phương đi đầu hưởng ứng và tích cực triển khai có hiệu quả CVĐ. Theo Quyết định số1413-QĐ/TU ngày 23/10/2009 cảu Thành ủy Hà Nội, Ban Chỉ đạo CVĐ đã được thành lập và chỉ đạo triển khai đồng bộ các nội dung của CVĐ theo 04 nhóm nhiệm vụ và giải pháp cơ bản là: Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, vận động mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị, người tiêu dùng nhận thức đúng khả năng sản xuất-kinh doanh, chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam, vận động doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, xây dựng thương hiệu quốc gia, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Thứ hai, rà soát, ban hành bổ sung quy định pháp lý, cơ chế, chính sách bảo vệ thị trường và bảo vệ người tiêu dùng trong nước, kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng nguồn NSNN, xử lý nghiêm cá nhân, đơn vị không gương mẫu thực hành tiết kiệm, chi tiêu lãng phí; Thứ ba, hỗ trợ doanh nghiệp ở một số hoạt động như tổ chức điều tra, khảo sát thị trường, hội thảo, hội trợ, triển lãm hàng Việt Nam, đưa hàng Việt Nam đến bán ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khu công nghiệp, khu chế xuất, xúc tiến thương mại nội địa, mở rộng hệ thống bán lẻ, sản xuất hàng hoá, dịch vụ chất lượng cao, xây dựng thương hiệu hàng Việt Nam; Thứ tư, đổi mới, chấn chỉnh các hoạt động quản lý thị trường, hải quan, thuế, cập nhật thông tin các tiêu chuẩn về chất lượng, giá cả sản phẩm, hàng hoá Việt Nam sản xuất và hàng ngoại nhập trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là hàng hoá trực tiếp phục vụ dân sinh, xử lý nghiêm các vi phạm về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ). BCĐ Thành phố duy trì tốt chế độ giao ban, sơ kết rút kinh nghiệm với các thành viên và với BCĐ CVĐ các quận, huyện, thị xã. Ngày 10/3/2010 BCĐ Thành phố ban hành Quyết định số 19/QĐ-MTHN- BCĐTP thành lập Ban Tổ chức cuộc bình chọn “Hàng Việt Nam được người Thủ đô yêu thích” do Đài PT&TH Hà Nội chủ trì phối hợp với các cơ quan, đoàn thể liên quan nhằm tăng cường tuyên truyền, đánh giá các mặt hàng Việt Nam được người tiêu dùng ưa chuộng. Năm 2011, BCĐ TP ban hành kế hoạch tổ chức chương trình bình chọn “Hàng Việt Nam được người tiêu dùng ưa thích năm 2011”. Thành phố đã ban hành cơ chế, chính sách, xây dựng 45 chủng loại sản phẩm chủ lực với hiệu quả kinh tế tăng trưởng cao, công nghệ tiên tiến, thu hút nhiều lao động, nộp ngân sách cao. Thành phố chỉ đạo các lực lượng chức năng thường xuyên tiến hành kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn việc vận chuyển hàng nhập lậu, sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ, tính riêng 6 tháng đầu năm 2011 đã kiểm tra 3598 vụ, xử lý vi phạm 3.388 vụ, thu phạt hơn 26,6 tỷ đồng. Ban chỉ đạo CVĐ TP phối hợp với Ban Tuyên giáo Thành uỷ tổ chức Hội thảo chuyên đề “Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền thực hiện cuộc vận độngNgười Việt Nam HÀ NỘI VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG “NGƯỜI VIỆT NAM ƯU TIÊN DÙNG HÀNG VIỆT NAM” ThS. Phạm Xuân Tiên Viện nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội 6 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trên địa bàn thành phố Hà Nội vào trung tuần tháng 12/2011. Tại 29 quận, huyện, thị xã của Hà Nội đều đã thành lập Ban Chỉ đạo (do đồng chí cấp uỷ hoặc Thường trực UB MTTQ làm Trưởng ban), tiến hành xây dựng kế hoạch và triển khai CVĐ, thực hiện tới các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và rộng khắp tới các tầng lớp nhân dân trên địa bàn Thủ đô. Uỷ ban MTTQ Thành phố và các tổ chức thành viên đã chủ động triển khai tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến toàn thể hội viên, đoàn viên về nội dung, ý nghĩa của CVĐ. Trong đó, UB MTTQ từ Thành phố đến quận, huyện, thị xã phát huy tốt vai trò là cơ quan Thừng trực CVĐ, tham mưu chỉ đạo, triển khai kế hoạch, tích cực vận động các tầng lớp nhân dân hưởng ứng CVĐ; Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Thành phố Hà Nội triển khai nhiều hoạt động khơi dậy trách nhiệm tuổi trẻ với CVĐ (tổ chức Festival Sáng tạo tuổi trẻ Thủ đô lần thư VII năm 2010, triển lãm Sức trẻ Thăng Long, trưng bày sản phẩm sáng tạo của tuổi trẻ và ý tưởng xuất sắc trong cuộc thi Ý tưởng sáng tạo vì Thủ đô ngàn năm văn hiến và anh hùng, bình chọn Hàng Việt Nam được tuổi trẻ Thủ đô yêu thích, diễn đàn Niềm tin Thương hiệu Việt; Hội Cựu Chiến binh Thành phố tuyên truyền, vận động đến từng cơ sở hội, với trên 200.000 hội viên, trong số đó có trên 200 hội viên là chủ doanh nghiệp, thiết thực hưởng ứng CVĐ trong sản xất, tiêu dùng với trên 90 mặt hàng do CCB sản xuất đều là hàng chất lượng tốt, giá thành phù hợp; Hội LH Phụ nữ Thành phố chỉ đạo 29 Hội Phụ nữ quận, huyện, thị xã vận động hội viên tích cực sử dụng hàng hoá trong nước sản xuất phục vụ gia đình mình, cơ quan, đơn vị mình, hăng hái tham gia cuộc thi bình chọn những mặt hàng Việt Nam được người Thủ đô yêu thích. Liên đoàn Lao động Thành phố chỉ đạo tổ chức công đoàn trong hệ thống gắn việc tham gia CVĐ với phát động các phong trào thi đua yêu nước trong CNVCLĐ, chỉ đạo Báo Lao động Thủ đô,trang Web của ngành biên soạn tin bài cập nhật thông tin tuyên truyền những sản phẩm, hàng hoá chất lượng tốt, giá cả phù hợp, phê phán việc lợi dụng CVĐ để sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá kém chất lượng. Ban tuyên giáo Thành uỷ đã ban hành các văn bản chỉ đạo hệ thống tuyên giáo các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị tuyên truyền hưởng ứng CVĐ, sử dụng đội ngũ báo cáo viên, cung cấp tài liệu, định hướng thông tin, tham gia xây dựngcác kế hoạch, các chương trình đua hàng Việt Nam tới tay người tiêu dùng). Sở TT-TT Sở Công Thương năm 2010 tham mưu giúp BCĐ TP tổ chức tốt Lễ phát động hưởng ứng CVĐ gắn với chương trình giới thiệu và bán hàng Việt Nam tại huyện Thạch Thất đã thu hút sự tham gia của 15 doanh nghiệp sản xuất và thương mại có uy tín, đạt tổng doanh thu 1.322,5 triệu đồng, Sở TT-TT thường xuyên chỉ đạo thông tin báo chí của Thành phố và trực tiếp tổ chức tuyên truyền về các hoạt động của CVĐ trên “Cổng giao tiếp Điện tử” của Thành phố, Sở Công Thương thường xuyên thông tin về hoạt động của những doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn Hà Nội có sản phẩm chất lượng, uy tin, chỉ tính nửa đầu năm 2011 sở đã tham mưu cho UBND TP triển khai kế hoạch đưa hàng đến nông thôn, khu công nghiệp, khu chế xuất, tổ chúc 14 phiên chợ bán hàng Việt ở các huyện (Quốc Oai, Chương Mỹ, Thanh Oai, Đan Phượng, Mê Linh, Sóc Sơn), Khu công nghiệp Phú Nghĩa, 08 chuyến bán hàng lưu động tới các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Sóc Sơn, Từ Liêm, Đông Anh, Gia Lâm, triển khai tốt chương trình “Hành động vì quyền lợi người tiêu dùng-năm 2011”, tổ chức “Tuần bán hàng vì người tiêu dùng” với 35 điểm bán hàng của 23 đơn vị là các trung tâm mua sắm và siêu thị lớn, mở 398 điểm bán hàng bình ổn giá, hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động thương mại, sản xuất và xuất khẩu; Tổng công ty Thương mại Hà Nội đã chỉ đạo các đơn vị thành viên làm tốt công tác tuyên truyền, quán triệt mục đích, ý nghia và nội dung của CVĐ, triển khai tốt chương Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 7 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG trình “Liên kết thị trường nội bộ”, khuyến khích ưu tiên các thành viên sử dụng dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm của nhau; Các cơ quan báo chí, thông tin, truyền thông của Thành phố tăng tần suất và mở chuyên mục tuyên truyền mục đích, ý nghĩa, nội dung và các hoạt động tổ chức triển khai thục hiện CVĐ thông qua hệ thống thông tin đại chúng như Đài PT&TH Hà Nội tổ chức thành công 02 đợt chương trình bình chọn “Hàng Việt Nam được người tiêu dùng Thủ đô yêu thích”-Thành phố đã ra Quyết định công nhận 65 sản phẩm của 60 doanh nghiệp, trong đó có Bồn nước INOX Sơn Hà của Cty cổ phần quốc tế Sơn Hà, Nhôm cao cấp của Cty cổ phần cử sổ nhựa châu Âu, Sữa mang thương hiệu IZZI, Hanomilk của Cty cổ phần sữa Hà Nội,Bóng đèn huỳnh quang compact của Cty cổ phần phích nước Rạng Đông, Xe đạp thống nhất của Cty TNHH NN một thành viên,Pin con thỏ của Cty cổ phần Pin Hà Nội, Dây cáp điện Trần Phú của Cty cổ phần cơ điện Trần Phú, Bột gặt Đức Giang của Cty cổ phần bột giặt và hoá chất Đức Giang, Bánh ga tô và bánh trung thu của Cty TNHH Hải Hà-KOTOBU- KI, Bánh mứt kẹo Hà Nội của Cty bánh mứt kẹo Hà Nội, Mì bò cao cấp Hanòiot của Cty cổ phần chế biến kinh doanh lương thực-thực phẩm Hà Nội, Miến dong tương gạo nếp Cự Đà của Hiệp hội làng nghề Cự Đà Thành phố cũng đã triển khai nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, lồng ghép các chương trình triển lãm hàng Việt Nam, tôn vinh doanh nghiệp trẻ sản xuất hàng Việt Nam, tổ chức Câu lạc bộ hàng Việt Nam chất lượng cao, tổ chức tốt các hội chợ kích cầu người tiêu dùng hàng Việt Nam, đưa hàng đến tay người tiêu dùng, tổ chức gian hàng Giới thiệu doanh nghiệp và trưng bày sản phẩm hàng Việt Nam Kết quả bước đầu và giải pháp cần có trong thời gian tới Thực tế cho thấy, CVĐ mang ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của mỗi một người dân Hà Nội, phát huy tinh thần yêu nước, ý thức tự lực, tự cường trong lao động, sản xuất, kinh doanh, phân phối, tiêu dùng hàng hoá Việt Nam của người Thủ đô ngàn năm văn hiến. CVĐ được triển khai ngày càng mở ra diện rộng và đi vào chiều sâu vừa góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của Hà Nội trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, vừa tích cực góp phần thực hiện các giải pháp khắc phục suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển, lựa chọn mặt hàng chủ lực lợi thế để xuất khẩu, giảm nhập khẩu, cân bằng cán cân tthanh toán thương mại, bảo đảm sự phát triển bền vững, vượt qua tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới; khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta nhằm điều chỉnh các giải pháp kích cầu, định hướng thúc đẩy doanh nghiệp trong nước gồng mình vượt qua bối cảnh suy thoái kinh tế để phát triển; bằng việc tích cực tham gia sản xuất, kinh doanh, phaqan phối, sử dụng, tiêu dùng sản phẩm, hàng hoá Việt Nam tạo ra nguồn động lực to lớn làm ra nhiều chủng loại hàng hoá có chất lượng, có sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, đặc biệt là sản phẩm, hàng hoá thiết yếu phục vụ dân sinh. Về mặt xã hội: Việc sử dụng và tiêu dùng hàng hoá Việt Nam tăng mạnh làm mang lại lợi ích to lớn đối với cả người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước, cải thiện phúc lợi xã hội, làm tăng nguồn thu ngân sách, tạo điều kiện tăng mức đầu tư cho cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, hỗ trợ việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống của chính người dân. Sự tác động qua lại biện chứng giữa sản xuất và tiêu dùng góp phần tích cực và chủ động nhằm bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát, ổn định tình hình xã hội. Về mặt văn hoá: CVĐ góp phần gìn giữ, đề cao giá trị văn hoá tốt đẹp lưu lại dấu ấn trong các sản phẩm hàng hoá của Việt Nam, của Thủ đô Hà Nội, nhất là những mặt hàng truyền thống, khắc phục tâm lý “Sính” hàng ngoại từ lâu vẫn tồn tại trong một bộ phận người tiêu dùng thủ đô và cả nước. Hơn nữa còn thể hiện tính giáo dục đạo đức và nhân văn cho mỗi người dân và doanh nghiệp trong quá trình trao đổi, giao dịch, mua bán, sản xuất, phân 8 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG phối, sử dụng, tiêu dùng, qua đó trân trọng và ý thức rõ hành vi đối với sản xuất và mua sắm hàng hoá Việt Nam. Tạo điều kiện để mọi người dân tham gia đấu tranh chóng sản xuất, vận chuyển, buôn bán và tiêu thụ hàng giả, hàng kém chất lượng. Trong thời gian tới, Hà Nội cần có các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện CVĐ, cụ thể: - Tăng cường biểu dương và phát huy mạnh mẽ những kết quả đạt được vừa qua, tiếp tục đảy mạnh và nâng cao chất lượng CVĐ trong thời gian tới, đòi hỏi BCĐ CVĐ TP tập trung bám sát nội dung cơ bản, thường xuyên chỉ đạo có trọng tâm, trọng đểm nhằm thực hiện đạt kết quả cao Kết luận số o2-KL/TW ngày 16/3/2011 của Bộ chính trị về tình hình KT-XH năm 2011, chương trình thực hiện NQĐHXI của Đảng và NQXV của Đảng bộ Thành phố; tiếp tục rà soát tìm các biện pháp tối ưu thực hiện NQXI-CP và chương trình 33 của Thành phố về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn Thủ đô. Tăng cường tuyên truyền sâu, rộng hơn, vận động toàn xã hội để quán triệt sâu sắc và thực hiện có kết quả cao 04 nhóm nhiệm vụ và giải pháp cơ bản của CVĐ trongThông báo Kết luận số 264-TB/TW của Bộ Chính trị áp dụng trên đia bàn thành phố Hà Nội. - Khắc phục sự quan tâm chưa đúng mức việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các hoạt động hưởng ứng CVĐ tại địa phương của một số cấo uỷ, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể, nhất là bệnh hình thức, lập BCĐ nhưng chưa triển khai hoạt động cụ thể hoặc nhận thức hời hợt nên chỉ đạo thực hiện kém hiệu quả. Có doanh nghiệp chưa đề cao trách nhiệm, chưa ý thức quan tâm thị trường trong nước để xây dựng và bảo vệ thương hiệu sản phẩm hang hoá Việt Nam, nên làm ra sản phẩm chất lượng chưa tốt, giá thành cao, cạnh tranh yếu. - Đề ra nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp: Rà soát để sửa đổi, bổ sung, ban hành một số cơ chế, chính sách tạo điề kiện thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ vướng mắc về vốn; về phân phối, lưu thông, bán lẻ; về đất và mặt bằng sản xuất, kinh doanh; về quảng bá sản phẩm, hàng hoá chất lượng mà giá thành phù hợp cùng với đó là quảng bá thương hiệu, nhãn hiệu của các doanh nghiệp đóLàm sao để đưa được thật nhiều sản phẩm, hàng hoá Việt Nam có chất lượng, giá thành phù hợp đến tay người tiêu dùng ở khắp mọi nơi, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khu công nghiệp, nơi tập trung đông dân cư, nơi người dân gặp nhiều khó khăn nhất. - Cần thống nhất chỉ đạo lồng ghép các nội dung tổ chức thực hiện CVĐ gắn với phong trào thi đua yêu nước ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương, nên xây dựng thành tiêu chí cụ thể để mỗi cơ quan, đơn vị, cá nhân và cả mỗi gia đình thể hiện sự hưởng ứng phấn đấu, được khuyến khích cộng điểm khi bình xét các danh hiệu thi đua. - Đẩy mạnh, đấu tranh quyết liệt (nhất là dịp tết nguyên đán Nhâm Thìn 2012 đang đến gần) chống buôn lậu, gian lận thương mại với mọi hành vi, thủ đoạn, với việc sản xuất hàng giả, hàng nhái, hàng không đảm bảo sức khoẻ, vệ sinh, hàng quá hạn sử dụng, hàng kém chất lượng. Nhân đây xin dẫn vài con số trên vài lĩnh vực cần thiết phải nhận diện, cảnh giác, đấu tranh nhằm giảm thiểu tối đa tác hại tiêu cực đến nền kinh tế và đời sỗng xã hội, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm, hàng hoá có uy tín, chất lượng. Hiện nay ở Việt Nam hàng giả chiếm từ 30-40% thị phần hàng hoá, 60% người Việt Nam dùng hàng giả, trong khi đó có 99% doanh nghiệp trong nước không quan tâm tới quyền bảo vệ thương hiệu của mình (Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 98/12/2011). Hiện nay cả nước có hơn 15.000 loại mỹ phẩm đã đăng ký lưu hành, riêng ở Hà Nội có 47% dược phẩm, mỹ phẩm đang lưu hành là giả. Tại Hà Nội qua kiểm tra 47 cửa hàng và 17 điểm bán hàng mỹ phẩm ở các chợ ghi là bán hàng chính hãng, nhưng tất cả đều là các cửa hàng và điểm bán hàng giả mạo, không được phép của chính hãng/. Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 9 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I. Những cú “sốc” kinh tế năm 2011 1. Dồn dập điều chỉnh tỷ giá và tăng giá xăng, dầu, điện.. “Mở hàng” đầu năm là cú sốc điều chỉnh tỷ giá VND với USD (tăng 9,3% từ ngày 11/2/2011). Tiếp ngay sau đó là những cú sốc dồn dập về tăng giá xăng- dầu (tăng từ 17-24%) và giá điện (tăng 15,2% từ 1/3/2011). Sự hội tụ tập trung trong thời gian ngắn những cú sốc tăng giá “khủng” sau thời gian dài cố nén trước đó đã làm bùng phát các xung lực tiêu cực dẫn đến hệ lụy lạm phát cao kéo dài với mức trên 1% so với tháng trước suốt 3 quý đầu năm, khiến 3 lần Chính phủ phải chính thức điều chỉnh mức CPI từ mức kế hoạch đến cuối năm 2011 là 7,5% lên 15%, rồi phấn đấu đạt chỉ 18%, bất chấp đã có cải thiện rõ rệt so với mọi năm về hạn mức tăng tín dụng (chỉ còn khoảng 12% so với kế hoạch dưới 20%) và thâm hụt NSNN (chỉ còn 4,8% so với kế hoạch 4,9%). 1- Hỗn chiến kiểm soát thị trường ngoại hối, sự chênh lệch kéo dài giá vàng trong và ngoài nước, Thương hiệu vàng SJC đột ngột chính thức lên ngôi Thương hiệu Vàng Quốc gia Năm 2011 cũng ghi nhận những cú sốc mới, gây khá nhiều tranh cãi cả trên nghị trường, cũng như các phương tiện thông tin đại chúng và tạo lúng túng cho ngân hàng, cũng như những nghi ngại cho người dân về cố gắng kiểm soát thị trường ngoại hối theo tinh thần Nghị quyết 11/NQ- -CP ngày 23/2/2011 của Chính phủ; đặc biệt là các động thái cố gắng không chế trần lãi suất huy động và hạn mức tín dụng, hạn chế đối tượng được tiếp cận giao dịch tín dụng ngoại tệ, thậm chí tịch thu ngoại tệ buôn bán”ngoài luồng”; lập rào cản hành chính „tiêu chuẩn hóa” nhằm giảm thiểu đối tượng đủ chuẩn được phép thực hiện nhiệm vụ độc quyền Nhà nước về nhập khẩu, sản xuất và buôn bán vàng miếng. Điều này cũng khiến chệnh lệch giá vàng trong nước với Việt Nam- NhữNg cú “sốc” kiNh tế NăM 2011 & cảNH báo NăM 2012 TS. Vũ Thị Dậu Đại học Kinh tế-Hà Nội Bước vào năm 2011, khó khăn và thách thức trong và ngoài nước đều lớn hơn so với dự báo. Trên thị trường quốc tế, hợp lưu của cả 2 áp lực: áp lực gia tăng về lạm phát cao (nhất là tăng giá lương thực thực phẩm, giá xăng, dầu, đặc biệt là vàng và một số nguyên vật liệu nhậy cảm) và khủng hoảng nợ công; cũng như áp lực sụt giảm mạnh thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán và tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại tại hầu hết các quốc gia đã và đang làm gia tăng tác động tiêu cực vào nền kinh tế nước ta... Ở trong nước, áp lực lạm phát và mặt bằng lãi suất tăng cao; dự trữ ngoại hối giảm mạnh, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô trở thành thách thức lớn... Trước bối cảnh đó, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của về những giải pháp điều hành phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới, cùng với Bộ Chính trị đã có Kết luận số 02. và Nghị quyết số 59 của Quốc hội về điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. Đó là những quyết sách kịp thời, đúng đắn, thể hiện bước tiến mới trong tư duy phát triển và khả năng phản ứng chính sách của Đảng và Nhà nước ta, được nhân dân đồng tình ủng hộ và quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, năm 2011 vẫn ghi nhận những cú”sốc” kinh tế trên nhiều lĩnh vực... 10 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG nước ngoài tăng vọt tới 3-5 tr.đ/lượng (so với tối đa 2 tr.đ/ lượng năm 2010) và kéo dài khó hiểu hàng tháng trời, bất chấp tuyên bố của Thống đốc NHNN về mức chuẩn phải là giá vàng trong nước chỉ chênh tối đa 400.000 đ/lượng với giá vàng thế giới. Kết cục cuộc hỗn chiến này còn sốc hơn khi „chốt hạ” là thương hiệu vàng SJC của Công ty vàng bạc đá quý Sài Gòn, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đang hoạt động kinh doanh vị lợi nhuận và trực thuộc UBNDTPHCM, được lên ngôi chính thức trở thành Thương hiệu Vàng Quốc gia qua tuyên bố đột ngột của Thống đốc NHNN trong một buổi chất vấn tại kỳ họp 2 Quốc hội khóa 13 diễn ra cuối tháng11/2011, mà không cần qua một bất kỳ hành trình thủ tục về lập và thông qua đề án của một đại sự như vậy..! 2. Bùng nổ nợ khó đòi ngân hàng & đổ vỡ tín dụng đen Dù được tiên liệu từ đầu năm, song dư luận cũng không tránh khỏi sốc khi nghe tin nợ xấu của khối ngân hàng thương mại tăng vọt tính đến cuối tháng 10/2011 lên 76000 tỷ đồng, tức tới trên 3,5% tổng dư nợ (trong khi có tổ chức nước ngoài cho rằng con số thực là 13,5%), trong đó 47% là nợ khó đòi. Đặc biệt, dư luận càng sốc hơn khi biết các DNNN chiếm tới 60% tổng dư nợ và 70% nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa, những vụ đổ vỡ tín dụng đen bùng nổ trên nhiều địa phương cả nước, nhất là ở các đô thị lớn vào những tháng cuối năm 2011, với quy mô „khủng” hàng vài trăm tỷ đồng, đã không chỉ tạo sốc trong đời sống hàng trăm ngàn hộ gia đình có liên quan trực tiếp và gián tiếp, mà còn làm tăng sự e ngại về độ lành mạnh và nguy cơ tạo sốc đổ vỡ đômino của thị trường tín dụng trong nước... 3. Đại hạ giá trên thị trường bất động sản & chứng khoán Năm 2011 lần đầu tiên gây sốc cho nhà đầu tư khi bùng nổ những đợt đại hạ giá các bất động sản và chứng khoán vốn trong tình trạng ế dài trước đó. Không phải là việc đóng băng rồi chờ giá ấm, nóng trở lại như mọi năm, mà thực sự là phải hạ giá từ 30-40%, thậm chí 50% so với giá đỉnh cao, nhưng vẫn khó tìm khách hàng đến với những chung cư cao cấp và nhà liền kề, biệt thự vốn bị bỏ hoang cả năm nay. Sốc giảm giá trên thị trường chứng khoán còn thê thảm hơn, khi mà có những chứng khoán rớt giá thê thảm, còn không đến 900 đ/cổ phiếu, trong khi giá mỗi lần „tẩm quất bình dân” vẫn giữ nguyên mức 60.000đ/lượt/45 phút, còn tuyệt đại đa số hàng hóa và dịch vụ khác đều đồng loạt tăng giá theo mức lạm phát.... 4. Tăng vọt bất thường lượng doanh nghiệp thua lỗ, cuộc khẩu chiến bất phân thắng bại về lỗ hay lãi của ngành xăng dầu và mức lương đau lòng của ngành điện. Dư luận thật sự sốc khi được biết, năm 2011 ở trong nước xuất hiện tình trạng, cứ 10 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, thì có tới 9 doanh nghiệp cũ bị giải thể, sáp nhập hoặc dừng hoạt động vì thua lỗ và không có tiền nộp thuế... Thậm chí, có tới 450/495 do- anh nghiệp đang niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung báo lỗ; khoảng 50% do- anh nghiệp nhỏ và vừa, cùng hơn nửa số làng nghề trên cả nước hầu như bị tê liệt vì lãi suất cao và khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Cuộc khẩu chiến về thực sự lỗ hay lãi của ngành xăng dầu và điện cũng chưa có hồi kết dù có bộc lộ thêm nhiều động thái phản ứng và thông tin tạo sốc mới của nhiều quan chức trong và ngoài ngành, nhất là về cách tính lỗ và tuân thủ các quy định quản lý có liên quan. Đặc biệt, dư luận quá sốc trước tin mức lương trung bình của ngành điện chỉ có 7,5 trđ/người dù ngành này đang lỗ nặng (do không được tùy ý tăng giá điện hay do đầu tư đa ngành), cao hơn mức lương tột đỉnh theo bảng lương Nhà nước duyệt cho bất kỳ nhà giáo hay nhà khoa học hàng đầu nào của Việt Nam. Mức lương này khiến quan chức ngành điện „đau lòng” và cũng gây đau lòng hơn cho các cán bộ, công nhân viên nhiều ngành khác khi nghĩ về mức lương của mình...! Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 11 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG II. Những cảnh báo cho năm 2012 Theo nhiều dự báo của các tổ chức chuyên nghiệp và cá nhân uy tín trong và ngoài nước, năm 2012, nhất là trong nửa đầu năm, đặc biệt trong quý 2/2011, nhìn chung sẽ có nhiều tín hiệu màu xám hơn năm 2011 xét cả về kinh tế và xã hội, cả trên phạm vi thế giới, cũng như quốc gia và mỗi ngành... Theo nhiều dự báo của các tổ chức chuyên nghiệp và cá nhân uy tín trong và ngoài nước, năm 2012, nhất là trong nửa đầu năm, đặc biệt trong quý 2/2011, nhìn chung sẽ có nhiều tín hiệu màu xám hơn năm 2011 xét cả về kinh tế và xã hội, cả trên phạm vi thế giới, cũng như quốc gia và mỗi ngành... Đặc biệt, giá vàng sẽ tiếp tục biến động mạnh, nhiều đồng tiền chủ chốt trên thế giới tiếp tục xu hướng yếu và yếu hơn, kể cả USD, Euro; khả năng đồng Nhân dân tệ, Yên Nhật và Rúp Nga sẽ tăng giá chậm... Ngày 20/9/2011, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới xuống còn 4% cho 2 năm 2011 và 2012, thấp hơn 0,3% so với dự báo đưa ra vào tháng 6. Liên tiếp sau đó, Citigroup, Fitch và Goldman Sachs cũng điều chỉnh mức dự báo cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Bộ phận nghiên cứu và phân tích của Citigroup ngày 29/9/2011 dự báo tăng trưởng GDP thế giới sẽ giảm xuống 3% trong năm nay và 2,9% trong năm 2012. Đây là lần thứ 2 Citigroup hạ dự báo trong chưa đầy một tháng. Kém lạc quan hơn, hãng xếp hạng tín nhiệm của Pháp, Fitch dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2011 nhiều khả năng sẽ chỉ ở mức 2,6%, thay vì con số 3,1% do chính hãng này đưa ra hồi đầu năm 2011. Tuy nhiên, mức giảm mạnh nhất sẽ đến vào năm 2012 khi tốc độ tăng GDP toàn cầu chỉ ở mức 2,7%, giảm tới 0,7% so với dự báo trước đó. Goldman Sachs là tổ chức tiếp theo công bố dự báo tăng trưởng tiêu cực cho nền kinh tế thế giới với mức 3,8% trong năm 2011 và 3,5% trong năm 2012. Đồng thời, hãng này cũng dự báo giá dầu thế giới cuối 2011 sẽ giảm 6% và giảm 12% vào năm 2012 do nhu cầu nhiên liệu giảm trong hoàn cảnh kinh tế thế giới lâm vào suy thoái. Mức tăng trưởng của các nền kinh tế chủ chốt cũng được dự báo giảm. Trong khi Fitch cho rằng kinh tế Mỹ năm 2012 sẽ tăng trưởng cao hơn với mức 1,8%, thì Goldman Sachs lại dự báo có 1,4% sau khi đã đạt 1,7% trong năm nay. Lạc quan vào nền kinh tế châu Âu, IMF đưa ra dự báo tăng trưởng 1,1%, cao hơn nhiều so với mức 0,8% của Fitch và 0,1% của Goldman Sachs. tháng 9/2011, IMF đã đưa ra những dự báo khá lạc quan cho Việt Nam, cụ thể: Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng GDP năm 2012 là 6,3%, cao hơn so với mức tăng chỉ 5,8% năm 2011, và năm 2013 GDP của Việt Nam sẽ tăng tới 7,5%; còn mức lạm phát năm 2011 là 19%, những sẽ hạ thấp xuống chỉ còn 8,1% mà thôi, dù vẫn thuộc hàng cao trên thế giới... Tuy nhiên, theo WB,lạm phát Việt Nam năm 2012 sẽ là 10,5%... Tóm lại, dù khác nhau về chi tiết và con số cụ thể, nhưng tinh thần chung của các dự báo nêu trên đều thống nhất cho rằng kinh tế thé giới và của nhiều nước năm 2012 sẽ tiêu cực hơn năm 2011 Ở trong nước, Việt Nam tiếp tục phải xử lý các tồn tại và vấn đề đã, đang và tiếp tục đặt ra, mà nổi bật là: Thứ nhất, Việt Nam tiếp tục triển khai sâu rộng các cam kết trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), khu vực mậu dịch tự do ASEAN và ASE- AN+, tạo ra những cơ hội to lớn cho thu hút đầu tư và phát triển xuất khẩu, nhưng cũng đặt ra những thách thức gay gắt đối với sức cạnh tranh của nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi và khả năng phản ứng chính sách, phản ứng thị trường trước những diễn biến phức tạp của thị trường. Thứ hai, thành tựu phát triển KT-XH đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển thiếu bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp; kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Những hạn chế, yếu kém trong các 12 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường chậm được khắc phục. Vẫn đang tiềm ẩn những nhân tố đe dọa chủ quyền quốc gia và gây mất an ninh trật tự; nguy cơ bùng phát thiên tai, dịch bệnh. Đặc biệt, lạm phát và mặt bằng lãi suất có thể vẫn khá cao; nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng, thanh khoản của một số ngân hàng thương mại khó khăn; nhập siêu lớn, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, dự trữ ngoại hối khó cải thiện gây áp lực lên thị trường tiền tệ và tỷ giá; giá vàng trên thị trường có nhiều khả năng vẫn biến động bất thường. Sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô có thể trở thành thách thức lớn hơn nếu không có giải pháp quyết liệt, hiệu quả. Ngoài ra, những thách thức, yêu cầu tạo đột phá về thể chế, cơ sở hạ tầng, nhân lực (tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 40% năm 2011) và cơ cấu kinh tế cũng ngày càng đậm nét; thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản chưa có nhiều triển vọng bứt phá. Tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi; đình công xảy ra ở nhiều nơi; tội phạm và tệ nạn xã hội chưa giảm. Hệ số tín nhiệm quốc gia thấp và chỉ số cạnh tranh tụt bậc liên tiếp nhiều năm... Thứ ba, kinh tế xã hội nước ta tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu và biến động chính trị ở nhiều nước trên thế giới có thể đột biến, kéo dài và nặng nề; Một số khó khăn và thách thức thị trường có thể lớn hơn và khó lường hơn so với dự báo: Một mặt, giá nhiều mặt hàng tiêu dùng điện và điện tử sẽ có xu hướng giảm, nhất là những mặt hàng trong diện giảm thuế theo lộ trình hội nhập của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA, WTO và một số FTA, cũng như thỏa thuận thương mại đặc biệt khác...; Mặt khác, giá lương thực thực phẩm, giá dầu thô và nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế có thể tăng cao dần; thị trường chứng khoán tiếp tục trầm lắng, trì trệ; khủng hoảng nợ công ở nhiều nước tiếp tục nặng thêm; tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại, lạm phát cao tại nhiều quốc gia cả phát triển, cũng như đang phát triển và mới nổi; khả năng tiếp tục đậm hơn xu hướng bảo hộ kỹ thuật các thị trường xuất khẩu quốc tế quan trọng của Việt Nam... ; Thứ tư, trước mắt, khả năng tăng giá xăng, dầu, điện và than kiểu sốc sẽ khó có cơ hội phát tác như năm 2011. Tuy nhiên, những cú sốc hạ giá trên thị trường bất động sản và chứng khoán sẽ còn tiếp diễn chưa có điểm dừng, Đặc biệt, lạm phát và mặt bằng lãi suất có thể vẫn khá cao; nợ xấu của hệ thống ngân hàng sẽ tiếp tục gia tăng áp lực; thanh khoản của một số ngân hàng thương mại sẽ thêm khó khăn; nhập siêu, cán cân thanh toán quốc tế, dự trữ ngoại hối, tỷ giá, cũng như giá vàng trên thị trường có nhiều khả năng lớn là sẽ vẫn biến động bất thường. Sản xuất kinh doanh tiếp tục gặp nhiều lực cản chưa dễ tháo gỡ. Nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô có thể trở thành thách thức lớn hơn nếu không có giải pháp quyết liệt, hiệu quả... Đặc biệt, tăng giá xăng, dầu, điện và than kiểu sốc sẽ khó có cơ hội phát tác như năm 2011. Tuy nhiên, những cú sốc hạ giá trên thị trường bất động sản và chứng khoán sẽ còn tiếp diễn chưa có điểm dừng; lạm phát và mặt bằng lãi suất có thể vẫn khá cao; nợ xấu của hệ thống ngân hàng sẽ tiếp tục gia tăng áp lực; thanh khoản của một số ngân hàng thương mại sẽ thêm khó khăn; nhập siêu, cán cân thanh toán quốc tế, dự trữ ngoại hối, tỷ giá, cũng như giá vàng trên thị trường có nhiều khả năng lớn là sẽ vẫn biến động bất thường. Sản xuất kinh doanh tiếp tục gặp nhiều lực cản chưa dễ tháo gỡ. Nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô có thể trở thành thách thức lớn hơn nếu không có giải pháp quyết liệt, hiệu quả... Vì vậy, nhận diện những bất cập và đặc biệt xử lý tốt các hệ quả đã, đang và sẽ phát sinh của những cú sốc kinh tế nêu trên trở thành một trong những yêu cầu bức thiết để ngăn ngừa và kiểm soát tốt hơn sự tái lặp các cú sốc đó trong tương lai.../.. Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 13 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Dù được khẳng định vẫn trong giới hạn an toàn, song đã có một số dấu hiệu cho thấy “độ nóng”ngày càng gia tăng của Nợ công trong thời gian gần đây, cả về định tính và định lượng, với 4 điểm nhấn đáng chú ý sau đây: 1. Phác họa bức tranh Nợ công Việt Nam Thứ nhất, quy mô nợ tăng nhanh vượt dự báo Theo Bản tin nợ nước ngoài -Bộ Tài chính, đến 31/12/2009, tổng nợ nước ngoài của Việt Nam (gồm nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ do Chính phủ bảo lãnh) là 27,929 tỷ USD, tương đương với khoảng 479,5 nghìn tỷ đồng; Trong đó, nợ nước ngoài của Chính phủ là trên 23,9 tỷ USD. Đến 31/12/2010, tổng nợ nước ngoài của Việt Nam lên tới hơn 32,5 tỷ USD, chiếm 42,2% GDP (so với mức 38,8% GDP mà Chính phủ dự kiến hồi cuối năm 2010) và tăng 4,6 tỷ USD so năm 2009, đạt mức nợ cao nhất kể từ năm 2005; Trong đó, 62% là nợ nước ngoài của Chính phủ, 38% là nợ nước ngoài của doanh nghiệp. Đối với nợ của Chính phủ, 93% nợ là vốn ODA và nợ ưu đãi (trong đó 74% là vốn ODA). Đây là các khoản nợ dài hạn và có lãi suất thấp,chủ yếu có lãi suất cố định từ 1 - 2,99%/năm. Trước những quan ngại của nhiều đại biểu về vấn đề nợ công, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho biết thêm: tính đến 31/12/2010, tỷ lệ nợ Chính phủ là 45,7% GDP, nợ nước ngoài là 42,2%, nợ công là 57,3%. Trong kế hoạch trình Quốc hội, ước đến 31/12/2011, nợ công là 54,6%, đến 31/12/2012 là 58,4% GDP. Chỉ số này được tính trên cơ sở dự kiến kịch bản tăng trưởng 6%, nếu như kịch bản tăng trưởng đạt được mức 6,5%, tỷ lệ nợ công sẽ thấp hơn đáng kể. Về phương pháp tính cũng có khác nhau, các nước phát triển tính tỷ lệ theo giá trị đồng tiền, Việt Nam tính theo phương pháp giá trị danh nghĩa. Nếu quy theo giá trị đồng tiền, tỷ lệ nợ công của Việt Nam còn thấp hơn. Tuy vậy, Chính phủ cũng tính toán cơ cấu này đã và sẽ có thay đổi khi mà khoản ODA và ưu đãi đang trả dần, khoản vay thương mại đang có xu hướng tăng lên vì Việt Nam đã được đưa vào danh sách là nước có thu nhập trung bình. Ngày 8/11/2011, Quốc hội đã thông qua nâng trần Nợ công của Việt Nam đến 2015 không quá 65% GDP, dư nợ của Chính phủ không quá 50% GDP và dư nợ quốc gia không quá 50% GDP (so với mức đề nghị của Chính phủ là nợ quốc gia không quá 50%, nợ Chính phủ không quá 53%, nợ công khoảng 60-65% GDP). Thứ hai, điều kiện nợ ngày càng ngặt nghèo hơn Cũng theo Bộ trưởng Vương Đình Huệ, về cơ cấu nợ công, trong tổng nợ công của Việt Nam, nợ ODA chiếm 75%, vay ưu đãi khác 19%, vay thương mại chỉ 7%. Vay ODA có thời gian rất dài và lãi suất ưu đãi. Khi so với các nước cần chú ý cơ cấu này, nhất là đối với những nước đang phát triển và các nước đã thoát khỏi ngưỡng nghèo, tỷ trọng nợ công phần vay thương mại chiếm rất nhiều. Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số có lãi suất thấp, trong tổng nợ cuối năm 2009 thì vay ODA chiếm tỷ trọng 74,67%, vay ưu đãi chiếm 5,41%, vay thương mại 19,92%...Sang năm 2010, vay nợ với lãi suất thấp 1 - 2,99%/ năm chiếm khoảng 65,5% tổng dư nợ. Đặc biệt, các khoản vay có lãi suất cao từ 6 - 10%/ năm trong năm 2010 cũng đã lên tới 1,89 tỷ USD, gấp hơn 2 lần năm 2009. Hiện các chủ nợ chính của Việt Nam vẫn là Nhật Bản, Pháp, ADB, WB... Các chủ nợ này đã nâng lượng nắm giữ trái phiếu Chính phủ Việt Nam lên hơn 2 tỷ USD trong năm 2010 (so với con số hơn 1 tỷ USD NỢ cÔNG cỦA VIỆT NAM cÓ THỰc SỰ AN ToÀN?! TS. Nguyễn Minh Phong Viện nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội 14 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI của năm 2009). Thực tế cũng cho thấy, lãi suất vay nợ của Việt Nam đang có xu hướng tăng lên cả do Việt Nam đã bị giảm mức nhận ưu đãi vì gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, cũng như do ít nhiều giảm cả mức tín nhiệm quốc gia (theo một vài đánh giá cá biệt là từ BB+ xuống BB) vì những e ngại bất ổn của kinh tế vĩ mô và sự kiện Vinashin Thứ ba, dịch vụ nợ tăng nhanh, hệ số an toàn nợ giảm Theo Bản tin Nợ nước ngoài của BTC, dịch vụ nợ nước ngoài của Việt Nam trong năm 2010 là 1,67 tỷ USD, trong đó riêng tiền lãi và phí là hơn 616 triệu USD, tăng gần 30% so với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009 Theo đại biểu quốc hội Trần Du Lịch, Nợ nước ngoài của Việt Nam hiện tương đương 50 tỉ USD, lớn gấp 3 lần so với dự trữ ngoại hối (khoảng 14-15 tỉ USD). Năm 2011, dự kiến trả nợ 86.000 tỉ đồng, chiếm 12,5% tổng thu NSNN; năm 2012 sẽ phải trả 100.000 tỉ đồng, chiếm 13,5% tổng thu NSNN-Một con số không hề nhỏ trong quy mô khiêm tốn của NSNN hiện nay (trong khi Nợ công của Thái Lan chỉ có 44,1% GDP và dự trữ ngoại hối là 176 tỉ USD; Indonesia, Malaysia nợ công chỉ có 26,9% GDP, Philippines 47,3%...). Theo Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ, hiện nay tổng số dịch vụ nợ (trả nợ cả gốc và lãi) của Chính phủ chiếm khoảng 14% – 16% tổng ngân sách nhà nước. Trong khi đó, theo thông lệ quốc tế, mức dịch vụ nợ an toàn là không quá 30% tổng thu ngân sách. Hơn nữa, trong 15% tổng NSNN để chi trả cho nợ công hàng năm này thì ngân sách chỉ trả 13,5%; còn 1,5% là các dự án và các nhà đầu tư phải trả. Nợ công Việt Nam có một điều rất khác với các nước khác là chúng ta có việc cho vay về cho vay lại, Nhà nước vừa là chủ nợ, nhưng vừa là khách nợ. Sau năm 2015 vấn đề trả nợ có thể tương đương với vay hoặc thấp hơn, tức là không vượt quá 65% GDP. Đặc biệt, theo cảnh bảo của Bộ Tài chính, dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, giảm mạnh so với con số 290% và 2.808% của các năm 2009 và 2008; trong khi mức khuyến nghị của Ngân hàng thế giới WB là trên 200%. Cần nhấn mạnh rằng, việc mua vào thêm 4-7 tỷ USD trong những tháng đầu năm 2011 ít nhiều đã cải thiện tỷ lệ an toàn nợ/dự trữ ngoại hối của Việt Nam. Song, việc mua vào này không phải là giải pháp bền vững xét dưới góc độ chống lạm phát tiền tệ, vì nó dễ trở thành nguồn xung lực làm tăng lạm phát tiền tệ ở nước ta, nhất là khi chậm thu hồi các khoản tiền đã chi thông qua bán trái phiếu Chính phủ. Ngoài ra, cần thấy rằng khả năng trả nợ từ nguồn thu NSNN đang và sẽ có thể gặp căng thẳng trong bối cảnh mà, khác với thông lệ hằng năm đều vượt thu, dự toán thu ngân sách năm 2011 được Bộ trưởng Bộ Tài chính đánh giá là “chưa năm nào khả năng tăng thu căng thẳng như năm nay và có dấu hiệu chững lại từ tháng 7-2011”. Đặc biệt, nguồn thu thuế từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong quý II/2011 giảm 83% so với quý I, quý III dự kiến giảm 40% so với 6 tháng đầu nămvới 50% số doanh nghiệp khai lỗ. Trong khi đó, theo Bộ KH&ĐT, với khu vực kinh tế tư nhân trong nước thì số doanh nghiệp giải thể, phá sản và dừng hoạt động không nộp thuế đã xấp sỉ con số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong năm 2011... Thứ tư, đầu tư công chưa hiệu quả là nguồn gốc lớn nhất làm tăng nợ công Ở nước ta hiện có 194 khu công nghiệp với tổng diện tích gần 46.600 ha, cùng với 1.643 cụm công nghiệp với gần 73.000 ha do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch đến năm 2020. Với tỷ lệ lấp đầy diện tích các khu công nghiệp hiện đạt 50-60% thì cần ít nhất 10-15 năm nữa và số vốn đầu tư cần ít nhất là 50 tỷ USD để lấp đầy 100% diện tích hiện có. Chính phủ cũng đã phê duyệt 15 dự án khu kinh tế ven biển với tổng diện tích 662 nghìn ha (2% diện tích tự nhiên của Việt Nam), ước tính cần 2.000 tỷ đôla (bằng toàn bộ đầu tư cả nước trong 50 năm nữa) để đầu tư. Ở bờ biển miền Trung, cứ khoảng 30-40km lại có 1 cảng Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 15 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI biển. Tuy nhiên, các cảng biển này lại không hoạt động hết công suất, hiệu quả chỉ mới thể hiện trên báo cáo nghiên cứu khả thi. Năm 2011, cả nước thực hiện xiết chặt đầu tư công theo tinh thần Nghị quyết 11/ CP, nhưng vẫn “lọt lưới” 333 dự án mới sai đối tượng, không thuộc danh mục sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ mà vẫn được khởi côngNhìn tổng quát, tốc độ tăng đầu tư công trong mười năm qua cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Khu vực DNNN (doanh nghiệp nhà nước) được hưởng nhiều nguồn lợi nhất và chiếm tỷ trọng đầu tư xã hội cao nhất lại có hiệu quả đẩu tư thấp nhất. Đầu tư công cao và kém hiệu quả trong bối cảnh tiết kiệm của Việt Nam giảm là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát tăng, lãi suất thị trường tăng cao và nhất là làm nợ công tăng nhanh. Đặc biệt, nợ của DNNN đang và sẽ gia tăng không chỉ tạo hệ quả tăng nợ công, mà còn làm tăng nợ xấu ngân hàng và chuỗi nợ liên hoàn, cùng tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau. Theo ông Deepak Mishra – kinh tế trưởng ngân hàng Thế giới (WB) hiện các DNNN chiếm tới 60% tín dụng của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Đặc biệt, mức nợ của các DNNN đang chiếm tới 70% nợ xấu của các ngân hàng. Theo Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, tính đến hết tháng 8.2011, nợ xấu toàn ngành ngân hàng ở mức trên 76.000 tỉ đồng và đang có xu hướng tăng. Trong đó, các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất trắng khoảng 37.000 tỉ đồng (số này thuộc nợ nhóm 5 – nợ có khả năng mất vốn). Một số đơn vị có nhiều nợ xấu tăng là các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín, Đệ Nhất, công ty tài chính Dầu khí, ngân hàng liên doanh Việt Thái, ngân hàng United Overseas Bank Nợ xấu của một số ngân hàng cao hơn mức bình quân của toàn ngành là 3,21%/tổng dư nợ. Trong đó, nợ xấu của Agribank là 6,67%, Vietcombank là 3,47%. Báo cáo của Đảng uỷ khối doanh nghiệp Trung ương mới đây cho thấy, tập đoàn Điện lực hiện nợ gần 8.000 tỉ đồng; Tổng công ty Xăng dầu khoảng 1.500 tỉ đồng, tổng công ty Hàng hải nợ hơn 600 tỉ đồng Điều đáng quan tâm là trong lúc nợ xấu ngân hàng tăng nhanh thì việc mua bán nợ xấu theo quyết định 59/2006/ QĐ-NHNN chưa đáp ứng nhu cầu, có nhiều công đoạn và mất rất nhiều thời gian. Khi doanh nghiệp mất khả năng trả nợ, việc giải chấp các tài sản đảm bảo cũng không đơn giản. Vì thế, các định chế nước ngoài rất ít hoặc chưa muốn tham gia vào lĩnh vực này do e ngại rủi ro mua tài sản rồi về sau không bán được. Thực tế này không chỉ gây khó cho các ngân hàng mà nó còn là một dấu hiệu đáng lo ngại cho cả nền kinh tế. Bởi lẽ nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng lên, tín nhiệm quốc gia giảm xuống, định hạn của các tổ chức tín dụng Việt Nam hạ xuống sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh Việt Nam trên thế giới. Bên cạnh đó, việc xử lý nợ và tài sản công cần thu hồi trong khu vực DNNN trên thực tế chậm và kéo dài. Hiện tại, việc mua và xử lý nợ công tại Việt Nam chủ yếu dựa vào công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) – công ty 100% vốn nhà nước thuộc bộ Tài chính, được Chính phủ giao nhiệm vụ chủ yếu là giải quyết nợ và tài sản tồn đọng của DNNN, hỗ trợ thúc đẩy quá trình sắp xếp, chuyển đổi sở hữu DNNN. Tổng giá trị nợ và tài sản (bị loại khi xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá) từ các DNNN mà DATC đã tiếp nhận tính theo giá trị sổ sách là 3.033 tỉ đồng, trong đó nợ là 1.314 tỉ đồng, tài sản là 1.719 tỉ đồng. Sau khi tiếp nhận, đối với các khoản nợ, hiện DATC mới chỉ thu hồi được 12,6 tỉ/556,2 tỉ đồng, chiếm 2,2% số nợ có đủ hồ sơ. Số nợ không đủ hồ sơ, không có khả năng thu hồi vẫn chưa có giải pháp xử lý dứt điểm. Đối với tài sản, DATC đã xử lý tài sản các doanh nghiệp bàn giao, thu hồi được 363 tỉ đồng, bằng 22% giá trị trên số kế toán; xử lý tài sản bị mất, thiếu hụt, thu hồi được 295 triệu/12,7 tỉ đồng. Hơn nữa, với 3/4 số vốn nhà nước cấp cho DATC chưa được sử dụng vào hoạt động kinh doanh, mà gửi vào ngân hàng là một sự lãng phí rất lớn (tổng số vốn đầu tư của DATC hiện nay là 641 tỉ đồng, trong đó chuyển nợ thành vốn góp là 382 tỉ đồng, 16 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI đầu tư trực tiếp bằng tiền là 259 tỉ tại 12 doanh nghiệp). Trong khi vốn đầu tư chưa được sử dụng triệt để, thì các hoạt động đầu tư và cung cấp dịch vụ, tư vấn là một phần trong hoạt động kinh doanh của DATC lại chậm được triển khai hoặc chưa triển khai. 2. Để Nợ công Việt Nam thực sự an toàn Để nợ công thực sự an toàn, tránh lặp lại những bài học đắt giá từ cuộc khủng hoảng nợ công đang đè nặng ngay cả nhiều nước phát triển nhất trên thế giới, Việt nam cần chú ý những nguyên tăc sau: Thứ nhất, chủ động tự cảnh báo,” phòng bệnh hơn chữa bệnh” Thực tế cho thấy chiếc bẫy nợ công diễn biến nhanh và nặng nề hơn sự tính toán chủ quan của bất kỳ Chính phủ và quốc gia, tổ chức quốc tế nào, thậm chí dễ vượt qua sự định liệu và quản lý của cả chủ nợ và con nợ. Hơn nữa, thực tế cũng cho thấy, ngăn chặn và phòng ngừa nợ công gia tăng từ đầu sẽ rẻ và dễ hơn khi để bùng vỡ quả bom nợ công. Vì vậy, dù tự tin và thận trọng, muốn hay không thì cũng phải rung chuông tự cảnh cảnh báo rằng mức nợ công, nhất là nợ nước ngoài của Việt Nam đã tiếp cận giới hạn chịu đựng của nền kinh tế so với khả năng trả nợ, vì rõ rằng đã ở chấp chới dưới mức cảnh báo an toàn của WB như trên đã nêu; vấn đề càng nhậy cảm hơn trong bối cảnh khủng hoảng nợ công đang bao phủ toàn cầu và đe dọa nhấn chìm nền kinh tế thế giới vào vòng xoáy khủng hoảng tồi tệ mới vô tiền khoáng hậuCần tỉnh táo thấy rõ sự thực trần trụi rằng, nếu khủng hoảng nợ công xẩy ra, Việt Nam sẽ phải “một mình vượt cạn”, khó trông cậy vào sự cứu trợ “giá rẻ “hay vô tư nào từ các chủ nợ, các khối kinh tế hay tổ chức tài chính khu vực và quốc tế như chuyện của EU hiện tại. Thứ hai, tiếp tục khai thác các nguồn vốn ưu đãi quốc tế để tăng nguồn vốn rẻ và an toàn cho Việt Nam. Trong xu thế cần tiếp tục gia tăng trần nợ công, trước mắt, cần tiếp tục khai thác các nguồn vốn ưu đãi quốc tế để tăng nguồn vốn rẻ và an toàn cho Việt Nam. Tin mừng là, trong cuộc gặp với TT.Nguyễn Tấn Dũng sáng 4/11/2011 tại Hà Nội, nhân dịp Hội nghị quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và WB, Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) James Adams đã khẳng định, WB tiếp tục duy trì vốn vay ưu đãi cũng như tăng hạn mức tài trợ nguồn vốn IDA cho Việt Nam trong đầu tư phát triển hạ tầng, xóa đói giảm nghèo và ứng phó với biến đổi khí hậu và đề nghị Việt Nam sớm xây dựng các dự án cụ thể về ứng phó với biến đổi khí hậu để WB tài trợ triển khai trong năm 2012...Ngoài ra, nợ nước ngoài đang có xu hướng giảm và nợ trong nước tăng, đây là xu hướng tốt để Việt Nam giảm được sự phụ thuộc vào nước ngoài, chủ động hơn trong việc vay nợ. Chính phủ cũng chỉ đạo hoàn thiện cơ chế công khai minh bạch, tăng cường công tác quản lý nợ. Hiện tình hình nợ công được cập nhật 3-6 tháng/lần trên các bản tin quản lý nợ. Bộ Tài chính đã thành lập Cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại, giúp cho việc quản lý tập trung thống nhất vấn đề về nợ công; đồng thời đang chủ trì xây dựng đề án xếp hạng tín nhiệm quốc gia để nâng mức xếp hạng tín nhiệm đảm bảo cho việc vay nợ của Chính phủ cũng như các doanh nghiệp trong thời gian tới một cách tổng thể nhất. Thứ ba, cần phát triển thị trường mua- bán nợ công Trong thời gian tới, cần phát triển thị trường mua-bán nợ công có sự tham gia một số công ty mua bán nợ của Nhà nước và một số tổ chức kinh tế ngoài Nhà nước. Trước mắt, cần đảm bảo hành lang pháp lý đầy đủ và thông thoáng cho hoạt động của DATC (sửa đổi Thông tư 39/2004/TT-BTC và Thông tư 38/2006/TT-BTC có liên quan đến nội dung này), nâng cao tính chủ động trong hoạt động kinh doanh của DATC, đồng thời vẫn bảo đảm sự giám sát của chủ sở hữu. DATC cần mở rộng phạm vi hoạt động xử lý nợ đúng với tầm vóc của công ty xử lý nợ quốc gia và cần đảm bảo lợi ích của công ty khi phải thực hiện nhiệm vụ công ích, mua bán nợ theo chỉ định Thứ tư, đổi mới mô hình tăng trưởng, công tác kế hoạch, Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 17 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI phân cấp, tăng cường tái cấu trúc và quản lý hiệu quả đầu tư công Tại hội nghị ra mắt Hội đồng lý luận TW mới (tháng 10/2011), TBT Nguyễn Phú Trọng đã kêu gọi sự thay đổi tư duy lý luận để phù hợp với bối cảnh lịch sử mới, cũng như không để các lợi ích nhóm và cục bộ, nhiệm kỳ chi phối quá trình phát triển đất nước Theo tinh thần đó, trong thời gian tới, Việt Nam cần đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, cơ chế phân cấp ngân sách, phân cấp đầu tư theo hướng tôn trọng tính năng động, trách nhiệm và sáng tạo trong tự phát triển của địa phương và sự phát triển tổng thể nền kinh tế, tăng cường hơn vai trò tổng cân đối chung của Chính phủ; Đồng thời, cùng với việc giảm thu, giảm chi, tái cơ cấu thu chi ngân sách theo hướng giảm bớt chức năng “nhà nước kinh doanh”, tăng cường chức năng “nhà nước phúc lợi”, giảm quy mô đầu tư và tỷ trọng đầu công tư, chuyển mạnh từ mô hình tăng trưởng “nóng”, dựa chủ yếu vào tăng vốn đầu tư và gia công sản xuất kiểu cũ sang mô hình phát triển theo chiều sâu, gắn tái cấu trúc nền kinh tế với tái cấu trúc và nâng cao kỷ luật tài khóa, nâng cao hiệu quả đầu tư công Trước mắt, cần thực hiện tốt Chỉ thị 1792/CT-TTg Thủ tướng Chính phủ về yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện một số nguyên tắc và giải pháp tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ. Theo đó, việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ phải bám sát mục tiêu và định hướng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 của cả nước và của các ngành, các địa phương; Từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng giảm dần đầu tư công; Tăng cường các biện pháp huy động các nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để đầu tư vào các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có khả năng thu hồi vốn. Trong khi chưa sửa đổi phân cấp quản lý đầu tư, các Bộ, ngành, địa phương phải tuân thủ đúng quy chế hiện hành về quyền quyết định phê duyệt dự án đầu tư (kể cả dự án mới và dự án điều chỉnh quyết định đầu tư). Đồng thời, các cấp có thẩm quyền chịu trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ phạm vi, quy mô của từng dự án đầu tư theo đúng mục tiêu, lĩnh vực, chương trình đã phê duyệt, chỉ được quyết định đầu tư khi đã xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối vốn ở từng cấp ngân sách. Những dự án được quyết định đầu tư mà không xác định rõ nguồn vốn, mức vốn thuộc ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, làm cho dự án thi công phải kéo dài, gây lãng phí thì người ký quyết định phải chịu trách nhiệm về những tổn thất do việc kéo dài này gây ra. Đặc biệt, từ năm 2012, tất cả các dự án đã được quyết định đầu tư phải thực hiện theo mức vốn kế hoạch được giao để không gây nên nợ đọng xây dựng cơ bản. Việc bố trí vốn từ ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ phải được lập theo kế hoạch đầu tư 5 năm phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và được phân khai ra kế hoạch đầu tư từng năm. Riêng kế hoạch vốn đầu tư của giai đoạn 2011 - 2015 thì lập kế hoạch đầu tư hàng năm cho năm 2011, 2012 và kế hoạch đầu tư 3 năm (2013 - 2015). Việc xây dựng kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ năm 2012 phải tính đến cân đối chung của cả giai đoạn 2011 - 2015. Việc bố trí vốn NSNN năm 2012 thực hiện theo thứ tự ưu tiên như sau: Tập trung bố trí vốn cho các dự án đã hoàn  thành và đã bàn giao, đưa vào sử dụng trước ngày 31/12/2011 nhưng chưa bố trí đủ vốn. Ưu tiên bố trí vốn cho các dự án dự kiến cần phải hoàn thành năm 2012 (theo tiến độ trong quyết định đầu tư, khả năng cân đối vốn và khả năng thực hiện trong năm 2012) và vốn đối ứng cho các dự án ODA theo tiến độ thực hiện dự án. Số vốn còn lại (nếu có) bố trí cho một số dự án đang thực hiện hoặc dự án mới nhưng phải hạn chế tối đa. Dự án mới phải là dự án thực sự cấp bách, có quyết định đầu tư, thiết kế cơ sở, tổng dự toán được duyệt 18 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI trước ngày 25/10/2011. Đối với các dự án đang được đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước nhưng không bố trí được vốn kế hoạch năm 2012 sẽ phân làm 2 nhóm: Thứ nhất, nhóm các dự án có khả năng chuyển đổi sang các hình thức đầu tư khác (như BOT, BT, PPP...); Thứ hai, nhóm các dự án không thể chuyển đổi được sang các hình thức đầu tư khác thì các Bộ, ngành, địa phương chủ động huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện. Trường hợp không có nguồn vốn hợp pháp khác thì phải tạm dừng thực hiện năm 2012. Trong giai đoạn 5 năm 2011 - 2015 và kế hoạch năm 2012, việc bố trí vốn trái phiếu Chính phủ thực hiện nghiêm túc chủ trương không bổ sung thêm dự án mới và theo thứ tự ưu tiên:  Tập trung bố trí vốn cho các dự án đã hoàn thành và đã bàn giao, đưa vào sử dụng trước ngày 31/12/2011 nhưng chưa bố trí đủ vốn; Ưu tiên bố trí vốn cho các dự án cần phải hoàn thành năm 2012; nếu còn nguồn vốn sẽ xem xét bố trí cho các dự án có khả năng hoàn thành năm 2013. Đặc biệt, cần nhấn mạnh rằng, đã chín muồi điều kiện và đòi hỏi bức xúc về sự ra đời và thực thi hiệu lực, hiệu quả trên thực tế Một Luật đầu tư công và Luật về Nợ nước ngoài, cũng như Luật về khai thác và bảo vệ tài nguyên-môi trường, bảo vệ người hiền tài và các lợi ích quốc gia khác của Việt Nam, để góp phần phát triển bền vững đất nước, bình ổn vững chắc đời sống kinh tế -xã hội và con cháu mai sau không phải chịu cảnh “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”/. nhận thức, thói quen và thông tin về quy mô, chất lượng, giá cả và tính năng, cùng hệ thống phân phối bán buôn và bán lẻ rộng khắp, hiện đại và thuân lợi, cùng các điều kiện cung ứng và chăm sóc khách hàng khác từ phía các doanh nghiệp Việt Nam trên phạm vi toàn quốc, cũng như trên thế giới, nhất là những nước có đông đảo cộng đồng kiều bào ta đang sinh sống và kinh doanh Đặc biệt, chính quyền các cấp cần hỗ trợ, cùng hệ thống phân phối bán buôn và bán lẻ rộng khắp, hiện đại và thuân lợi, cùng các điều kiện cung ứng và chăm sóc khách hàng khác từ phía các doanh nghiệp Việt Nam phù hợp với đặc điểm mỗi địa phương, khu vực dân cư và chủng loại hàng hóa Việc kiểm soát hải quan và thị trường nhằm giảm thiểu tình trạng cạnh tranh không bình đẳng và các gian lận thương mại khác từ các hàng ngoại nhập chất ượng thấp, giá rẻ và trốn thuế là cần thiết để hàng Việt đứng vững và mở rộng tiêu thụ trên thị trường trong nước. Người Việt Nam sẽ tăng dùng hàng Việt Nam khi bản thân họ có nhu cầu có khả năng thanh toán trên thực tế do tăng thu nhập từ lương và các nguồn thu nhập khác; khi họ có thông tin về nguồn hàng, chất lượng và giá cả hàng hoá, cũng như khi họ được tiếp cận hệ thống dịch vụ phân phối hàng thuận tiện và tốt nhất có thể trong so sánh với các hàng hoá ngoại nhập tương đương; khi người dân ta được tuyên truyền, giáo dục và tổ chức tốt để trở thành cộng đồng những người tiêu dùng thông minh, tự trọng, biết phân biệt các giá trị Chân, Thiện, Mỹ thực sự; nhất là biết rõ công năng, lợi ích và tác động xấu của hàng ngoại phẩm cấp thấp, dù giá rẻ ; Vì vậy, chính quyền các cấp và các doanh nghiệp từ TW đến địa phương cần tạo điều kiện cải thiện thu nhập thực tế của người dân; cũng như quan tâm thực hiện quảng cáo và quảng bá các thông tin hàng Việt với giá rẻ hoặc miễn phí trên tất cả các chương trình và phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương, cũng như quốc gia, nhất là trên hệ thông truyền hình và đài phát thanh. Nếu những điều trên được thực hiện tốt, thì nhất định hàng Việt Nam sẽ ngày càng là sự lựa chọn đầu tiên và ổn định dài lâu của người tiêu dùng, cả ở thị trường Việt Nam và nước ngoài/. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ... (Tiếp theo trang 4) Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 19 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1. Một số khó khăn trong xây dựng tiêu chí hộ nghèo và chỉ tiêu giảm nghèo Xác định tiêu chí hộ nghèo và đề xuất chỉ tiêu giảm nghèo của cả nước nói chung, Hà Nội nói riêng, là một vấn đề khó khăn, phức tạp, đó là: Thứ nhất, về mặt lý luận và nhận thức còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Một số quan điểm đang được các nước và các địa phương áp dụng là phương pháp tiếp cận nghèo đơn chiều, trong đó hai yếu tố được xem xét là mức thu nhập bình quân và mức chi tiêu tối thiểu bình quân. Trong cơ cấu chi tiêu tối thiểu, chi cho ăn uống được tập trung cao nhất. Các quan điểm này lập luận rằng, người nghèo, hộ nghèo thoát nghèo đồng nghĩa là đảm bảo cho họ đủ ăn. Chính vì vậy, năm 2008 chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đã công bố tiêu chí đối với nhóm nghèo và cận nghèo là những đối tượng có mức thu nhập bình quân 1,25 USD/ngày/người (nghèo) và 2 USD/ngày/người (cận nghèo). Từ quy đổi giá trị thu nhập bình quân tương đương với quy đổi ra khẩu phần ăn với mức đảm bảo 2100 calo/người/ngày. Chỉ số này chủ yếu áp dụng cho các nước nghèo, còn đối với các nước phát triển như Mỹ, hộ nghèo xác định dưới 35 USD/ người/ngày; Đức dưới 40 USD; Nhật Bản dưới 38 USD; Hàn Quốc dưới 25 USD. Dựa vào căn cứ này, phần lớn các quốc gia nghèo, trong đó có Việt Nam, căn cứ vào tốc độ tăng GDP, tỷ lệ lạm phát và biến động của chỉ số giá cả (CPI), cân đối nguồn lực tài chính của chương trình giảm nghèo xác lập mức chuẩn nghèo cho từng giai đoạn, chủ yếu là mức chuẩn nghèo trong kỳ hạn 5 năm. Mặt khác, từ năm 2008 đến nay, có nhiều nước, trong đó có Việt Nam, có quan điểm mới cho rằng, việc tiếp cận nghèo theo phương pháp đơn chiều hiện nay không còn phù hợp, mà phải chuyển sang tiếp cận nghèo theo phương pháp đa chiều, xem xét vấn đề nghèo dưới góc độ kinh tế kết hợp với góc độ xã hội. Theo UNDP, phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều được thông qua bộ chỉ số nghèo đa chiều (Muti - poor - Index - MPI) bao gồm 8 chiều như phần thực trạng đã đề cập. Nếu sử dụng MPI để đánh giá thực trạng hộ nghèo, từ đó xác lập chuẩn nghèo sẽ thực chất và đa dạng hơn tuy nhiên số lượng, tỷ lệ hộ nghèo sẽ cao hơn so với hiện nay. Thứ hai, đối với nước ta, những năm qua việc đánh giá hộ nghèo và xác lập chuẩn nghèo phải thống nhất theo mức đánh giá chuẩn nghèo do Tổng cục Thống kê xác lập. Tuy nhiên, đối với các đô thị lớn, trong đó có Hà Nội, Bộ LĐ - TB - XH đồng ý cho các địa phương này được điều chỉnh mức chuẩn nghèo cao hơn cả nước với 3 điều kiện: tốc độ tăng GDP và mức sống cao hơn, số lượng và tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn và có đủ khả năng cân đối nguồn lực tài chính thực hiện chương trình giảm nghèo so với các tỉnh thành khác. Chính vì vậy, UBND Hà Nội đã ban hành quyết định chuẩn nghèo mới áp dụng cho Hà Nội giai đoạn 2011-2015 thay cho mức chuẩn nghèo giai đoạn 2009-2013. Vấn đề đặt ra là, khi mức chuẩn nghèo mới được xác lập, việc đề xuất tiêu chí, chỉ tiêu giảm nghèo mới sẽ làm tăng số lượng, tỷ lệ hộ nghèo của Thành phố và sẽ tác động mạnh đến các chỉ tiêu phát triển KT-XH. Đặc biệt, tỷ lệ hộ nghèo của Hà Nội sẽ tăng rất cao, trong khi nguồn ĐỀ XUẤT MỘT SỐ TIÊU cHÍ Xác ĐỊNH HỘ NGHÈo VÀ cHỈ TIÊU GIảM NGHÈo cỦA HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2015 VÀ TIẾP THEO PGS.TS. Hoa Hữu Lân - CN. Phan Quốc Khánh Viện nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội 20 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI lực tài chính cho chương trình giảm nghèo của Hà Nội có hạn. 2. Một số quan điểm cơ bản xác lập tiêu chí và mức chuẩn nghèo của Hà Nội Để giải quyết những khó khăn, phức tạp trên đây, chúng tôi đề xuất một số quan điểm cơ bản sau đây: Một là, vấn đề nghèo và giảm nghèo là hiện tượng thường xuyên, lâu dài và không có hồi kết: Đối với xã hội đa sở hữu, đa thành phần KT-XH, vấn đề phân tầng xã hội là một quy luật tất yếu. Do đó việc phân hóa giàu nghèo cũng nằm trong phạm trù của quy luật này. Xác định tiêu chí nghèo phải căn cứ vào mặt bằng chất lượng cuộc sống của từng giai đoạn và điều kiện phát triển của từng quốc gia, địa phương. Vì vậy, tránh quan điểm ảo tưởng cho rằng có thể triệt tiêu hết nghèo, ngược lại các giải pháp hiện nay chỉ có thể hạn chế và giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, cải thiện từng bước cuộc sống cho các đối tượng nghèo. Mặt khác, mức chuẩn nghèo không được cố định trong một thời gian dài, mà cần có những điều chỉnh phù hợp với thực tế của cuộc sống. Hai là, xác định tiêu chí, mức chuẩn nghèo và chỉ tiêu giảm nghèo trước hết và quan trọng nhất là phải căn cứ vào mức sống tối thiểu: Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, mức sống tối thiểu trước hết áp dụng phương pháp tiếp cận truyền thống như hiện nay là cân đối giữa thu nhập bình quân và mức chi tiêu tối thiểu. Tuy nhiên, cần áp dụng linh hoạt biến động CPI cộng vào vào mức chuẩn nghèo đã được ban hành. Mặt khác, đối với hộ nghèo thành thị, bên cạnh các tiêu chí trên, dựa vào năng lực của Thành phố có thể áp dụng thêm một số chiều trong khung MPI, trong đó 3 tiêu chí quan trọng (nhà ở, giáo dục, y tế chăm sóc sức khỏe) cần được sớm áp dụng. Về lâu dài, khi điều kiện kinh tế phát triển, chất lượng cuộc sống cải thiện tốt hơn sẽ vận dụng đủ 8 chiều đối với các hộ nghèo thành thị. Ba là, xác định tiêu chí và chỉ tiêu giảm nghèo của Hà Nội không chỉ đối với đối tượng nghèo định cư, mà còn bao gồm cả đối tượng nghèo di cư: trước hết là đội ngũ lao động đang làm việc tại các KCN của Hà Nội hiện nay. Đây là lực lượng lao động trên địa bàn tương đối ổn định và lâu dài, có những đóng góp quan trong đối với quá trình tăng trưởng kinh tế của Thành phố. Ngoài ra, đặc thù của Hà Nội sau khi mở rộng có nhiều vùng miền khác nhau với trình độ không đồng đều. Do đó, khi xác định tiêu chí và mức chuẩn nghèo cũng cần quan tâm đến yếu tố vùng, miền. 3. Đề xuất tiêu chí xác định hộ nghèo và chuẩn nghèo của Hà Nội đến năm 2015 và những năm tiếp theo. a. Một số tiêu chí chung xác định hộ nghèo Chúng tôi cho rằng, hộ nghèo là hộ có: Mức thu nhập bình quân/ người/ngày thấp hơn 2 USD hoặc không đủ đảm bảo 2100 calo/người/ngày; Mức chi tiêu bình quân tối thiểu cao hơn so với mức thu nhập bình quân tối thiểu; Mức thu nhập bình quân tối thiểu thấp hơn mức sống tối thiểu; Việc làm không ổn định, thu nhập thấp hoặc không có việc làm; Diện tích nhà ở dưới mức 7m2/ người, chất lượng nhà ở kém hoặc không có nhà ở; Khả năng tiếp cận giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe gặp nhiều khó khăn; Không có khả năng tích lũy và khả năng tài chính để đầu tư sản xuất, kinh doanh; Gia đình đông con nhỏ, lao động ít, thu nhập không đảm bảo cuộc sống; Các đối tượng chính sách không có khả năng lao động, sống chủ yếu bằng trợ cấp. b. Một số tiêu chí cụ thể xác định hộ nghèo theo MPI - Tiêu chí định lượng: Một trong những nhân tố phản ánh khá rõ rệt đời sống của người nghèo là tiêu chí về kinh tế được thể hiện qua thu nhập từ các việc làm chính, phụ và nhóm tiêu chí về mức sống bao gồm các loại chi tiêu trong đời sống hằng ngày. Chi tiêu và thu nhập là những chỉ số có liên quan đến việc duy trì cuộc sống gia đình có thể hỗ trợ tích cực cho việc đo lường tình trạng nghèo khổ và nhìn nhận một số đặc điểm của nghèo đói. + Về thu nhập: Thu nhập của người nghèo nhìn chung rất thấp và không ổn định. Kết quả điều tra cho thấy bình quân thu nhập của người nghèo là 750.000đ/người/tháng và nông thôn là 550.000đ/người/tháng Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 21 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI theo chuẩn nghèo thành phố đã xác định (2011 - 2015) dù không hợp lý. Mỗi hộ gia đình có thể thu nhập từ một hoặc nhiều nguồn như việc làm (việc làm chính, việc làm phụ ở các lĩnh vực nông nghiệp, phi nông nghiệp) và ngoài việc làm (lương hưu, thân nhân, giúp đỡ), nhưng chủ yếu vẫn từ việc làm chính. Mặt khác, ảnh hưởng đến thu nhập bình quân nhân khẩu của các hộ gia đình còn là hệ số phụ thuộc, tức tỉ lệ phần trăm số người ăn theo trên số người có thu nhập (quy mô gia đình các hộ nghèo được điều tra lớn hơn quy mô gia đình bình quân thành phố, gia đình còn có những quan hệ ngoài vợ chồng, con cái). Thu nhập chủ yếu của cư dân đô thị vẫn là buôn bán nhỏ, dịch vụ nhỏ, làm mướn, các khoản thu ngoài việc làm không quan trọng lắm. + Về chi tiêu: Tổng chi tiêu của các hộ gia đình nghèo toàn thành phố chủ yếu từ 1-1,5 triệu đồng/tháng. Các nhóm thu nhập thấp thường có khuynh hướng chi vượt khỏi thu. Lương thực, thực phẩm chiếm từ 70 - 75% chi tiêu hàng tháng của những gia đình nghèo, còn lại để chi cho khám chữa bệnh, hiếu hỉ... Riêng về học hành, điều đặc biệt là các nhóm hộ gia đình thấp hay cao đều không ảnh hưởng gì mấy đến việc chi cho học hành, chi cho học hành của con cái chiếm một tỷ lệ nhất định trong ngân sách gia đình. - Tiêu chí định tính: Các tiêu chí định tính được thể hiện ở một vài khía cạnh như nhà ở, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, việc làm (khả năng nắm bắt và chuyển đổi), vốn xã hội (quan hệ, thông tin). + Tình trạng nhà ở: Nhà ở cho người nghèo là một trong những mục tiêu căn bản đang được quan tâm. Trong các địa bàn điều tra, chỉ có 0,4% hộ gia đình nghèo là mới chuyển về trong 5 năm trở lại đây kể từ thời điểm điều tra trên địa bàn toàn thành phố và họ chuyển từ một phường lân cận đó. Tính di chuyển năng động của người nghèo rất thấp. Thường họ không có điều kiện chọn nơi cư trú tốt hơn, và do đó khi đã ở đâu thì ở đó lâu dài trừ khi có một sự chuyển đổi bắt buộc. Điều quan trọng ở đây là đa số đều sở hữu nhà ở của mình (91,6%) nhưng kết cấu nhà tạm bợ và bán kiên cố là chính và diện tích ở tương đối nhỏ, không gian chật hẹp dưới 40m2 và có khoảng 12% nằm trong diện quy hoạch phải giải tỏa di dời. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật (đường sá, cấp điện, cấp và thoát nước) của khu vực nhà ở tương đối tốt, chỉ có khoảng 20- 30% than phiền là hệ thống giao thông, thoát nước, vệ sinh môi trường là không tốt. Hệ thống công trình kỹ thuật hạ tầng tốt góp phần nâng cao chất lượng sống của người dân thành thị, cao hơn đáng kể so với các vùng lân cận và nông thôn. Điều này thể hiện qua một số chỉ báo về kiểu loại nhà vệ sinh, mức độ sử dụng điện, nước sạch, tỉ lệ có các thiết bị sinh hoạt gia đình như ti vi, tủ lạnh. Các tiện nghi sinh hoạt trong các hộ gia đình nghèo đều có ở cấp độ cần thiết như: tivi, đầu viđeo, bếp điện/ ga, tủ lạnh, xe máy. Tuy nhiên chất lượng không tốt lắm. Về điều kiện cấp điện, nước, nhà vệ sinh thì 86,3% các hộ gia đình nghèo toàn thành phố có nhà vệ sinh riêng, 88,2% số hộ gia đình nghèo có đồng hồ điện riêng, 51,3% hộ gia đình nghèo có đồng hồ nước riêng. Giá điện câu nhờ với mức giá từ 1000 - 2000 đồng/1kwh. Giá nước câu nhờ phải trả là từ 2000 – 5000 đồng/1m3. + Chăm sóc sức khoẻ: Trong chương trình nghiên cứu này, tỷ lệ người bệnh trong các hộ gia đình không cao lắm chiếm khoảng 12,5% tổng số người trong các hộ nghèo, và thực tế tuy không ghi nhận những khoản chi lớn về y tế trong cơ cấu tiêu dùng các hộ, nhưng tỷ lệ chi cho y tế là 7,1% cao hơn mức bình quân chung thành phố là 6%. Tuy mức chi tuyệt đối thấp hơn (chỉ bằng 1/2 so với mức chung thành phố, 20.000đồng/ người/ tháng so với 40.000 đồng/ người/tháng) nhưng điều này không thể nói rằng người nghèo không chi nhiều cho chăm sóc sức khỏe mà vì họ cần chi vào những khoản mục khác hơn, một số người nghèo được giảm một phần hay toàn bộ viện phí và thường họ sử dụng nhiều dịch vụ y tế cũng như thuốc chữa bệnh rẻ tiền. Như vậy, người nghèo khổ có thu nhập thấp thường chịu thiệt thòi hơn trong việc chăm sóc sức khoẻ. + Tính chất và quy mô hộ gia đình: Trong tổng số hộ khảo sát thì số lượng hộ nghèo ở mức thấp nhất (dưới 4 triệu đồng) còn chiếm một tỷ lệ khá cao 22 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI trên 40%, đặc biệt ở vùng nông thôn thì tỷ lệ này cao hơn. Một tỷ lệ đáng quan tâm là 17,1% số hộ nghèo thuộc các gia đình chính sách. Quy mô hộ gia đình nghèo bình quân 6 người, cao hơn mức bình quân chung thành phố. Trong một số hộ, có những người bà con thân thuộc ở nhờ nhưng không có quan hệ kinh tế với chủ hộ. Tỷ lệ dân số phụ thuộc (<15 tuổi và trên 16 tuổi) chiếm 32,2%. + Trình độ học vấn và chuyên môn: Trình độ học vấn của người nghèo (từ 6 tuổi trở lên) toàn thành phố nhìn chung phổ biến ở cấp tiểu học chiếm 46,5%, kế đến là cấp trung học cơ sở chiếm 33,6%; cấp trung học phổ thông chỉ chiếm 19,9%, và một tỷ lệ không nhỏ không đến trường lớp và bỏ học trong độ tuổi. Tỷ lệ cấp trung học phổ thông thấp, đặc biệt ở các nhóm thu nhập thấp. Điều này cho thấy càng nghèo thì trình độ học vấn càng thấp vì không có điều kiện cho con em học lên cao. Tỷ lệ trẻ em học không đúng tuổi tăng dần ở những lớp cao. 7,4% số người nghèo không biết chữ (đặc biệt ở nhóm có mức thu nhập thấp nhất < 4 triệu). Người nghèo không có trình độ chuyên môn chiếm tỉ lệ gần như tuyệt đối, tới hơn 95,9% trong tổng số. Số người này tập trung phần lớn trong các hộ gia đình có thu nhập dưới 4 triệu đồng hay nói cách khác, hộ càng nghèo thì trình độ học vấn và chuyên môn càng kém. Số người có trình độ đại học chỉ chiếm 2%, trung học chuyên nghiệp là 1,4% công nhân kỹ thuật 0,7%. Thực tế cho thấy chính sách thu học phí của nhà nước chỉ đóng một vai trò thứ yếu trong việc xác định toàn bộ mức chi phí mà gia đình phải bỏ ra cho con em họ đến trường. Toàn bộ mức chi phí đó lớn hơn nhiều mức thu học phí của nhà nước.Từ trình độ học vấn và chuyên môn quá thấp, dẫn đến tình trạng hoạt động của người nghèo có phần kém năng động, hiệu quả. Trên toàn thành phố, tỉ trọng người dân nghèo (từ 13 tuổi trở lên, có 2286 người) có việc làm ổn định chỉ chiếm 27,7%, việc làm bấp bênh là 21%, không có việc làm là 8,7%, đi học 14,6%, nội trợ 8%, già mất sức là 10%. Tỷ lệ thất nghiệp khá lớn trong cộng đồng người nghèo, cao hơn mức trung bình của thành phố. + Việc làm - khả năng nắm bắt và chuyển đổi: Hoạt động nghề nghiệp phổ biến nhất của người nghèo đô thị là buôn bán dịch vụ nhỏ với quy mô gia đình. Họ thường làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức (informal sector) với những loại công việc không đòi hỏi tay nghề, thu nhập thấp và không ổn định. Có thể nói khu vực kinh tế phi chính thức là khu vực cần thiết cho sự tồn tại và mưu sinh của đa số người nghèo, đặc biệt đối với người nghèo thành thị mà thành phố Hồ Chí Minh là một điển hình với khoảng 50% trong tổng số lao động thu nhập thuộc về khu vực kinh tế phi chính thức. Điểm đáng báo động ở đây là tỷ lệ thất nghiệp cao trên 10% trong tổng số người trong độ tuổi lao động và cứ 2 người có việc làm thì một người ở tình trạng việc làm bấp bênh. Thất nghiệp và việc làm bấp bênh là hai nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo cơ bản của một hộ gia đình. Những nỗ lực có thể cải thiện trong từng thời điểm nhưng trong quá trình vượt nghèo, những bước thụt lùi là điều có thể xảy ra. Đó là cái mà các nhà khoa học gọi là tính dễ tổn thương của người nghèo. + Vốn xã hội của người nghèo: Vốn xã hội, chẳng hạn như các mối quan hệ gia đình, cộng đồng và xã hội của một cá nhân hay hộ gia đình có ý nghĩa quan trọng giúp người nghèo nâng cao cuộc sống của mình. Bên cạnh các yếu tố đo lường được, có ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động như học vấn, tay nghề, vốn thì còn có những yếu tố vô hình nhưng đôi khi lại là yếu tố quyết định đến thu nhập của người nghèo. Các yếu tố vô hình đó có thể là những quan hệ xã hội mà một người có được từ vị trí xã hội hoặc gia đình mình. Mạng lưới xã hội đóng vai trò đáng kể với sự định vị trong phân tầng mức sống và thăng tiến của cư dân đô thị. Như vậy, mạng lưới xã hội cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng giúp cho những nhóm nghèo thoát ra khỏi tình trạng nghèo đói. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vốn xã hội của người nghèo còn rất hạn chế. Họ cũng thường có họ hàng nghèo, bạn bè nghèo vì vậy khả năng giúp đỡ từ người khác là rất ít. Tỷ lệ 76,9% chủ Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 23 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI hộ không tham gia hoạt động các đoàn thể, và 83,1% số hộ không có thành viên tham gia các hoạt động xã hội nói lên mối quan hệ xã hội của các hộ nghèo không rộng rãi lắm và như vậy các cơ hội làm ăn cũng có phần hạn chế. c. Một số phương án xác định tiêu chí hộ nghèo và mức chuẩn nghèo cụ thể: * Phương án 1: Căn cứ vào mức chuẩn nghèo Thành phố giai đoạn 2011-2015 đã được xác lập; Căn cứ vào tốc độ lạm phát trung bình giai đoạn 2011- 2015; Đề xuất mức chuẩn nghèo và tiêu chí xác định hộ nghèo phương án 1 như sau: + Đối với Thành thị: 750.000đ/người/tháng x 10% lạm phát = 825.000đ/người/ tháng. Hoặc bằng mức lương tối thiểu: 830.000đ. + Đối với Nông thôn: 550.000đ/người/tháng x 10% lạm phát = 605.000đ/người/ tháng. Ưu điểm của phương án 1: Phù hợp với đặc điểm phát triển KT-XH Hà Nội giai đoạn 2011- 2015; Phù hợp với năng lực cân đối nguồn lực tài chính thực hiện chương trình giảm nghèo của Thành phố; Phù hợp với mục tiêu giảm nghèo của Thành phố đến năm 2015, giảm từ 1,5- 1,8%/năm. Nhược điểm của phương án 1: Còn thấp xa so với mức sống tối thiểu của Hà Nội hiện nay; Chất lượng của các hộ nghèo cải thiện không đáng kể. * Phương án 2: Căn cứ vào đề xuất chuẩn nghèo cho đối tượng cận nghèo Thành phố giai đoạn 2011-2015. Theo báo cáo chính thức kết quả tổng điều tra xác định hộ nghèo, cận nghèo theo chuẩn toàn quốc và phục vụ xây dựng chuẩn nghèo Thành phố giai đoạn 2011- 2015 của Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo (UBND Thành phố) số 2144/BC-BCĐ ngày 15/12/2010. Căn cứ vào điều tra của dự án “Đánh giá nghèo đô thị ở Hà Nội và Thành phố HCM” do UNDP tiến hành năm 2009, công bố kết quả tháng 12/2010. Căn cứ vào tốc độ tăng GDP và tốc độ lạm phát của Hà Nội giai đoạn 2011-2015. Phương án xác định cụ thể như sau: Kết quả điều tra của dự án đánh giá nghèo đô thị ở Hà Nội và Thành phố HCM do UNDP tiến hành năm 2009 công bố, mức thu nhập bình quân của hộ nghèo đô thị Hà Nội là 750.300đ/người/tháng, mức chi tiêu bình quân tối thiểu là 884.900đ/người/tháng. So sánh hai tiêu chí này, mức chênh lệch giữa chi tiêu và thu nhập bình quân là 134.600đ/ người/tháng. Tương tự như vậy, đối với hộ nghèo nông thôn, mức thu nhập bình quân là 550.600đ/người/tháng, mức chi tiêu bình quân là 622.600đ/ người/tháng. Chênh lệch là 72.000.đ/người/tháng. Nếu căn cứ vào tốc độ lạm phát tính đến thời điểm 2011 so với thời điểm điều tra năm 2009, trung bình mỗi năm tăng khoảng 20% (đây là mức tính bình quân, thực tế còn cao hơn), sẽ cho kết quả mức thu nhập bình quân tính vào thời điểm năm 2011 cụ thể như sau: + Đối với mức thu nhập bình quân hộ nghèo Thành thị: 750.000 x 20% lạm phát = 750.000 + 150.600 = 900.900đ/ người/tháng. + Đối với mức thu nhập bình quân hộ nghèo Nông thôn: 550.600 x 20% lạm phát = 550.600 + 110.120 = 660.720đ/ người/tháng. Tuy nhiên, nếu so sánh mức thâm hụt giữa mức chi tiêu bình quân/thu nhập bình quân của năm 2011 so với năm 2009 thì mức chênh lệch này rất lớn. Nguyên tắc để đảm bảo mức sống tối thiểu cho hộ nghèo là mức thu nhập bình quân phải bằng hoặc hơn mức chi tiêu bình quân. Vì vậy, mức chuẩn nghèo hiện nay tối thiểu phải bằng mức chuẩn cận nghèo giai đoạn 2011-2015. Đề xuất mức chuẩn nghèo và tiêu chí hộ nghèo phương án 2 như sau: + Đối với Thành thị: 1.000.000đ/người/tháng + Đối với Nông thôn: 750.000đ/người/tháng Ưu điểm phương án 2 là: Gần sát với mức sống tối thiểu hiện nay. Đời sống của hộ nghèo cải thiện được một bước; trước hết gần sát với mục tiêu đạt tiêu chuẩn 2100 calo/người/tháng. Hạn chế của phương án 2: Số lượng và tỷ lệ hộ nghèo sẽ tăng gấp đôi (vì thực chất nếu theo phương án này các đối tượng cận nghèo trở thành đối tượng nghèo). Mục tiêu giảm nghèo của Thành phố đến năm 2015 không thể đạt được theo mục tiêu đã được xác định. Cân đối nguồn lực tài chính của 24 • Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Thành phố cho chương trình giảm nghèo sẽ tăng từ 1,5-2 lần. Về cơ bản người nghèo mới chỉ tiếp cận được tiêu chí đảm bảo nguồn lương thực theo chuẩn của UNDP. Còn các khoản chi tiêu cần thiết khác chưa được tính đến. * Phương án 3: Căn cứ vào điều kiện thực tế khó khăn hiên nay đối với các hộ nghèo do tác động của lạm phát và giá cả, sinh hoạt đắt đỏ của Thành phố. Căn cứ vào một số chiều cơ bản của MPI theo phương pháp tiếp cận đa chiều (ngoài thu nhập bình quân còn tính đến các yếu tố cần thiết khác về nhà ở, giáo dục đào tạo, y tế). Căn cứ vào khảo sát điều tra của Viện Công nhân Công đoàn – Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đối với người lao động trên địa bàn Hà Nội tháng 10/2011. Phương pháp xác định cụ thể như sau: Theo kết quả điều tra của Viện Công nhân Công đoàn đối với người lao động trên địa bàn Hà Nội từ tháng 4/2011 đến tháng 10/2011 cho thấy: + Mức thu nhập bình quân của 1 lao động trung bình từ 2.100.000đ - 2.300.000đ + Mức chi tiêu bình quân tối thiểu đảm bảo 2100 calo/người/ ngày theo thời giá hiện nay là 35.300đ/người/ngày. Như vậy riêng tiền ăn phải chi là: 35.300 x 30 ngày = 1059.000đ; tiền thuê nhà ở là 200.000đ/tháng; tiền điện nước là 150.000đ/tháng; tiền đi lại là 70.000đ/tháng; tiền khám bệnh là 50.000đ/tháng; tiền nuôi con trung bình là 600.000đ/tháng. Như vậy tổng cộng mức chi tiêu tối thiểu cần thiết cho 1 người lao động là 2.629.000đ/người/tháng. Nếu phải nuôi 2 con đi học, mức thu nhập bình quân của 1 lao động phải là 3.042.000đ/tháng. Theo khảo sát điều tra xã hội học của Viện nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội năm 2011 trên cơ sở khảo sát điểm tại một số địa bàn Thành thị và nông thôn cho biết, đối với hộ nghèo Thành thị hiện nay phải có mức thu nhập bình quân khoảng 1.850.000đ/người/ tháng và khu vực nông thôn khoảng 1.300.000đ/người/ tháng mới đảm bảo mức sống tối thiểu (chủ yếu đảm bảo lương thực, thực phẩm). Nếu căn cứ vào 2 kết quả điều tra trên so với mức chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 của Thành phố mới chỉ đáp ứng 40% mức sống tối thiểu của các hộ nghèo. Đề xuất mức chuẩn nghèo và tiêu chí hộ nghèo phương án 3 như sau: + Đối với Thành thị: 1.850.000/người/tháng (tương đương 90 USD/người/tháng) + Đối với Nông thôn: 1.300.000đ/người/tháng (tương đương 65 USD/người/tháng). Ưu điểm phương án 3 là: Sát với mức sống tối thiểu hiện nay; Đời sống của các hộ nghèo tương đối bảo đảm; Phù hợp với tốc độ lạm phát. Hạn chế của phương án 3 là: Số lượng và tỷ lệ hộ nghèo của Hà Nội quá cao. Nguồn lực tài chính của Thành phố cho chương trình giàm nghèo vượt quá khả năng. Chưa phù hợp với tốc độ tăng GDP và điều kiện phát triển KT-XH của Thành phố hiện nay. * Phương án 4: Căn cứ vào mức thu nhập bình quân của Hà Nội năm 2011 khoảng trên 2000 USD/người/năm; Căn cứ vào mức chuẩn nghèo áp dụng cho các nước nghèo do UNDP xác định 5 USD/người/ngày; Căn cứ vào tốc độ lạm phát của Việt Nam năm 2012 khoảng dưới 10%/năm. Đề xuất mức chuẩn nghèo và tiêu chí hộ nghèo phương án 4 như sau: + Đối với Thành thị: 5 USD = 100.000đ x 30 ngày =3.000.000đ/người/tháng + Đối với Nông thôn: 3 USD = 60.000đ x 30 ngày =1.800.000đ/người/tháng Ưu điểm phương án 4 là: Sát với mức sống tối thiểu; Mức sống của các hộ nghèo được cải thiện căn bản. Hạn chế của phương án 4 là: Tỷ lệ và số lượng hộ nghèo quá cao; Khả năng cân đối tài chính của Thành phố không có khả năng đáp ứng. * Đề xuất lựa chọn phương án thực hiện Với các phương án trên, để phù hợp với tình hình chung hiện nay của Thành phố, đề tài đề xuất cụ thể như sau: - Chọn phương án 1: Đề nghị Thành phố xem xét và áp dụng cho giai đoạn (2012-2013). Phương án này mặc dù có một số điều chỉnh về số lượng, tỷ lệ hộ nghèo và chỉ tiêu giảm nghèo, nhưng với điều kiện phát triển KT-XH Hà Nội năm 2012 và khả năng kiềm chế lạm phát xuống 1 con số, cân đối nguồn Hà Nội Hội Nhập & Phát Triển - Tháng 12/2011 • 25 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI lực tài chính cho chương trình giảm nghèo của Thành phố có khả năng đáp ứng. - Đối với phương án 2: Đề nghị Thành phố xem xét và áp dụng cho giai đoạn (2013- 2015). Phương án này mặc dù có những xáo trộn lớn về số lượng, tỷ lệ, chỉ tiêu giảm nghèo của Thành phố, nhưng ngược lại mức sống tối thiểu của các hộ nghèo được cải thiện một bước và gần sát với thực tiễn hơn. - Đối với phương án 3: Mặc dù đây là phương án khả thi nhất, nhưng chỉ có tính chất tham khảo và rất khó thực hiện trong giai đoạn 2011-2015. - Đối với phương án 4: Cần xem xét lựa chọn giữa phương án 3 và phương án 4 áp dụng trong giai đoạn 2016-2020, phù hợp với mức thu nhập bình quân của Hà Nội đã được xác định trong quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH Hà Nội đến năm 2020 tầm nhìn 2030 đã được Thủ tướng phê duyệt. 4. Đề xuất chỉ tiêu giảm nghèo Thành phố đến năm 2015 Căn cứ vào 2 phương án lựa chọn trên đây, phương án đề xuất chỉ tiêu giảm nghèo Thành phố đến năm 2015 như sau: * Phương án 1:Nếu căn cứ vào báo cáo của UBND Thành phố, tính đến tháng11/2011, toàn Thành phố đã giảm được 24.500 hộ nghèo, đưa tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 5,72%. Như vậy trong năm 2012, số hộ nghèo của Thành phố Hà Nội sẽ còn là 91.577 hộ. Nếu căn cứ vào mức chuẩn nghèo Thành phố giai đoạn 2011-2015 so với mức chuẩn nghèo phương án 1 ta sẽ có mức chênh lệch cụ thể như sau: - Đối với hộ nghèo Thành thị: 830.000 – 750.000 = 80.000đ - Đối với hộ nghèo Nông thôn: 605.000 – 550.000 = 55.000đ - Mức chênh lệch trung bình chuẩn nghèo Hà Nội sẽ là: (80.000đ + 55.000đ)/2= 67.000đ/người/tháng - Mức chênh lệch sẽ làm tăng hộ nghèo thêm 5% tương đương với 4578 hộ. Như vậy số hộ nghèo Hà Nội năm 2012 sẽ là: 91.577 hộ + 4.578 hộ = 96.155 hộ, với tỷ lệ hộ nghèo sẽ là 10,72% so với tổng số hộ toàn Thành phố. Do đó mục tiêu (2012-2015) mỗi năm Thành phố giảm khoảng 2,5%/năm cao hơn mục tiêu cũ từ 0,7 - 1%/ năm. * Phương án 2: Nếu đưa mức chuẩn nghèo bằng mức chuẩn cận nghèo theo chuẩn nghèo Thành phố giai đoạn 2011-2015, so với mức chuẩn nghèo tương ứng, sẽ có sự chệnh lệch như sau: - Đối với hộ nghèo Thành thị: 1.000.000đ – 750.000đ = 250.000đ/người/tháng. - Đối với hộ nghèo Nông thôn: 750.000đ – 550.000đ = 200.000đ/người/tháng. - Mức chênh trung bình của phương án 2 sẽ là: (250.000đ + 200.000đ)/2= 225.000đ/người/ tháng - Tỷ lệ hộ nghèo năm 2012 sẽ tăng xấp xỉ 13%, cụ thể hộ nghèo năm 2012 sẽ là 91.577 hộ còn lại theo báo cáo + 12.176 hộ phát sinh theo đề xuất tăng mức chuẩn nghèo của đề tài = 103.753 hộ, như vậy, tỷ lệ hộ nghèo tính đến năm 2012 như sau: 5,72% tỷ lệ hộ nghèo còn lại theo báo cáo + 13% tỷ lệ hộ nghèo phát sinh theo đề xuất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoinhap_122011_1169_2179497.pdf
Tài liệu liên quan