Tài liệu Những vấn đề chung về công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đoàn cơ sở: phần A
những vấn đề chung về công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đoàn cơ sở
1- Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng thu được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực: Kinh tế- Chính trị- Văn hoá xã hội. Những thành công trong công cuộc đổi mới đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho tuổi trẻ nước ta rèn luyện cống hiến và trưởng thành.
Công tác Đoàn và phong trào TTN ngày một phát triển, nhiều mô hình hoạt động đã được xây dựng và phát triển trên các lĩnh vực hoạt động của TN đã thu lại những kết quả đáng phấn khởi. Tổ chức Đoàn đã thông qua các hoạt động cụ thể cũng như ở từng cơ sở. Đội ngũ cán bộ, ĐVTN từng bước trưởng thành hăng hái thi đua mang hết sức lực, trí tuệ phát huy sức trẻ và khả năng sáng tạo cống hiến ngày một nhiều có hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Qua hơn 72 năm xây dựng và trưởng thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác xây dựng tổ chức Đoàn, đặc biệt là nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở. Coi tổ chức cơ sở Đoàn...
34 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1024 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Những vấn đề chung về công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đoàn cơ sở, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần A
những vấn đề chung về công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đoàn cơ sở
1- Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng thu được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực: Kinh tế- Chính trị- Văn hoá xã hội. Những thành công trong công cuộc đổi mới đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho tuổi trẻ nước ta rèn luyện cống hiến và trưởng thành.
Công tác Đoàn và phong trào TTN ngày một phát triển, nhiều mô hình hoạt động đã được xây dựng và phát triển trên các lĩnh vực hoạt động của TN đã thu lại những kết quả đáng phấn khởi. Tổ chức Đoàn đã thông qua các hoạt động cụ thể cũng như ở từng cơ sở. Đội ngũ cán bộ, ĐVTN từng bước trưởng thành hăng hái thi đua mang hết sức lực, trí tuệ phát huy sức trẻ và khả năng sáng tạo cống hiến ngày một nhiều có hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Qua hơn 72 năm xây dựng và trưởng thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác xây dựng tổ chức Đoàn, đặc biệt là nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở. Coi tổ chức cơ sở Đoàn là nền tảng của Đoàn, là cầu nối giữa tổ chức Đoàn với Thanh niên, là nơi tổ chức thực hiện các chủ trương nghị quyết của Đoàn, là môi trường giáo dục để ĐVTN rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Điều đó được khẳng định rất rõ nét từ Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII. Tại Đại hội Đoàn lần này đã đặt ra mục tiêu cán bộ hướng về cơ sở, chăm lo đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ tăng cường công tác xây dựng củng cố tổ chức Đoàn, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu thì việc xã hội hoá công tác TN là một vấn đề rất bức thiết. Tổ chức Đoàn là một mắt xích quan trọng trong việc góp phần củng cố và phát huy vai trò của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, trong đó cán bộ cơ sở là một khâu quyết định tới chất lượng của tổ chức cơ sở Đoàn.
Thực tế hiện nay, công tác Đoàn và phong trào TTN trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước đang đòi hỏi khắt khe ở đội ngũ cán bộ Đoàn một sự chuyển biến mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đội ngũ cán bộ Đoàn hiện nay phải thực sự là những người giỏi chuyên môn, giỏi kỹ năng nghiệp vụ công tác TN để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của TN hiện nay. Cùng với những đòi hỏi thực tiễn của phong trào TN đặt ra phải đa dạng hoá nội dung hình thức, tổ chức các hoạt động phong phú hấp dẫn. Đó là những cán bộ được lựa chọn từ phong trào TN, được quần chúng tín nhiệm, có lòng nhiệ tình say mê trong công tác, có đủ năng lực, phẩm chất và khả năng thuyết phục vận động hấp dẫn Thanh niên, thu hút Thanh niên vào tổ chức, vào các phong trào hành động Cách mạng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.
Những cán bộ Đoàn có được những yêu cầu như vậy không thể chỉ làm việc nhờ kinh nghiệm bản thân, mà cần được đào tạo và lâu dài tạo nguồn bổ sung quan trọng cho đội ngũ cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền, các đoàn thể khác. Thực tế tình hình hiện nay cán bộ Đoàn cơ sở đang đứng trước những mâu thuẫn, những bất cập cần được giải quyết.
Khi đất nước chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Điều đó đồng nghĩa với đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở được đào tạo trong thời kỳ bao cấp, một bộ phận đã không kịp thích ứng nên đã dẫn đến tình trạng thiếu và yếu về chất lượng cùng với lề lối làm việc của cán bộ Đoàn cấp cơ sở không đáp ứng được kịp với đòi hỏi ngày càng cao, nhu cầu càng phong phú, đa dạng của ĐVTN và nhiệm vụ chính trị của tổ chức Đoàn.
Bên cạnh đó còn là mâu thuẫn giữa tốc độ phát triển của đội ngũ cán bộ Đoàn cấp cơ sở với sự chậm chễ trong công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và nguồn bổ sung với chất lượng thấp, ít được đào tạo cơ bản, chưa có sự chỉ đạo và cơ chế thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ Đoàn, chưa tạo được cơ chế phù hợp để tháo gỡ những khó khăn trong việc quy hoạch và chu chuyển cán bộ. Một bộ phận cán bộ còn do năng lực hạn chế, kém nhiệt tình, bên cạnh đó chế độ chính sách còn nhiều thiếu sót hạn chế nên chưa khuyến khích, thu hút được cán bộ trẻ nhiều tiềm năng, năng lực vào hoạt động chính trị.
Trước đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, song các nghiên cứu trước chưa tập trung chỉ đạo giải quyết triệt để vấn đề nghiên cứu. Do vậy trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp Trung cấp lý luận Đoàn- Hội- Đội, tôi chọn chuyên đề: “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đoàn cơ sở ”
2 - Mục đích nghiên cứu.
Khảo sát thực trạng về đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở thị xã Lào Cai , trên cơ sở đó xác định rõ nguyên nhân khách quan và chủ quan trong quan điểm, mục đích, yêu cầu, hướng đào tạo bồi dưỡng cán bộ Đoàn. Từ đó đưa ra các biệnpháp khả thi nhằm góp phần đào tạo bồi dưỡng cán bộ Đoàn cơ sở trong thời gian tới.
3- Nhiệm vụ của chuyên đề.
Phát hiện ra những bản chất quy luật của đối tượng trên cơ sở xây dựng của vấn đề nghiên cứu.
Từ thực trạng của vấn đề nghiên cứu có những biện pháp cải tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở.
Những đề suất, giải pháp phương thức, kiến nghị cụ thể bám sát mục đích nghiên cứu để khảo sát điều tra tìm ra thực trạng của vấn đề.
Tham khảo các tài liệu có liên quan, các công trình nghiên cứu trước để tìm và lấy số liệu nghiên cứu.
Xác định rõ nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan đặc biệt là những nguyên nhân dân đến tình trạng yếu kém.
Phân tích thực trạng rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết.
Nêu những kiến nghị có tính thiết thực, những giải pháp có tính khả thi một cách hợp lý với cấp uỷ Đảng, chính quyền và Đoàn cấp trên về vấn đề mình nghiên cứu.
Nêu những giải pháp mang tính khả thi cho tổ chức Đoàn- Hội- Đội cấp mình.
4 - Đối tượng nghiên cứu và khách thể điều tra.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Cán bộ Đoàn cơ sở chuyên trách và bản chuyên trách trong hệ thống bí thư, phó bí thư, BCH Đoàn cơ sở, bí thư, phó bí thư chi Đoàn.
Những đặc trưng cơ bản, những tiêu chuẩn chủ yếu của người cán bộ Đoàn trong giai đoạn mới.
Nghiên cứu những yếu tố cơ bản trong công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Đoàn cơ sở.
4.2. Khách thể điều tra.
Hệ thống chính sách chế độ hiện hành.
Cơ quan Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể địa phương có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Các trung tâm bồi dưỡng cán bộ Thị xã
5 - Phạm vi nghiên cứu:
5.1. Nội dung nghiên cứu:
Nghiên cứu các yếu tố tác động trực tiếp đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Đoàn cấp cơ sở, địa bàn Thị xã Lào Cai .
.Về không gian.
* Thị xã Lào Cai - Tỉnh Lào Cai 9 phường + 7 xã
Thời gian: Từ năm 2002 đến tháng 6 năm 2004 .
6 - Phương pháp nghiên cứu.
Đọc tài liệu tổng kết lý luận thực tiễn trên cơ sở văn bản đã có.
Gặp gỡ toạ đàm, phỏng vấn những khách thể điều tra.
Phương pháp điều tra xã hội học ( phương pháp pháp vấn).
Dự sinh hoạt chi đoàn để nắm được chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở.
7- đóng góp mới của chuyên đề
Tham mưu với Đảng, Nhà nước có chính sách phù hợp, toàn diện hơn đãi ngộ đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở.
Xây dựng bộ giáo trình chuẩn mực phục vụ công tác đào tạo bồi dưỡng, tập huấn cán bộ đoàn cơ sở nói chung và phường, xã nói riêng.
8- kết cấu của chuyên đề
Phần A: Những vấn đề chung về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Đoàn cơ sở.
Phần B: Nội dung cơ bản của chuyên đề.
Gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn trong công cuộc đổi mới hôm nay.
Chương II: Thực trạng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở ở thị xã Lào Cai.
Chương III: Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở thị xã Lào Cai.
Kết luận chung:
PHầN B
Nội dung cơ bản của chuyên đề
Chương I :
Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn
trong công cuộc đổi mới hiện nay.
1.1. Cơ sở lý lụân:
1.1.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thanh niên và cán bộ .
Cán bộ có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt , là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng .
C. Mác và Ph.Anghen là những người đặt nền móng cho vấn đề cán bộ của giai cấp vô sản . Hai ông không chỉ là những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học mà còn là những người mang ly luận khoa học két hợp với phong trào công nhân , lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới .
Giai cấp vô sản và chính đảng của mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính quyền thì phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ trung thành và tài năng , đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng .
Từ quá trình truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân , từ kinh nghiệm lịch sử loài người , C. Mác đã khẳng định “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng thực tiễn”.
Trong tác phẩm “ Những nhiệm vụ bức thiết của phong trào chúng ta”.
Lê Nin chỉ rõ “ trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”, khi chưa có chính quyền, vấn đề cán bộ đã rất quan tâm, khi có chính quyền vấn đề cán bộ càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn. Tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, Đảng phải lãnh đạo, quản lý. Do đó Lê nin đã quyết định mở các trường, lớp gấp rút lựa chọn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ cả về số lượng đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Lê nin lại tiếp tục khẳng định “ Nghiên cứu con người tìm những cán bộ có bản lĩnh hiện nay đó là then chốt. Nếu không thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định chỉ là giấy lộn”.
1.1.2. Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ thanh niên:
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin về công tác cán bộ, cùng với kinh nghiệm thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết sâu sắc và phát triển lên một tầm cao mới trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác đã chỉ rõ sự đúng đắn của đường lối, chính sách tùy thuộc cuối cùng ở chất lượng của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ nên bác khẳng định: “ cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “ công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Nếu cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì việc xây dựng đường lối chính sách sẽ đúng đắn và đây chính là điều kiện tất yếu để đưa cách mạng giành thắng lợi. Nếu không có cán bộ tốt thì dù đường lối chính sách có đúng đắn đến đâu cũng khó mà trở thành hiện thực được và như vậy nhất thiết phải có con người sử dụng lực lượng thực tiễn để đưa cách mạng đến thành công và không ai khác, đó chính là đội ngũ cách mạng.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “ Cán bộ là những người mang chính sách của đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thực hành. đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho đảng, cho chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”.
Để trở thành “ cầu nối ” giữa đảng, Chính phủ với quần chúng thì con người đó phải có đủ tư chất, tài năng và đạo đức . Để có thể giải thích chính sách của đảng, của chính phủ cho dân chúng thì người cán bộ phải có trí tuệ, có trình độ học vấn nhất định . Nếu không, người cán bộ sẽ không thể làm cho quần chúng hiểu và tin vào đảng vào chính phủ. Hơn thế nữa, để nắm bắt được tình hình, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng chính đáng của quần chúng thật đúng thực chất thì cán bộ càng phải có những đòi hỏi cao hơn có như vậy mới có thể giúp đảng, chính phủ hoạch định được những chủ trương, chính sách đúng và phù hợp .
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặt cán bộ ở vị trí có tính quyết định đối với chính sách đúng: “ Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hay thất bại của chính sách đó là do tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm đó sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích ”. Như vậy, muốn tổ chức hoạt động tốt cán bộ phải có tài, có đức. Bên cạnh việc lựa chọn cán bộ để giao trọng trách cần phải thường xuyên kiểm tra để phát huy mặt tốt, ngăn chặn cái xấu, cái tiêu cực . Vai trò của người cán bộ thể hiện qua các mối quan hệ:
với đường lối chính sách.
Với bộ máy.
Với công việc.
Với quần chúng.
Người cán bộ nào hoàn thành được các yêu cầu do các mối quan hệ đó đòi hỏi thì người cán bộ đó đã thực hiện đúng vai trò của mình .
Hồ Chí Minh đã gắn chặt đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ với vai trò lãnh đạo của Đảng, bởi cán bộ và công tác cán bộ chỉ được thể hiện rõ ràng, có hiệu lực khi gắn với đường lối nhiệm vụ chính trị của Đảng. Theo Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ cần phải chú ý đến các vấn đề: “Hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bộ, cất nhắc cán bộ, thương yêu cán bộ, phê bình cán bộ ”. Công tác cán bộ cũng như việc đào tạo nhân tài là rất cần thiết. Đặc biệt cần quan tâm đến chất lượng cán bộ, đó là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng, đánh giá sử dụng đề bạt, cất nhắc, kiểm tra, giám sát, phê bình… và kết quả sự nỗ lực phấn đấu của từng người. Chất lượng cán bộ phản ánh toàn bộ chất lượng công tác cán bộ. Do đó tất cả các khâu trên nếu được làm tốt nghĩa là công tác cán bộ tốt thì nhất định sẽ có đội ngũ cán bộ chất lượng .
Quan điểm của Đảng ta và của Đoàn về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn cơ sở.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ là một trong những vấn đề có vị trí đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Vai trò, vị trí của công tác cán bộ là một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, là khâu then chốt trong quy trình lãnh đạo của Đảng .
Căn cứ vào bối cảnh trong nước và quốc tế, cũng như nhu cầu nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội trong thời kỳ mới, đặc biệt xuất phát từ thực trạng đội ngũ và công tác cán bộ, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 3 ( khóa VIII ) đã vạch ra chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước và nhiệm vụ đổi mới cán bộ là một nhu cầu hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đảng đã chỉ ra một số quan điểm cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ trong chiến lược cán bộ đó là:
Một là , phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước với mục tiêu : Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH thì trước hết, yếu tố đóng vai trò quyết định đó là đội ngũ cán bộ phải có phẩm chất, năng lực và trí tuệ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới. Mỗi khi cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới, đường lối, nhiệm vụ chính trị thay đổi thì đội ngũ cán bộ cũng phải được liên tục đổi mới đáp ứng nhu cầu của thời đại. Quan hệ giữa nhiệm vụ CNH – HĐH với công tác cán bộ là mối quan hệ biện chứng, yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ CNH – HĐH đất nước chính là căn cứ để đề ra tiêu chuẩn cán bộ và để xây dựng mục tiêu, phương hướng, chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xem xét, đánh giá sắp xếp sử dụng cán bộ.
Hai là, quán triệt quan điểm, giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc.
Đây là vấn đề cơ bản xuyên suốt trong công tác xây dựng Đảng cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ, quan điểm giai cấp công nhân trong công tác cán bộ thể hiện ở tất cả các khâu từ tuyển chọn, đào tạo , đánh giá, bố trí sử dụng cán bộ, chính sách cán bộ.
Ba là, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách.
Cán bộ là người lập ra tổ chức. Ngược lại, cán bộ chịu sự chi phối, ràng buộc của tổ chức, khi có nhiệm vụ chính trị mới lập ra tổ chức, có tổ chức mới bố trí cán bộ. Tổ chức quyết định phương hướng, nhiệm vụ chính trị quyền hạn của cán bộ. Tổ chức buộc cán bộ phải hành động theo nguyên tắc và khuôn khổ của tổ chức, tổ chức nhân sức mạnh của cán bộ lên gấp bội vì cán bộ chỉ có sức mạnh khi có tổ chức, nhân danh tổ chức. Đảng ta tổng kết “ Tổ chức mạnh làm cho từng người mạnh, từng người mạnh làm cho tổ chức mạnh”.
Bốn là, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Đánh giá cán bộ phải căn cứ vào hoạt động thực tiễn của cán bộ đều phải được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Thực tế cho thấy nơi nào có phong trào cách mạng của quần chúng tốt thì nơi đó có nhiều cán bộ tốt và ngược lại nơi nào có nhiều cán bộ tốt thì nơi đó phong trào cách mạng của quần chúng phát triển. Phong trào cách mạng của quần chúng là trường học lớn của cán bộ, là nơi ươm lên những cán bộ tốt. Phải thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng để giáo dục, rèn luyện đào tạo, đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn cán bộ một cách khách quan .
Năm là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị .
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định, Đảng cộng sản việt nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Những biện pháp quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội đều thông qua đội ngũ Đảng viên, cán bộ do Đảng rèn luyện.
Trong nghị quyết Trung ương 3 ( khóa VIII ) cũng khẳng định: Đảng phải trực tiếp chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên mọi lĩnh vực, Đảng thực hiện đường lối chính sách của cán bộ thông qua các tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, thực hiện đúng quy định, thủ tục pháp lệnh của nhà nước và điều lệ của các tổ chức xã hội .
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác cán bộ. Đoàn cơ sở là nền tảng của đoàn, đoàn cơ sở hoạt động tốt hay không là phụ thuộc phần lớn vào chất lượng cán bộ đoàn cơ sở. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ đoàn cơ sở luôn dược sự quan tâm sát sao ở từng cấp của Đoàn lại có nhiều chính sách, hình thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ đoàn cơ sở riêng. Nghị quyết Đại Hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của đoàn: Phấn đáu mỗi cán bộ đoàn đều được đào tạo, bồi dưỡng đào tạo ít nhất một lần trong mỗi một nhiệm kỳ. Tập trung đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp của đoàn đủ về số lượng, có phẩm chất và năng lực đáp ứng nhu cầu của công tác thanh niên trong điều kiện mới.
Từ những quan điểm trên , được quán triệt trong tình hình mới sẽ tạo điều kiện xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất năng lực trình độ cần thiết thực hiện thắng lợi CNH – HĐH đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh .
1.2. Cơ sở thực tiễn:
* Những đặc điểm chủ yếu về tình hình kinh tế chính trị, văn hoá xã hội trên địa bàn thị xã Lào Cai .
Thị xã Lào Cai nằm ở phía Tây bắc của tỉnh Lào Cai,
Thị xã Lào Cai là một thị xã công nghiệp, chủ yếu là sản xuất Apatit , đồng , Cao lanh…có diện tích tự nhiên là 221,5km2 km2, có di tích lịch sử đền Thượng , đền Mẫu,và nhà thờ vào thời chống pháp dược tu sửa, nâng cấp .Cửa khẩu quốc tế Lào Cai – Vân Nam (Trung Quốc) Trên địa bàn Thị Xã có 21 đơn vị kinh tế Trung Ương và của Tỉnh với nhiều nghành nghề kinh tế quan trọng như: Điện, than, Du lịch dịch vụ ... Sản xuất vật liệu xây dựng như: sản xuất đá, gạch nung , sản xuất xi măng... Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã tạo điều kiện cho một số ngành kinh tế phát triển, đặc biệt là ngành du lịch , quặng Với dân số là 83100 người sống ở toàn thị xã với 9 phường , 7 xã . Không gian Thị xã Lào Cai trong tương lai xẽ mở rộng gấp rưỡi và dân số xẽ tăng ở mức 124650 chứ không chỉ như bây giờ. Bởi chỉ vài tháng nữa Thị xã Lào Cai sẽ lên Thành Phố ( 1 Thành Phố “Ban Mai” ) với 27 dân tộc anh em ( 27 sắc xuân ) Với đặc điểm như vậy thị xã Lào Cai có lực lượng lao động dồi dào, 32% dân số thị xã nằm trong độ tuổi thanh niên ( Từ 15 - 35tuổi) thị xã ngày càng phát triển nhanh về mọi mặt , đời sống nhân dân dân ngày càng ổn định, trình độ dân trí cao. Đó chính là những yếu tố ảnh hưởng tích cực đến công tác Đoàn và phong trào Thanh Thiếu Niên. Thanh Thiếu Niên được học tập, dèn luyện, cống hiến và trưởng thành trong điều kiện thuận lợi về cơ sở, về sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương , của gia đình và của toàn xã hội giúp cho thanh niên trưởng thành hoàn thiện về nhân cách vươn tới chân, thiện, mỹ. Thông qua những hình thức hoạt động tuyên truyền giáo dục, hoạt động thực tế ... Thanh niên đã tự khẳng định và phát huy tài năng của mình trên mọi lĩnh vực. nhiều cán bộ đoàn viên thanh niên đã nắm những vai trò chủ chốt trong các đơn vị sản xuất kinh doanh...
Trong những năm qua tuổi trẻ thị xã Lào Cai dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng nhân dân đoàn kết nỗ lực phấn đấu và đạt được những kết quả quan trọng. Nhìn chung kinh tế thị xã có bước tăng trưởng rõ dệt, văn hoá xã hội có bước phát triển , an ninh quốc phòng được giữ vững, chính trị ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được nâng cao.
Bước vào thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện hại hoá cùng với những tiến bộ về nhiều mặt Thị xã Lào Cai cũng đứng trước những khó khăn thách thức mới nhất là việc giữ vững nhịp độ phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, đồng thời giải quyết các vấn đề về môi trường, tệ nạn xã hội ...đảm bảo cho sự phát triển bền vững của thị xã. Bên cạnh những lợi thế về ưu điểm thanh niên Thị xã không thuần nhất về nhiều mặt, biến động thường xuyên về mặt số lượng, một bộ phận thanh niên có lối sống thực hội dụng yếu về mặt ý thức tập thể, vi phạm pháp luật và tham gia vào các tệ nạn xã. Theo con số thống kê năm 2002 toàn thị xã có 107 người nhiễm HIV thì năm 2003 con số đó lên đến 119 người nhiễm HIVtrong đó chuyển sang AIDS là 16 người ( Số liệu thống kê tháng 12/2003) . Nguyên nhân dẫn đến số người bị nhiễm HIV là : 60% là do tiêm trích ma tuý, 25% là do hoạt động mại dâm , 15% là do sử dụng các dụng cụ y học tư nhân như kìm bấm móng tay, dụng cụ cạo dâu không được đảm bảo. Trình độ dân trí ở Thị xã rất khác nhau : Nếu như dân cư ở 9 phường hầu hết có trình độ học vấn hết cấp III có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu Khoa học kỹ thuật, kiến thức , thu nhận được nhiều thông tin họ hầu hết là công nhân viên chức và tiểu thương thì đời sống nhân dân của 7 xã , đặc biệt là 2 xã ( Hợp Thành, Tả Phời ) còn nhiều khó khăn , nhân dân sống chủ yếu là nông nghiệp trình độ học vấn thấp, họ ít có điều kiện học tập vì phải làm kinh tế. Mặc dù là 2 xã đầu tiên của cả nước rút khỏi chương trình 135.
Qua thực tế trên cho ta thấy sự phát triển nâng cao dân trí ở các phường xã là không đồng đều. Đây là một trong những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến trình độ, kỹ năng nghiệp vụ công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Chương II
Thực trạng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở ở thị xã Lào Cai
2.1. Tình hình chung của địa bàn thị xã Lào Cai
Thị xã Lào cai có 69 cơ sở Đoàn trực thuộc, trong đó 16 đơn vị xã, phường 53 đơn vị lực lượng vũ trang Đoàn cơ quan hành chính sự nghiệp , sản xuất kinh doanh và đoàn trường học với 2485 thanh niên tham gia và 4598 Đoàn viên, tham gia sinh hoạt ở 399 chi đoàn. Hàng năm toàn thị xã kết nạp từ 1200 đến 1600 đoàn viên mới trong đó khoảng 900 đội viên lên đoàn. Song song với số lượng đoàn viên tăng thì số đoàn viên giảm cũng đáng kể, chỉ tính trong năm 2003 toàn thị xã giảm 1123 đoàn viên, trong đó đoàn viên trưởng thành là 178 đoàn viên, đoàn viên bị xoá tên là 87 và kỷ luật 8 đoàn viên, còn lại là chuyển đi học các trường ngoài địa bàn Thị xã. Trong công tác chỉ đạo của thị đoàn với 7 cán bộ trên cơ quan thường trực. Bằng sự năng động sáng tạo của những cán bộ BTV thị đoàn đã phân các cơ sở đoàn trong toàn thị xã thành 4 cụm hoạt động lớn và 8 cụm hoạt động nhỏ dưới sự chỉ đạo thống nhất của 29 đồng chí uỷ viên BCH thị đoàn. Trong đó có 36 bí thư và phó bí thư các đoàn cơ sở và chi đoàn trực thuộc đó là một đội ngũ giúp cho BCH thị đoàn duy trì có hiệu quả hoạt động của đoàn thanh niên thị xã là 185 cán bộ đoàn cơ sở và chi doàn trực thuộc cùng với 318 đ/c cán bộ chi đoàn nhỏ khác. Đội ngũ cán bộ này đều là những đoàn viên ưu tú hoặc Đảng viên trẻ, có phẩm chất chính trị vững vàng, kiên định lập trường tư tưởng, có năng lực nhiệt tình trong công tác. Trong số 69 cơ sở đoàn hiện nay có 16 cơ sở đoàn là có bí thư Đoàn chuyên trách chiếm 23,19%, còn lại là bán chuyên trách.
Do đặc thù hoạt động của các khối là khác nhau để nhìn nhận về rõ hơn về cán bộ đoàn ta có thể chia ra theo khối hoạt động như sau:
Thứ nhất: Khối phường, xã có 16 đ/c bí thư đoàn là cán bộ chuyên trách, có 02 đ/c là nữ chiếm 12,5%,độ tuổi trung bình là 26 tuổi. Cao tuổi nhất là 35 tuổi, có 4/16 đ/c bí thư đoàn phường, xã phải kiêm nhiệm thêm công tác khác chiếm 25%. Tiêu biểu như đ/c :Vũ Tuyết Nhung ,Hoàng Văn Tuân .
Trong tổng số 162 Uỷ viên BCH đoàn phường xã trên tổng số 1553 đoàn viên, có 57 đ/c là nữ, chiếm 35,2% hầu hết cán bộ đoàn cơ sở đều có trình độ tốt nghiệp THPT chiếm 96,7% còn lại 3,3% là tốt nghiệp PTCS hoặc đang theo học các lớp bổ túc văn hoá, 27 đ/c có trình độ đại học, cao đẳng hoặc đang theo học các lớp tại chức, 8 đ/c có trình độ trung cấp lý luận chính trị, những con số trên đây cho ta thấy đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở khối phường, xã còn rất hạn chế về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ. Mặc dù mấy năm gần đây Đảng bộ chính quyền thị xã rất quan tâm trong việc đào tạo chuyên môn trang bị kiến thức cho cán bộ đoàn phường, xã. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến công tác đoàn kết tập hợp thanh niên.
Qua thăm dò trưng cầu ý kiến của 500 đoàn viên thanh niên về kỹ năng thiết kế, tổ chức thực hiện và giao tiếp ứng xử của cán bộ đoàn cơ sở thì có 62% ý kiến cho rằng cán bộ đoàn cơ sở có khả năng thiết kế tốt. 59,6% ý kiến cho rằng cán bộ đoàn cơ sở có kỹ năng tổ chức thực hiện tốt. 75% ý kiến cho rằng cán bộ đoàn cơ sở có khả năng giao tiếp ứng xử. 43% khá và 32% là trung bình.
Thứ hai: Đối với đoàn trường học thì đội ngũ cán bộ đoàn rất đồng đều về trình độ chuyên môn, học vấn. Đoàn viên thanh niên trường học thuần nhất cả về số lượng và chất lượng nên hoạt động của đội ngũ cán bộ đoàn ở đây đơn giản, nhẹ nhàng hơn so với đội ngũ cán bộ đoàn phường, xã với 73 cán bộ đoàn cơ sở trên 3120 đoàn viên trường học thuộc 6 trường. Đội ngũ cán bộ đoàn trường học có kỹ năng nghiệp vụ công tác đoàn, có óc tổ chức phán đoán đánh giá tổng hợp, nhạy bén, năng động. Song do công tác đoàn chỉ là kiêm nhiệm cán bộ đoàn trường còn phải đầu tư cho công tác chuyên môn vì vậy ít có điều kiện đầu tư cho hoạt động đoàn.
Thứ ba: Đối với đoàn cơ quan hành chính sự nghiệp, công nghiệp và khối lực lượng vũ trang trong số 47 cơ sở đoàn này có 47 cán bộ đoàn. Đội ngũ này phân bổ không đồng đều thuộc vào số lượng đoàn viên và phạm vi hoạt động của mỗi cơ sở cán bộ đoàn của 2 khối này hầu hết là có trình độ học vấn chuyên môn cao là cán bộ đoàn bán chuyên trách không có đ/c nào chuyên trách, cán bộ đoàn khối cơ quan hầu hết là giữ vị trí trọng trách trong công tác chuyên môn của đơn vị . Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để cán bộ đoàn cơ sở tham mưu, đề xuất ý kiến với cấp uỷ chuyên môn đơn vị trong các hoạt động công tác đoàn và cũng dễ dàng tự tin hơn khi đứng trước đoàn viên thanh niên, những người có trình độ học vấn chuyên môn rất cao.
Phân tích tình hình cán bộ đoàn cơ sở các khối chúng ta thấy nổi cộm lên một vấn đề trong cơ sở đoàn là: Hầu hết cán bộ đoàn cơ sở đều là bán chuyên trách độ tuổi bình quân là 31 tuổi, cao nhất là 36, thấp nhất là 25 trong đó nữ cán bộ đoàn chiếm 38,5% cán bộ đoàn cơ sở có trình độ chuyên môn không đồng đều là 96,7% trình độ PTTH 3,3%, trình độ PTCS. 20% cán bộ đoàn cơ sở có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp, kỹ năng nghiệp vụ công tác của cán bộ đoàn cơ sở còn hạn chế, 9 đ/c có trình độ trung cấp thanh niên chiếm 7,4%, 15 đ/c có trình độ sơ cấp chiếm 12,3% còn lại 98 đ/c chiếm 80,3% cán bộ đoàn hoạt động theo năng lực và kinh nghiệm công tác của bản thân hoặc thông qua các lớp tập huấn ngắn ngày.
Để trở thành một cán bộ đoàn giỏi thì người cán bộ phải hội tụ đầy đủ tiêu chuẩn của một cán bộ đoàn và phải có kỹ năng nghiệp vụ công tác đoàn nhưng cán bộ đoàn cơ sở thị xã Lào cai hoặc là có kỹ năng mà lại yếu về nghiệp vụ hoặc có nghiệp vụ mà lại chưa có kỹ năng thành thạo.
Những năm qua ban thường vụ thị đoàn Lào cai rất quan tâm đến công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ đoàn cơ sở hàng năm mở từ 2 - 5 lớp ở thị xã và cơ sở. Nhưng mỗi lớp tập huấn với thời gian ngắn ngày mà nội dung tập huấn
chỉ thiên về hướng dẫn kỹ năng, thiết kế tổ chức hoạt động mà quên đi bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ lý luận trính trị, nghiệp vụ công tác, tổ chức đoàn. Vậy nguyên nhân do đâu ? Trong hệ thống tổ chức đoàn cán bộ ở cấp cơ sở thường biến động nhanh hơn và các cơ sở đoàn của thị xã Lào cai cũng không nằm ngoài quy luật đó. Hàng năm BCH thị đoàn đã bổ xung một số lượng uỷ viên BCH đoàn cơ sở chỉ tính riêng năm 2003 đã bổ sung 13 đ/c bí thư, phó bí thư đoàn cơ sở, 34 uỷ viên BCH các cơ sở từ năm 2002 đến nay Ban thường vụ thị đoàn đã bổ sung tới 215 đ/c uỷ viên BCH đoàn cơ sở. Chính việc này đã tạo ra một lỗ hổng lớn trong hoạt động của các cơ sở gây khó khăn và ảnh hưởng không nhỏ tới tổ chức đoàn và phong trào thanh thiếu niên, nhiều đơn vị do thiếu sự chuẩn bị nên thường bị động trước sự thay đổi cuả một vài cán bộ chủ chốt đã làm cho phong trào từ chỗ vững mạnh đã dẫn đến khá và có thể bị sút kém.
Vì vậy nhu cầu đào tạo ở cơ sở càng cấp thiết dẫn đến kiểu đào tạo "ăn xổi" mang tính thời vụ. Đặc biệt đối với cán bộ đoàn khối cơ quan hành chính sự nghiệp, sản xuất kinh doanh.
Qua thăm dò ý kiến của 92 cán bộ đoàn cơ sở và 480 đoàn viên về tốc độ chu chuyển của cán bộ đoàn cơ sở được biết:
Đánh giá về tốc độ chu chuyển
Cán bộ đoàn cơ sở
Đoàn viên
Tổng cộng
Xếp loại
S.lượng
%
S.lượng
%
S.lượng
%
Nhanh
40
43,5
317
66,1
357
62,1
1
Vừa
25
27,2
97
20,2
122
21,3
2
Chậm
27
29,4
66
13,8
93
16,3
3
Từ kết quả trên cho thấy cán bộ Đoàn viên có cách nhìn nhận một cách chính xác về tốc độ chu chuyển của cán bộ đoàn cơ sở và nhận thấy rằng với tốc độ
này sẽ gây ảnh hưởng cho hoạt động công tác đoàn và phong trào thanh thiếu niên ở cơ sở cũng như ở thị xã.
Công cuộc đổi mới đất nước đã thu lại được những kết quả đáng kể, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân và điều kiện sống của cán bộ đoàn cơ sở cũng không nằm ngoài sự phát triển chung đó. Song sự khá lên đó chỉ có thể so với chính bản thân người cán bộ đoàn mà thôi. Chứ không thể so với mặt bằng chung của xã hội ngoài 500.000đ/tháng thì bí thư đoàn phường, xã không còn khoản thu nào khác. Còn bí thư chi đoàn không có một chế độ trợ cấp ưu tiên gì. Đối với cán bộ đoàn cơ sở bán chuyên trách ở các đơn vị hành chính sự nghiệp - sản xuất kinh doanh nếu cơ quan đó có điều kiện và được sự quan tâm của cấp uỷ Đảng chuyên môn thì bí thư đoàn cơ sở được hưởng lương theo chức năng chuyên môn, ngoài ra còn được phụ cấp từ 200.000 đến 300.000đ/tháng. Từ thực tế đó ban thường vụ thị đoàn Lào cai đã chủ động tham mưu với lãnh đạo thị uỷ chỉ đạo các cấp uỷ cơ sở về các hoạt động của đoàn thanh niên, về việc tăng cường công tác kiện toàn nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đoàn và đoàn viên, tập chung bồi dưỡng lực lượng cán bộ trẻ bổ sung cho Đảng ở các khâu:
Một là: nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở bằng nhiều phương pháp khác nhau.
Hai là: Cần có những chế độ chính sách cho phù hợp đối với cán bộ theo điều kiện thực tế hiện nay.
Thực hiện được những vấn đề trên sẽ giúp cho cán bộ đoàn cơ sở nhất là khối phường, xã yên tâm công tác mà đầu tư vào hoạt động thanh niên không phải lo lắng "chạy ăn từng bữa".
Hoạt động công tác đoàn và phong trào thanh thiếu niên cũng gắn với các hoạt động khác như: Văn hoá văn nghệ , thể dục thể thao, du lịch, giao tiếp, chăm lo cuộc sống gia đình. Cán bộ đoàn cũng là thanh niên nên họ rất nghiêm túc trong công việc và rất thoải mái trẻ trung, sôi nổi. Điều đặc biệt hơn cả ở cán bộ đoàn là đi làm như đi chơi nhưng khi đi chơi lại là đi làm. Có những cán bộ đoàn sau khi đã chuyển sang công tác khác phải thốt lên rằng: "Rời xa với công tác đoàn mình cảm thấy già đi nhanh chóng".
Cán bộ đoàn là người luôn năng động sáng tạo trong công việc, khéo léo trong việc vun đắp cuộc sống gia đình, dám nghĩ, dám làm, lập thân, lập nghiệp là đặc tính của họ.
2.1.2. Nhu cầu, nguyện vọng và hướng phát triển của cán bộ Đoàn cơ sở ở thị xã Lào Cai.
Nhu cầu
Cán bộ đoàn Phường xã
Cán bộ đoàn cơ quan HCSN-SXVD (%)
Cán bộ đoàn trườnghọc (%)
Tổng cộng (%)
Xếp loại
Tiếp tục hoạt động CT - XH
61%
37%
41%
46%
1
Chuyển sang chuyên môn kỹ thuật
34%
53%
40%
42,3%
2
ổn định cuộc sống gia đình
4%
10%
19%
11%
3
Băn khoăn lo lắng cho tương lai
1%
0
0
1%
4
Chỉ cần nhìn vào bảng ta cũng thấy được nhu cầu nguyện vọng của cán bộ Đoàn cơ sở là rất khác nhau nhưng họ đều có chung một cá tính đó là “tham vọng” họ mong muốn được cống hiến, được rèn luyện và trưởng thành. Họ muốn trong phong trào, lặn lội với phong trào để được tôi luyện, họ cho rằng ổn định cuộc sống gia đình là quan trọng nhưng chưa cần thiết (hầu hết cán bộ đoàn cơ sở ở thị xã lập gia đình ở tuổi 27 trở lên) họ lo lắng cho tương lai ư ? Điều đó có lẽ là không vì họ là những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, họ luôn tin tưởng và đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ vĩ đại đã lựa chọn. Họ luôn hào hứng và sẵn sàng ủng hộ cái mới vì họ có trình độ hiểu biết, có trình độ chuyên môn ngoại ngữ, tin học và năng lực hoạt động thực tiễn ngày càng cao.
Chính vì nhu cầu nguyện vọng được tiếp tục hoạt động chính trị xã hội lên cán bộ Đoàn cơ sở luôn rèn luyện phấn đấu trau dồi đạo đức cách mạng, nhiệt tình cống hiến và trí lực cho Đoàn cho Đảng và sự nghiệp cách mạng.
Trong tổng số 399 Cán bộ Đoàn cơ sở (từ chi đoàn trở lên) có đến 203 đồng chí được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đây là một lực lượng kế cận hùng hậu cung cấp cán bộ cho Đảng, cho chính quyền và các ban ngành.
2.1.3. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn cơ sở ở Thị xã Lào Cai:
a/ Toàn Thị xã có 109 đầu mối cơ sở Đoàn - Đội trực thuộc. Trong đó có 69 cơ sở Đoàn với lực lượng uỷ viên là 295 đồng chí, số chi đoàn là 399 đơn vị với 399 bí thư chi đoàn. Như vậy chỉ tính riêng việc bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ Đoàn là uỷ viên BCH các cơ sở Đoàn và bí thư chi đoàn đã lên đến là 694 đồng chí trong đó có những đồng chí tham gia hai hoặc ba lần do là uỷ viên BCH hai hoặc ba cấp.
Những số liệu trên đây đã đủ khẳng định về nhu cầu đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Đoàn cơ sở hiện nay ở Thị xã Lào cai đã vượt qua khả năng của cơ quan thường trực Thị Đoàn. Nhu cầu đào tạo đó bị tác động bởi hai yếu tố: khách quan và chủ quan.
* Yếu tố khách quan: chất lượng công tác Đoàn phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng cán bộ Đoàn, cán bộ là nòng cốt của phong trào, cán bộ nào thì phong trào ấy. Vấn đề đặt ra là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá công tác Đoàn và phopng trào TTN đòi hỏi đội ngũ cán bộ Đoàn phải được đổi mới và naang cao đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị.
Một thế kỷ mới đến với khoa học công nghệ hiện đại và thông tin cần phải có người có đủ trình độ để tiếp cận và đội ngũ thanh niên đã, đang và sẽ
kịp thời đáp ứng đòi hỏi ấy. Cùng với đó là nhu cầu của thanh niên ngày càng cao vậy thì phải làm gì để đáp ứng được đòi hỏi ấy. Để đạt được không còn cách nào khác là người cán bộ đoàn phải có trình độ kỹ năng nghiệp vụ công tác để thu hút tập hợp thanh niên
Cán bộ Đoàn thanh niên là một bộ phận cán bộ của Đảng, Công tác cán bộ của Đoàn nhất thiết phảo theo đúng quan điểm đưởng lối và tiêu chuẩn cán bộ Đảng, Song đội ngũ cán bộ của Đoàn có những đặc điểm riêng do yêu cầu của công tác vận động thanh niên trong tình hình mới nên phải biết vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng một cách cụ thể sáng tạo. Muốn vận dụng đúng đắn, có hiệu quả, mỗi cán bộ Đoàn phải thường xuyên rèn luyện, trau dối phảm chất đạo đức và tư cách của người cán bộ Đoàn, phải biết biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Yếu tố chủ quan: Được sự quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, có thể nói đội ngũ cán bộ Đoàn của chúng ta hiện nay có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu XHCN mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Những cán bộ Đoàn đã rèn luyện, tu dưỡng và trưởng thành giữ những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và chính quyền ở các cấp.
Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, công tác Đoàn còn nhiều hạn chế và yếu kém nguyên nhân là do chất lượng cán bộ Đoàn còn thấp (chủ yếu là chi đoàn). Những tiếng " chi" khẳng khái chính là sự đòi hỏi người cán bộ Đoàn phải ngang tầm với nhiệm vụ chính trị, phải thực sự là thủ lĩnh tin cậy của thanh niên.
Cán bộ Đoàn cơ sở chu chuyển nhanh. Nếu không chủ động, tích cực trong việc bồi dưỡng đào toạ cán bộ thì sẽ dẫn đến khó khăn, ảnh hưởng đến tổ chức Đoàn và phòng trào thanh niên, bản thân cán bộ mới cũng bỡ ngỡ trong công việc.
Một bộ phận Cán bộ Đoàn không yên tâm công tác, giảm sút lòng nhiệt tình, buồn chán không muốn làm cán bộ Đoàn (cấp chi đoàn) vì không có phương pháp thu hút, tập hợp đoàn viên thanh niên.
Khi được hỏi các đồng chí uỷ viên BCH: Phường Thống Nhất và Phường Lào Cai Thị xã Lào cai các đồng chí đều trả lời rằng: “Cần tổ chức nhiều đợt tập huấn hơn nữa cho đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở, chúng tôi mong muốn được học tập …”
b/ Có thể nói, nhu cầu đào tạo bồi dưỡng của Cán bộ Đoàn cơ sở ở Thị xã Lào Cai là rất lớn. Trong những năm qua BTV Thị Đoàn cũng có rất nhiều cố gắng trong công tác đào tạo bồi dưỡng nhằm trang bị cho Cán bộ Đoàn cơ sở một số kiến thức nhất định về kỹ năng nghiệp vụ công tác Đoàn và phong trào thanh niên, thông qua các hình thức như: Cử đi học tập trung, gửi đi tập huấn, thi cán bộ đoàn giỏi, tập huấn chuyên đề ngắn ngày, cung cấp tài liệu …
Trong 3 năm qua BTV Thị đoàn đã tiến hành tập huấn cho 800 cán bộ Đoàn chủ chốt ở các đơn vị cơ sở. Có các loại hình thức đào tạo như: mở lớp tập huấn ngắn ngày là phổ biến hơn cả. Năm 2002 thị Đoàn đã mở 2 lớp cấp thị và 3 lớp cấp cơ sở cho 400 ĐVTN, năm 2003 đã mở 3 lớp cấp thị xã và 3 lớp ở cơ sở cho 500 cán bộ, năm 2002 tổ chức 7 lớp tập huấn cho trên 500 đồng chí cán bộ Đoàn, 100 anh chị tổng phụ trách đội, 305 cán bộ các chi đôị trên địa bàn dân cư.
Ưu điểm của hình thức này là trong một thời gian nhất định có thể tập huấn cho một số động các tập Đoàn cơ sở, ít tốn kém vốn kinh phí, phương tiện đi lại.
Nhược điểm: Hình thức này đào tạo đại trà cho các cán bộ Đoàn cơ sở có trình độ và chuyên môn kỹ thuật khác nhau nên hiệu quả đào tạo không đồng nhất. Chỉ đào tạo theo “ mùa vụ” mà cao điểm là dịp hè, nội dung truyền tải được ít.
Hình thức cử cán bộ Đoàn cơ sở tham ra các lớp tập huấn do trung ương, tỉnh tổ chức. Đây là hình thức đào tạo tập trung.
Đào tạo thông qua trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã.
Tổ chức hội thi cán bộ Đoàn giỏi là hình thức mang lại hiệu quả cao nhất, số lượng cán bộ Đoàn các cấp tham gia đông nhất từ cấp chi Đoàn đến Đoàn cơ sở, đến cấp cụm, cấp thị xã.Song hình thức này ít được tổ chức vì rất tốn kém. Tổng 3 năm ( từ 2002 đến tháng 6 - 2004) BTV Thị Đoàn mới tổ chức 2 hội thi cán bộ Đoàn giỏi các cấp. Chỉ đạo các đơn vị tổ chức thi các cấp cơ sở với trên 200 thí sinh, chung kết cấp thị xã chọn 8 thí sinh tham gia thi cấp tỉnh.
Cung cấp tài liệu cho đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở là hình thức biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Hình thức này đòi hỏi ở người cán bộ Đoàn phải thực sự đầu tư nghiên cứu tìm hiểu những cách thức tổ chức mới, chịu khó sưu tầm nghiên cứu tài liệu để tìm ra cho mình những
Phương thức tổ chức hoạt động có hiệu quả. Song hiện nay việc cung cấp tài liệu gặp nhiều khó khăn mà kinh phí của Đoàn cơ sở còn rất hạn chế.
c/ Có rất nhiều phương thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ Đoàn cơ sở. Tuỳ vào điều kiện của từng nơi, tuỳ vào nội dung chương trình đào tạo mà lựa chọn phương thức đào tạo cho phù hợp.
Nội dung, chương trình đào tạo cán bộ Đoàn cơ sở phụ thuộc vào 3 yếu tố:
Trước hết là qua thực tế hoạt động, xem cac cơ sở hoạt động nội dung, hoạt động nào còn khó khăn vướng mắc thì giúp cho cơ sở hiểu sâu hơn về vấn đề qua tập huấn.
Thứ 2: Xem nhu cầu đào tạo của các cán bộ Đoàn cơ sở, cần được đào tạo những nội dung chương trình nào.
Thứ 3: Căn cứ vào tình hình nhiệm vụ chính trị của địa phương mà xây dựng chương trình đào tạo.
Thời gian qua Đoàn thanh niên thị xã đã tiến hành đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở rất nhiều những nội dung khác nhau nhằm trang bị thêm vốn hoạt động của mỗi mỗi cán bộ cơ sở như: Nguyên tắc hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, công tác quản lý Đoàn viên, đại hội Đoàn cơ sở, công tác hoạt động Đoàn cơ sở, công tác chăm sóc giáo dục thiếu niên nhi đồng trong dịp hè trên địa bàn dân cư.
- Ngoài ra BTV thị Đoàn còn phối hợp trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã mở các lớp học tập nghị quyết của Đảng, học 5 bài lý luận chính trị cho ĐVTN…
Ban thường vụ thị Đoàn thường xuyên tham mưu xin ý kiến chỉ đạo của thường trực thị uỷ Lào cai mời các giảng viên của trung tâm chính trị thị xã, BTV Tỉnh Đoàn Quảng Ninh, Trường chính trị Tỉnh….về giảng dạy cho các lớp tập huấn ở thị xã cũng như ở cơ sở.
d / Một trong những khó khăn trong công tác Đoàn và bồi dưỡng cán bộ Đoàn cơ sở đó là kinh phí cho việc tổ chức đào tạo. Cơ chế chính sách đào tạo cán bộ Đoàn thời gian qua đã được sự quan tâm tạo điều kiện của các cấp uỷ, chính quyền, công tác đào tạo bồi dưỡng sử dụng cán bộ Đoàn được đầu tư nhiều hơn. Việc đào tạo cán bộ Đoàn chủ chốt ở các cơ sở, cùng với việc giải quyết chế độ chính sách cho cán bộ Đoàn đã được BTV thị Đoàn quan tâm đầu tư giải quyết. Chỉ tính riêng năm 2003 BTV thị Đoàn phối hợp với Đảng uỷ các phường, xã cử chọn 5 đồng chí bí thư, phó bí thư Đoàn cơ sở theo học các lớp ĐH tại chức tại các trường dạy nghề nằm trên địa bàn Thị xã…tuy nhiên còn có một số vấn đề cần đề cập:
Chính sách cán bộ, chính sách tiền lương, điều kiện làm việc của các cán bộ Đoàn chưa thoả đáng.
Ngân sách hoạt động của Đoàn cơ sở hiện nay( Đoàn phường xã) còn hạn chế,việc thực hiện theo Luật ngân sách phân bố kinh phí hoạt động cho Đoàn cơ sở, còn phường xã nào được chính quyền quan tâm thì phường xã đó kinh phí hoạt động.
- Điều kiện cơ sở vật chất hiện nay cho phòng làm việc của Đoàn thanh niên còn rất nhiều khó khăn. Phương tiện làm việc hoàn toàn tự túc nên nhiều đồng chí cán bộ Đoàn cơ sở ( khối phường xã) không có phương tiện riêng nên thường rất tốn kém về đi lại, trong khi mức trợ cấp cho cán bộ Đoàn còn rất thấp.
e/ Bên cạnh sự non yếu về lý luận chung, về nghiệp vụ công tác Đoàn, về trình độ, kinh nghiệm thực tiễn, chính sách sử dụng phát huy đãi ngộ đối với nhiệt tâm của đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở còn phải chịu một “sức ép” quá lớn, đó là sự chu chuyển quá nhanh. Thực ra đây là chức năng của tổ chức Đoàn trong việc bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng và nhà nước. Song tốc độ chu chuyển đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác Đoàn tạo và bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở cũng như hoạt động của Đoàn thanh niên thể hiện ở góc độ :
Một là: Tốc độ chu chuyển quá nhanh của cán bộ Đoàn cơ sở dẫn tới tình trạng hụt hẫng, bất cập trong sự chuyển tiếp nếu không có sự chủ động chuẩn bị. Cán bộ có kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, kỹ năng nghiệp vụ chưa có nên cần phải tiến hành bồi dưỡng, tâp huấn..
Hai là: Một số cơ sở ở thị xã Lào cai tốc độ chu chuyển lại quá chậm do chưa tìm được người khác thay thế, do chưa sắp xếp được công việc khác dẫn đến cán bộ Đoàn quá lớn tuổi làm ảnh hưởng quá lớn trong hoạt động.
2.2. Nguyên nhân của những mặt mạnh và yếu kém trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn cơ sở ở Thị xã Lào cai .
* Hoạt động công tác Đoàn và phong trào ở Thị xã Lào Cai trong những năm qua luôn bám sát vào sự chỉ đạo của thị uỷ, BTV Tỉnh Đoàn LC đã thu đươc nhiều kết quả đáng kể, mà tập chung chủ yếu là:
Ba năm liền là đơn vị dẫn đầu công tác Đoàn và phong trào TTN Tỉnh LC . Giành được thắng lợi đó là sự đóng góp phần không nhỏ của các cơ sở Đoàn mà đặc biệt là đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở.
Đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở thị xã Lào Cai là một lực lượng đông đảo, nhiệt tình, có năng lực thương xuyên được đào tạo nhằm không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực công tác xây dựng Đoàn thanh niên từ thị xã đến các cơ sở vững mạnh về tổ chức, tập trung tạo bức chuyển căn bản trong công tác cán bộ, công tác Đoàn viên, trong chất lượng hoạt động của chi Đoàn, của Đoàn cơ sở.
Tham gia tích cực cùng Đảng bộ thị xã giải quyết các vấn đề công tác quy hoạch và sử dụng cán bộ Đoàn cơ sở.
* Nguyên nhân
Đạt được kết quả trên, BTV thị Đoàn Lào Cai đã chủ động tham mưu cho thị uỷ chỉ đạo 100% các Đảng bộ có nghị quyết chuyên đề về công tác thanh niên, quan tâm đến quyền lợi vật chất, tinh thần chính sách với cán bộ Đoàn cơ sở.
- Thường xuyên kiểm tra việc kiện toàn công tác tổ chức ở các cơ sở, giúp cho BTV thị Đoàn nắm được những nhu cầu về công tác Đoàn viên, bồi dưỡng cho cán bộ Đoàn cơ sở và kịp thời thống nhất với các cấp uỷ cơ sở giải quyết các vấn đề về công tác cán bộ.
Trong công tác lựa chọn, sử dụng cán bộ, cụ thể hoá các tiêu chuẩn của người cán bộ Đoàn sao cho phù hợp với các đặc thù của đơn vị cũng được BTV thị Đoàn chỉ đạo các cơ sở nghiêm túc thực hiện.
a/ Song bên cạnh đó, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở của Đoàn thanh niên thị xã không phải không có những hạn chế:
Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở tiến hành chưa được thường xuyên và chưa đều.
Còn một số cán bộ kém nhiệt tình không chịu trau dồi kiến thức về kỹ năng nghiệp vụ công tác cho bản thân.
Phương pháp đào tạo chưa thực sự phù hợp cho từng đối tượng cụ thể nên hiệu quả đào tạo chưa cao.
Chưa đáp ứng được triệt để nhu cầu của cán bộ cơ sở.
Nội dung chương trình đào tạo ở cơ sở đôi khi cũng chồng chéo, những vấn đề cần được bồi dưỡng thêm cho cán bộ Đoàn cơ sở thì lại chưa làm mà lại làm những vấn đề chưa cần.
Hiệu quả của một số đợt tập huấn ở cơ sở chưa cao.
Nguyên nhân
Cơ sở vật chất, kinh phí cho đào tạo quá lớn, không đáp ứng nổi nhu cầu của cán bộ Đoàn cơ sở mà trong khi đó các đội tập huấn chỉ thực hiện được ngắn ngày.
Sự biến động cán bộ Đoàn cơ sở nhanh, công tác đoà tạo không đáp ứng được cho cơ sở.
Chế độ đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở, chính sách đào tạo sử dụng cán bộ chưa thoả đáng.
Chương III
Những giải pháp và kiến nghị
3.1. Giải pháp:
1./ Mở các lớp huấn luyện, bồi dưỡng kĩ năng nghiệp vụ công tác Đoàn.Đổi mới phương pháp đào tạo bồi dưỡng, cán bộ Đoàn có nhiều loại khác nhau(cán bộ phong trào, cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ) riêng cán bộ Đoàn cơ sở có những đặc thù khác nhau( phường xã, doanh nghiệp, trường học…) việc lựa chọn phương thức đào tạo khác nhau do đó cần được nghiên cứu và có và cách làm khoa học.
2./ Đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn thông qua các hình thức tập huấn cần tăng cường đào tạo tập huấn cho cán bộ Đoàn cơ sở bằng nhiều phương thức nhỏ như: Đào tạo tập trung, tại chức, tập huấn nghiệp vụ, tự học, tự đào tạo bồi dưỡng, mà cụ thể là tập huấn theo định kỳ tháng, quý ,hình thành câu lạc bộ cán bộ Đoàn, tổ chức hội thi cán bộ Đoàn giỏi các cấp.
3./ Đào tạo thông qua thực tế giao nhiệm vụ cho cán bộ đoàn, tăng cường đi cơ sở.Đào tạo thông qua thực tiễn sẽ giúp cho cán bộ Đoàn nhanh chóng trưởng thành, thành thạo trong công việc. Cán bộ Đoàn ngồi bàn giấy nhiều xa thực tế thì dù có được học tập tri thức lý luận tinh thông dần dần cũng sẽ bị thực tiễn cuộc sống loại bỏ.
4./ Trao đổi kinh nghiệm với đồng chí đồng nghiệp thông qua trao đổi với đồng chí đồng nghiệp sẽ làm cho cán bộ Đoàn cơ sở học tập được những kinh nghiệm quý báu trong việc đoàn kết tập hợp thanh niên, tổ chức các hoạt động theo mô hình…. Họ sẽ vững vàng tự tin hơn vào chính mình
3.2. Kiến nghị :
Khi đề cập đến đào tạo, huấn luyện cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, đào tạo huấn luyện cán bộ là việc có tầm quan trọng đặc biệt vì “ cán bộ là cái gốc của mọi công việc… ”có vốn mới làm ra lãi, nếu cán bộ tốt thì thành công tức có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc tức là lỗ vốn. Huấn luyện đào tạo chính là làm cho “vốn” có giá trị và là nguồn vốn không bao giờ cạn cho tổ chức Đoàn, nhằm tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác đào tạo bồi dưỡng tôi xin có một số kiến nghị như sau:
3.2.1. Đối với các cấp uỷ Đảng:
- Để tăng cường hơn nữa mối quan hệ Đảng, Đoàn và sự quan tâm lãnh đạo của Đảng đối với công tác Đoàn thì trước hết Đảng uỷ cần làm tốt công tác chỉnh đốn và đổi mới để có tác động tốt đến Đảng viên.
- Đảng phải tin vào thanh niên, mạnh dạn giao việc cho thanh niên tham gia vào các cấp uỷ Đảng.
- Có những chỉ đạo kịp thời về công tác cán bộ Đoàn cơ sở để tránh hụt hẫng trong công tác Đoàn.
- Tăng cường sự chỉ đạo phối hợp giữa Đoàn thanh niên và trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã để nâng cao nghiệp vụ lý luận chính trị cho các cán bộ Đoàn cơ sở.
3.2.2. Đối với chính quyền:
- Cần có chính sách đầu tư hơn nữa cho sự nghiệp đào tạo bồi dưỡng sử dụng cán bộ Đoàn.
Tạo nguồn kinh phí cho Đoàn hoạt động, tăng cường ngân sách hàng năm của các Đoàn phường xã.
Có chính sách phụ cấp hợp lý với cán bộ Đoàn cụ thể là cần nâng phụ cấp cho các phó bí thư Đoàn phường xã,có phụ cấp cho bí thư chi Đoàn khu, thôn được hưởng trợ cấp như các đồng chí bí thư chi bộ, xóm, tổ trưởng tổ dân phố.
3.2.3. Đối với tỉnh Đoàn:
- Cần cung cấp tài liệu, đề cương bài giảng cần thiết cho các địa phương để làm cơ sở cho công tác bồi dưỡng tập huấn cho cán bộ Đoàn cơ sở.
- Trên cơ sở chức danh tiêu chuẩn chung cần nghiên cứu cụ thể hoá phù hợp với điều kiện của tỉnh, từng địa phương từ đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ngay từ đầu, đúng mục đích, tránh trường hợp đào tạo về lại không sử dụng .
- Nghiên cứu chế độ trợ cấp, hỗ trợ đối với cán bộ đi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng trong đó cần đi sâu kiểm điểm những cái đã làm đựơc và những cái chưa làm được tìm ra nguyên nhân từ đó mà xây dựng phương hướng đào tạo, bồi dưỡng cho những năm tiếp theo, phải có chính sách hỗ trợ cho cán bộ có hoàn cảnh khó khăn.
Kết luận chung
Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ. Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quết định đến việc thành công hay thất bại của cách mạng, ngày nay khi toàn Đảng toàn dân toàn quân
đang ra sức thi đua thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi sướng và lãnh đạo.
Trước sự lãnh đạo của Đảng nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Những năm qua đã khẳng định sự phát triển đi nên của nền kinh tế, đời sống của nhân dân được nâng cao, bên cạnh những mặt tích cực đó những mặt tiêu cực mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động không nhỏ đến mọi mặt đời sống xã hội.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà nghị quyết Đại hội lần VIII của Đảng đề ra là: “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh". Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với cơ cấu kinh tế hợp lý đẩy mạnh nền sản xất hàng hóa, trước những yêu cầu và nhiệm vụ mới, đáp ứng cơ chế mới.
Thực hiện đổi mới công tác tổ chức cán bộ được đề ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và đặc biệt là Đại hội lần VIII đến nay đội ngũ cán bộ đã có bước trưởng thành lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng trong đó có đội ngũ cán bộ Đoàn.
Từ đặc thù của thị xã Lào Cai , tình hình kinh tế- xã hội đang phát triển điều đó có ảnh hưởng tốt tới công tác cán bộ thị xã, để tạo dựng cho đội ngũ cán bộ có đủ sức gánh vác nhiệm vụ mà Đảng bộ và nhân dân trong thị xã giao phó, không ngừng nâng cao đời sông vật chất tinh thần cho nhân dân, chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, nâng cao trình độ dân trí, làm tốt công tác tạo nguồn, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng thực hiện chế độ chính sách đãi ngộ một cách hợp lý. Song công tác cán bộ nói chung và việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn nói riêng, là một công tác lớn của Đảng, mang tính chiến lược, lâu dài, là trách nhiệm của toàn Đảng, của hệ thống chính trị và của toàn dân. Điều đó đòi hỏi mỗi chúng ta phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ về công tác này, sử dụng cán bộ, đánh giá cán bộ phải căn cứ vào các tiêu chẩn và kết hợp vơi công việc được giao nhưng phải có công tác đánh giá đảm bảo thực hiện dân chủ, khách quan với mỗi quy trình chặt chẽ. Tuyển chọn phải được nhiều, chọn đúng cán bộ có đủ đức, đủ tài để xây dựng đất nước và xây dựng Đoàn thanh niên. Song bố trí sử dụng phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn và sở trường dựa trên kết quả đánh giá, tuyển chọn bố trí, đúng người, đúng việc, đề bạt bổ nhiệm đúng lúc, giao việc đúng tầm tay thay thế kịp thời khi cần thiết./
Mục lục
Phần A:
những vấn đề chung về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn cơ sở.
1 - Lý do chọn đề tài. 01
2 - Mục đích nghiên cứu. 03
3 - Nhiệm vụ của chuyên đề. 03
4 - Đối tượng nghiên cứu và khách thể điều tra. 04
5 -Phạm vi nghiên cứu. 04
6 - Phương pháp nghiên cứu. 04
7 - Đóng góp mới của chuyên đề. 05
8 - Kết cấu của chuyên đề. 05
Phần B:
Nội dung cơ bản của chuyên đề.
Chương I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn trong công cuộc đổi mới hiện nay.
1.1 Cơ sở lý luận 06
1.2 Cơ sở thực tiễn 11
Chương II: Thực trạng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đoàn cấp cơ sở ở thị xã Lào Cai.
2.1 Tình hình chung của địa bàn thị xã Lào Cai. 14
2.2 Nguyên nhân của những mặt mạnh và yếu kém… 24
Chương III: Những giải pháp và kiến nghị.
3.1 Giải pháp 27
3.2 Kiến nghị 28
Kết luận chung 30
Bảng từ viết tắt
Cụm từ
Nghĩa
BCH
Ban chấp hành.
CNH – HĐH
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.
ĐVTN
Đoàn viên thanh niên.
XHCN
Xã hội chủ nghĩa.
TW
Trung ương.
TN
Thanh niên.
TTN
Thanh thiếu niên.
TNCS
Thanh niên cộng sản.
Danh mục tàI liệu tham khảo
Các Mác - Ănghen về thanh niên – NXB matxcơva 1972.
Báo cáo tổng kết công tác Đoàn thị xã Lào Cai: 2002- 2003, 2003- 2004.
Chính sách thanh niên – Lý luận và thực tiễn.
Đảng cộng sản Việt Nam với công tác Vận động thanh niên.
Lê nin bàn về thanh niên – NXB Hà Nội 1981.
Lê nin toàn tập – NXB Tiến bộ 1981.
Hồ Chí Minh giáo dục thanh niên – NXB thanh niên 1980.
Hồ Chí Minh toàn tập.
Nghị quyết đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII.
Nghị quyết 03 của BCH TƯ Đoàn khoá VIII về công tác cán bộ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25422.DOC