Tài liệu Những tiến bộ di truyền phân tử trong chăn nuôi lợn: nâng cao năng suất sinh sản: 3TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG HUNG VUONG UNIVERSITY
Tập 14, Số 1 (2019): 3–11 Vol. 14, No. 1 (2019): 3–11
Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.hvu.edu.vn
ISSN
1859-3968
Email: nhthinh@vnuaeduvn
NHỮNG TIẾN BỘ DI TRUYỀN PHÂN TỬ TRONG CHĂN NUÔI LỢN:
NÂNG CAO NĂNG SUẤT SINH SẢN
Nguyễn Hoàng Thịnh*1, Đỗ Đức Lực1, Hoàng Thị Hồng Nhung2,
Nguyễn Thị Vinh1, Vũ Đình Tôn1
1Khoa Chăn nuôi, Học viện Nông nghiệp Việt Nam;
2Khoa Nông Lâm Ngư, Trường Đại Học Hùng Vương
Ngày nhận bài: 24/5/2019; Ngày sửa chữa: 15/6/2019; Ngày duyệt đăng: 26/6/2019
1. Mở đầu
Trong những thập kỷ gần đây, nghiên
cứu về di truyền sinh sản của lợn ngày càng
được các nhà khoa học quan tâm, việc nâng
cao khả năng sinh sản là một trong những
nhân tố quan trọng đóng góp chính trong
sản xuất con giống cũng như đáp ứng nhu
cầu của người chăn nuôi Với những yêu
cầu ngày càng cao và sự phát triển trong
lĩnh vực di truyền phân ...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những tiến bộ di truyền phân tử trong chăn nuôi lợn: nâng cao năng suất sinh sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG HUNG VUONG UNIVERSITY
Tập 14, Số 1 (2019): 3–11 Vol. 14, No. 1 (2019): 3–11
Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.hvu.edu.vn
ISSN
1859-3968
Email: nhthinh@vnuaeduvn
NHỮNG TIẾN BỘ DI TRUYỀN PHÂN TỬ TRONG CHĂN NUÔI LỢN:
NÂNG CAO NĂNG SUẤT SINH SẢN
Nguyễn Hoàng Thịnh*1, Đỗ Đức Lực1, Hoàng Thị Hồng Nhung2,
Nguyễn Thị Vinh1, Vũ Đình Tôn1
1Khoa Chăn nuôi, Học viện Nông nghiệp Việt Nam;
2Khoa Nông Lâm Ngư, Trường Đại Học Hùng Vương
Ngày nhận bài: 24/5/2019; Ngày sửa chữa: 15/6/2019; Ngày duyệt đăng: 26/6/2019
1. Mở đầu
Trong những thập kỷ gần đây, nghiên
cứu về di truyền sinh sản của lợn ngày càng
được các nhà khoa học quan tâm, việc nâng
cao khả năng sinh sản là một trong những
nhân tố quan trọng đóng góp chính trong
sản xuất con giống cũng như đáp ứng nhu
cầu của người chăn nuôi Với những yêu
cầu ngày càng cao và sự phát triển trong
lĩnh vực di truyền phân tử, hiện nay các
Tóm TắT
Bài tổng quan này đề cập đến những tiến bộ trong việc tìm kiếm và xác định các gen/marker có mối liên quan với khả năng sinh sản ở lợn bằng công nghệ di truyền phân tử Hệ gen của lợn được tiến
hành giải trình tự từ năm 2005 cho đến nay sắp hoàn thành đã cung cấp một lượng thông tin lớn và
hữu ích trong việc xác định các marker phân tử có mối liên quan với các tính trạng sản xuất ở lợn Hơn
3000 gen, 1400000 marker di truyền phân tử và 27456 QTL trong đó có hơn 1000 QTL liên quan đến
năng suất sinh sản ở lợn nái đã được phát hiện Hiện nay có một số marker phân tử có lợi đã được xác
định, tuy nhiên việc ứng dụng chúng vào trong chương trình chọn giống còn hạn chế do có một số vấn
đề chưa thống nhất như: có thể có ảnh hưởng ở giống/quần thể này mà không có ảnh hưởng ở giống/
quần thể khác; còn chưa biết hết được mối tương tác của gen này với các gen khác và với cả môi trường
Hầu hết những ứng dụng di truyền phân tử vào trong chương trình chọn giống hiện nay đều phải kết
hợp giữa cơ sở dữ liệu về cả kiểu hình và kiểu gen để đánh giá mối tương quan giữa các gen ứng cử với
các tính trạng sản xuất
Từ khóa: chỉ thị phân tử, năng suất sinh sản, gen�
công ty giống đã ứng dụng một số marker
di truyền kết hợp với phương pháp chọn
lọc truyền thống vào trong chương trình
chọn giống để nâng cao năng suất sinh
sản ở lợn Việc kết hợp các marker phân
tử với chọn lọc truyền thống đã đem lại
nhiều hiệu quả như nâng cao tính chính
xác, giảm thời gian chọn giống đồng thời
làm tăng tốc độ cải thiện di truyền về khả
năng sinh sản
4TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 14, Số 1 (2019): 3–11
Năng suất sinh sản bị ảnh hưởng bởi
rất nhiều yếu tố như số lượng trứng rụng,
tỉ lệ thụ tinh, khả năng sống của phôi và
thai trong thời gian mang thai, điều kiện
sản xuất, môi trường và cả tính di truyền
của chúng (giống, kiểu gen) Trong đó ảnh
hưởng của di truyền đóng vai trò quan trọng
mặc dù hệ số di truyền của các tính trạng
này tương đối thấp từ 10 đến 30% Nâng
cao khả năng sinh sản bằng phương pháp
chọn lọc truyền thống hiện nay là khó, bởi
các tính trạng này có hệ số di truyền thấp,
tốn kém và mất nhiều thời gian Hơn nữa,
do còn thiếu những thông tin về số lượng
gen và những mối tương quan tác động của
các gen đến khả năng sinh sản, cho nên dẫn
đến trong chọn lọc truyền thống sẽ khó có
thể đưa ra được kế hoạch chọn lọc chuẩn
xác ngay được Di truyền phần tử, công cụ
có khả năng phát hiện đến từng gen riêng lẻ
ảnh hưởng đến năng suất sinh sản, công cụ
để phân tích những nhân tố di truyền tương
tác với tính trạng quan tâm ở mức độ DNA
là một trong những công cụ có thể làm sáng
tỏ được những vấn đề khó khăn này, đồng
thời cũng mở ra nhiều triển vọng để nâng
cao năng suất sinh sản
Năng suất sinh sản được điều khiển
bởi nhiều gen nhưng hiện nay chưa biết
rõ hết số lượng và cả định khu của những
gen này trên nhiễm sắc thể Cho nên,
hiện nay mục đích chính của nghiên cứu
hệ gen của lợn đối với tính trạng sinh sản
nói riêng cũng như các tính trạng khác
nói chung là lập được bản đồ gen và xác
định được các loci của những marker
phân tử Hiện nay, các nghiên cứu vẫn
chủ yếu là tìm kiếm những marker phân
tử tham gia vào quy định tính trạng năng
suất sinh sản chứ chưa xác định được cụ
thể cơ chế và mối liên hệ giữa các marker
phân tử này đến năng suất sinh sản Tuy
nhiên, một số marker phân tử đã được
các nhà chọn giống sử dụng như là công
cụ trợ giúp chọn lọc trong nhân giống để
có thể nâng cao năng suất sinh sản ở lợn
Mục đích chính của bài tổng quan này
nhằm thông tin tình tình thực tế trong
nghiên cứu và ứng dụng một số marker
phân tử liên quan đến năng suất sinh sản
trong chọn giống
2. Những tiến bộ trong việc xác
định vị trí của các marker phân tử liên
quan đến năng suất sinh sản
Nghiên cứu hệ gen của lợn trong những
năm gần đây phát triển rất nhanh điều này
đã giúp cho chúng ta có nhiều hiểu biết chi
tiết hơn về hệ gen Dự án giải trình tự hệ gen
của lợn được bắt đầu từ năm 2005 và trong
tương lai gần thì toàn bộ hệ gen của lợn sẽ
được giải trình tự hoàn toàn, đây sẽ là một
cột mốc lớn trong nghiên cứu hệ gen lợn
Theo hệ dữ liệu genome của lợn hiện nay đã
ghi nhận có hơn 3000 gen và hơn 1400000
marker di truyền phân tử Thông qua trình
tự hệ gen của lợn, có thể phát hiện những
marker phân tử chính liên quan đến năng
suất sinh sản Nhưng đến thời điểm này, các
nhà nghiên cứu vẫn đang tìm kiếm những
gen, những marker phân tử, giải thích mối
liên quan đến tiềm năng di truyền với năng
suất sinh sản để chọn lọc các giống sản xuất
theo định hướng mong muốn
Có 2 phương pháp chính được sử dụng
để phát hiện ra các gen/marker phân tử ảnh
hưởng đến năng suất sinh sản, phân tích mối
liên kết những vùng mà các gen/marker phân
tử liên quan đến tính trạng có thể định khu
đó là kỹ thuật microsatellites và SNPs Cả hai
5TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Hoàng Thịnh và ctv
phương pháp này đều được sử dụng để xác
định những tính trạng có tương quan mạnh
hoặc những marker phân tử có liên kết gần
Một phương pháp là dùng để xác định các
gen ứng cử còn một phương pháp chủ đạo là
dùng để nghiên cứu mối liên kết của các QTL
(quantitative trait locus) Bước tiếp theo của
quá trình xác định định khu và mối liên kết
của marker phân tử là bước xác định kiểu gen
của marker và đánh giá ảnh hưởng của gen
này có ý nghĩa thống kê hay không giữa các
cá thể mang các kiểu gen khác nhau Ở lợn,
QTL đầu tiên được nghiên cứu vào năm 1994
là một locus nằm trên nhiễm sắc thể (NST)
số 4 có ảnh hưởng chính đến việc tích lũy mỡ
Kể từ đó, đã có nhiều các locus tính trạng số
lượng được xác định trên các giống lợn khác
nhau Hơn 25 năm qua, số lượng các nghiên
cứu về QTL rất nhiều, đến nay đã có 27456
QTL với hơn 620 bài báo và liên quan đến
636 tính trạng khác nhau được ghi nhận và
toàn bộ dữ liệu về QTL của lợn (PigQTLdb)
đã được thành lập và công bố rộng rãi trực
tuyến (https://wwwanimalgenomeorg/cgi-
bin/QTLdb/SS/index)
Đối với tính trạng về năng suất sinh sản,
hiện nay có hơn 1000 QTL được đề cập
trong các nghiên cứu và đã có một vài QTL
được nghiên cứu sâu hơn về đột biến điểm
trên các QTL có ảnh hưởng năng suất sinh
sản, như gen ESR liên quan đến số con đẻ ra,
gen FSHB liên quan trưởng thành của nang
trứng Tuy nhiên số lượng QTL được sử
dụng như là một marker trợ giúp trong sản
xuất nhân giống thì vẫn còn rất ít bởi những
nguyên do chính là hầu hết các QTL được đề
cập đến đều được phát hiện khi lai chéo giữa
2 giống với nhau, điều này dẫn đến việc khó
có thể xác định được đa hình của QTL trong
quần thể thương phẩm, nguyên nhân nữa là
do độ phân giải của bản đồ QTL còn chưa
được cao, một vùng QTL thường có chiều
dài từ 5 đến 30 cm nên nó quá lớn để có thể
tìm thấy định khu chính xác gen đích mà ta
quan tâm, do vậy rất khó để sử dụng những
thông tin này để đưa ra quyết định chọn lọc
Chính vì vậy, việc cải tiến các công nghệ gen,
phát triển các marker để làm tăng độ phân
giải của các QTL là điều cần thiết
3. Những gen/marker ứng cử trong
nâng cao năng suất sinh sản
Bước đầu tiên trong nghiên cứu và khai
thác những thông tin của hệ gen để tìm kiếm
các marker ứng cử thường dựa vào những
thông tin về chức năng sinh lý quan trọng
trong sinh sản của gen [29] Ngoài ra, các gen
ứng cử cũng có thể chọn thông qua những
nghiên cứu về QTL Hiện nay, hầu hết các
nghiên cứu phân tích về gen ứng cử đến khả
năng sinh sản ở lợn thường tập trung vào
số lượng con đẻ ra hoặc là một tổ hợp của
tính trạng năng suất sinh sản, đặc biệt là số
con còn sống đến khi cai sữa Công trình
đầu tiên nghiên cứu về mối liên quan giữa
gen ứng cử với năng suất sinh sản là của
Rothschild MF et al� [28] Đến nay, đã có
thêm rất nhiều nghiên cứu về mối liên quan
giữa đa hình của các gen ứng cử với năng
suất sinh sản đã được công bố (Bảng 1)
Bảng 1. Một số gen ứng cử ảnh hưởng đến năng
suất sinh sản
Gen ứng cử Định khu trên SSC
Estrogen receptor 1 (ESR1) 1p25-p24
Estrogen receptor 2 (ESR2) 1q
Follicle-stimulating hormone β
(FSHB)
2p16-p12
Epidermal growth factor (EGF) 8q23-q24
Prolactin receptor (PRLR) 16
Retinol-binding protein 4 (RBP4) 14
Ring finger protein 4 (RNF4) 8
6TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 14, Số 1 (2019): 3–11
3.1. Gen Estrogen receptor 1 và 2
Gen Estrogen receptor 1 và 2 đều nằm
trên SSC số 1 trong bộ genome của lợn mã
hóa cho hai dạng protein thụ thể là ESR1 (α)
và ESR2 (β) Protein thụ thể này đóng vai
trò quan trọng trong tương tác với hormone
estrogen để duy trì hoạt động sinh lý của
con nái, trong quá trình mang thai đây là
một trong những con đường tín hiệu duy
trì trạng thái mang thai của lợn nái Nghiên
cứu về đa hình gen ESR1 (định khu ở SSC
số 1) được tiến hành ở trên nhiều giống lợn:
Meishan, Large White, quần thể lợn châu
Âu dòng tổng hợp cho thấy allele B là có ảnh
hưởng đến số con sinh ra [33][28][4]
Một số nghiên cứu khác lại không tìm
thấy mối tương quan có ý nghĩa thống kê về
ảnh hưởng của gen này đến tính trạng năng
suất sinh sản [10][19][15][24] Có một số
nghiên cứu lại có kết quả ngược với những
nghiên cứu trên khi lại thấy allele A mới là
allele có ảnh hưởng đến NBA [36][11]
3.2. Gen RNF4 (Ring finger protein
4 gene)
Gen RNF4 nằm trên NST số 8 trong bộ
genome của lợn RNF4 là một chất đồng vị
thụ thể steroid, có tác động làm tăng quá
trình phiên mã glucocorticoid, progesterone,
estrogen [21][31] Nghiên cứu biểu hiện của
RNF4 trong quá trình phát triển tế bào
tuyến sinh dục của bào thai và sự phát triển
của các nang noãn của buồng trứng sau sinh
cho thấy, RNF4 đóng một vai trò quan trọng
trong sự phát triển của tế bào mầm bào thai
cũng như nang noãn và quá trình chín của
các tế bào hạt của nang noãn (Hirvonen-
Santti et al�, 2004)[14]
Khi nghiên cứu trên QTL, một số nghiên
cứu [27][16] đã xác định được một QTL nằm
trên NST số 8 nơi mà RNF4 được định vị
ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ rụng trứng
Phân tích biểu hiện của gen RNF4 trên
bộ NST của lợn bằng kỹ thuật RT-PCR, Niu
et al� (2009) tìm thấy gen RNF4 được biểu
Hình 1. Vị trí gen ESR1 trên bộ NST lợn
Hình 2. Vị trí gen ESR2 trên bộ NST lợn
Hình 3. Vị trí gen RNF4 trên bộ NST lợn
Nhiễm sắc thể số 1–NC_0104435
Nhiễm sắc thể số 1–NC_0104435
Nhiễm sắc thể số 8–NC_0104504
7TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Hoàng Thịnh và ctv
hiện trong các mô tinh hoàn, trứng, tử cung,
mỡ, thận, lá lách, gan Trong đó gen này biểu
hiện với mức độ cao ở tinh hoàn, thận, lá
lách và biểu hiện mức độ thấp ở gan Không
tìm thấy sự biểu hiện của gen RNF4 trong
tim, phổi, ruột non, dạ dày và cơ Theo Niu
et al� (2009) khi tiến hành nghiên cứu trên
54 lợn nái thuần chủng Qingping và 210 lợn
nái dòng Line DIV gồm các giống Landrace,
Large White, Tongcheng và Meishan, ở lứa đẻ
thứ 2 và các lứa đẻ sau đó lợn nái Qingping
mang kiểu gen CC có số con sơ sinh/ổ cao
hơn 1,72 con và số con sơ sinh sống/ổ cao
hơn 2,02 con so với lợn nái mang kiểu gen
TT [23]
3.3. Gen RBP4 (Retinol binding
protein 4 gene)
Gen RBP4 được định khu trên NST số
14, mã hóa tổng hợp protein RPB4 – đây là
một dạng protein đặc hiệu đóng vai trò quan
trọng trong quá trình vận chuyển retinol
(một dạng dẫn xuất của vitamin A) từ gan để
thực hiện các chức năng như sự biệt hóa và
phát triển của các tế bào máu, tế bào nguyên
bào sợi trong cơ Chức năng trong sự phát
triển phôi của gen này đó là ở giai đoạn đầu
khi phôi bám vào tử cung gen này cung cấp
một lượng acid retinoic phù hợp để cho phôi
phát triển bình thường
RBP4 là thành viên thứ 4 trong nhóm
RBP, là gen được biểu hiện trong thời gian
mang thai ở lợn [13] Mang thai và duy trì
quá trình mang thai ở lợn đòi hỏi sự tương
tác giữa cơ thể nái với tử cung, mô tử cung
của nái [7], cũng như sự tiết ra hormone
estrogen, prostaglandins và protein [32]
Theo Harney and Bazer (1990) khoảng vào
ngày thứ 10 đến 12 của thai kỳ, tử cung của
lợn nái sẽ tiết ra RBP Retinol biding protein
có thể có một số chức năng quan trọng trong
giai đoạn đầu của quá trình mang thai [12]
Retinol ảnh hưởng đến quá trình phiên mã
gen [7], hình thành các loại tế bào, sản sinh
steroid, tạo ra các tế bào máu và các tế bào
miễn dịch [1], tạo tế bào interferon [2] Tất
cả những sản phẩm này dường như không
thể thiếu trong việc hình thành và duy trì
thành công cho giai đoạn mang thai ở lợn
Điều này có thể cho thấy retinol và RBP4 có
một vai trò quan trọng trong thời gian mang
thai của lợn [13]
Mặt khác, retinol và các protein gắn kết
đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển của phôi và bào thai Sự thiếu và thừa
retinol đều gây quái thai [18] Tỷ lệ chết phôi
sẽ giảm và số con sơ sinh và khối lượng sơ
sinh/ổ sẽ tăng lên khi lợn nái mang thai
được tiêm β-carotene hoặc vitamin A [6]
[8] Ngoài ra, retinol và các protein liên kết
của nó có thể có liên quan đến việc giảm tỷ
lệ chết phôi Sự biểu hiện tăng lên của gen
RBP4 trong nội mạc tử cung được quan sát
thấy ở lợn nái vào ngày thứ 10 và ngày thứ
12 của thai kỳ, cho thấy tầm quan trọng của
vitamin A và các protein vận chuyển vitamin
A trong quá trình mang thai [13] Chính vì
những lý do này mà gen RBP4 được coi là
một gen ứng viên tiềm năng cho năng suất
sinh sản ở lợn
Hình 4. Vị trí gen RBP4 trên bộ NST lợn
Nhiễm sắc thể số 14–NC_0104565
8TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 14, Số 1 (2019): 3–11
Có nhiều công trình trên thế giới nghiên
cứu về ảnh hưởng của đa hình gen RBP4 đến
năng suất sinh sản của lợn nái [9],[20],[26],[3
0],[34],[35],[38] Tuy nhiên, có 2 chiều hướng
kết quả khác nhau về kiểu gen có ảnh hưởng
tích cực đến số con sơ sinh và số con sơ sinh
còn sống
Đa số các nghiên cứu chỉ ra rằng, kiểu
gen BB có số con sơ sinh và số con sơ sinh
còn sống/ổ cao hơn kiểu gen AA và AB
[9],[25],[34],[35][38] Những nghiên cứu khác
lại chỉ ra rằng kiểu gen AA có số con sơ sinh
và số con sơ sinh còn sống cao hơn [20],[26]
Khi nghiên cứu trên dòng lợn Yorkshire, [9]
cho biết, lợn nái mang kiểu gen BB cho số
con sơ sinh còn sống/ổ cao hơn +0,35 con so
với lợn nái mang kiểu gen AA Wang et al�
(2006) khi nghiên cứu trên lợn nái Landrace
cho biết kiểu gen BB có số con sơ sinh còn
sống/ổ cao hơn so với kiểu gen AB và BB
[38] Các nghiên cứu ban đầu cho thấy RBP4
với kiểu gen mong đợi có tác động di truyền
làm tăng 0,52 con trong 1 lứa đẻ ở dòng
lợn Large White Hyperprolific và tăng hơn
0,45 con trên 1 lứa đẻ ở dòng lợn đối chứng
(Vincent, 1998) Nghiên cứu của Rothschild
(1996, 2000) trên các dòng lợn thương mại
cho thấy gen có tác động làm tăng 0,23 con
trên 1 lứa đẻ và số con còn sống tăng 0,15
Điều này cho thấy gen này có tương tác quan
trọng lên số lượng con sinh ra trên 1 lứa đẻ
3.4. Gen PRLR (Prolactin receptor gene)
Gen prolactin thụ thể được định khu trên
nhiễm sắc thể số 16 [37] Gen có 11 exon,
nhưng vùng mã hóa lại bắt đầu ở exon thứ
3 Có 2 dạng gen thụ thể prolactin: dạng dài
(LF) và dạng ngắn (SF) các gen này mã hóa
ra các protein có chứa 625 axit amin và 296
axit amin tương ứng với từng dạng Trình
tự mã hóa của dạng gen dài là sự ghép nối
từ exon 3 đến exon 10 Trong khi đó trình
tự mã hóa của dạng gen ngắn là sự ghép nối
từ exon 3 đến exon 9 và với exon 11 Gen thụ
thể prolactin mã hóa ra các thụ thể protein
để tương tác với hocmone prolactin, từ đó
tác động đến một loạt các quá trình sinh lý
quan trọng trong đó có liên quan đến năng
suất sinh sản, khả năng nuôi con, khả năng
thụ thai Thụ thể prolactin xuất hiện ở
nhiều mô và cơ quan khác nhau như não,
buồng trứng, nhau thai, tử cung
Theo các nghiên cứu về ảnh hưởng
của một số đa hình gen thụ thể prolactin
[9],[17],[35],[36],[37] cho thấy, gen thụ thể
prolactin là một trong những gen ứng cử có
mối tương quan đến năng suất sinh sản ở
lợn Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy đa
hình enzyme cắt giới hạn AluI của gen thụ
thể prolactin tương quan dương đến năng
suất sinh sản trên lợn Kiểu gen AA của đa
hình này có số con còn sống sau khi sinh cao
hơn 0,45 con khi so với những cá thể mang
kiểu gen BB trên lợn Landrace và Yorkshire
(Kmiec Terman, 2004) Theo Vincent et al�
(1997) khi nghiên cứu trên 4 giống lợn Large
White, Landrace, Duroc và Large White ×
Meishan hybrids thì kiểu gen AA cũng đã
làm tăng số con đẻ ra trên 1 lứa đẻ từ 0,66
đến 1 con [37]
Hình 5. Vị trí gen PRLR trên bộ NST lợn
Chromosome 16 NC_0104584
9TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Hoàng Thịnh và ctv
4. Thảo luận
Như vậy, qua những nghiên cứu để xác
định, tìm kiếm và đánh giá ảnh hưởng của
các QTL/marker ứng cử về năng suất sinh
sản của lợn ngày càng được cập nhật Cho
đến nay, đã có trên 1000 QTL ứng cử về
tính trạng này đã được ghi nhận Trong
thời gian tới, khi mà hệ gen của lợn được
giải mã hoàn toàn sẽ mở ra nhiều triển vọng
trong việc xác định và đánh giá chính xác
hơn ảnh hưởng của các marker phân tử
Tuy nhiên, hiện nay những nghiên cứu về
mối liên quan về ảnh hưởng của các marker
ứng cử vẫn chưa có sự nhất quán, có nhiều
các nghiên cứu đưa ra các kết quả còn trái
ngược nhau Điều này có thể giải thích một
phần là do các nghiên cứu mới chỉ tập trung
vào từng marker đơn lẻ mà chưa quan tâm
đến sự tương tác đa di truyền đối với tính
trạng; một phần có thể là do ở các quần thể/
giống khác nhau sẽ có cấu trúc di truyền
khác nhau và kích thước của các mẫu nghiên
cứu còn hạn chế khi phân tích các mối liên
kết nên dẫn đến các kết quả còn chưa được
thống nhất Trong tương lai gần, với tốc độ
phát triển của các công cụ di truyền phân
tử thì những nghiên cứu, phân tích xa hơn
đối với gen ứng cử sẽ là rất cần thiết để có
câu trả lời chính xác về mối tương quan
của những marker phân tử đến tính trạng
quan tâm Những ứng dụng di truyền phân
tử vào trong chương trình chọn giống hiện
nay nên kết hợp cả những cơ sở dữ liệu kiểu
hình để đánh giá được toàn diện mối tương
quan của các gen ứng cử với các tính trạng
sản xuất
Tài liệu tham khảo
[1] Amatruda T T and H P Koeffler (1986) Reti-
noids and cells of the hematopoietic system,
Retinoids and Cell Differentiation (MI Sherman,
Ed), CRC Press, Boca Raton, FL: 79-103
[2] Blalock J E and G Gifford (1976) Suppression of
interferon production by vitamin A J General
Virol, 32(1): 143-147
[3] Campbell E M, D J Nonneman, and G A
Rohrer (2003) Fine mapping a quantitative trait
locus affecting ovulation rate in swine on chro-
mosome 8 J Anim Sci 81: 1706-1714
[4] Chen K F, LS Huang, Q Lin Zhang, X Luom
WuC (2000) The genetic effect of estrogen
receptor (ESR) on litter size traits in pigs Acta
Genetica Sinica 27: 853-857
[5] Chen C C, T Chang, H Y Su (2004) Charac-
terization of porcine leptinreceptor polymor-
phisms and their association with reproduction
and production traits Anim Biotechnol15:
89–102
[6] Chew B P (1996) Importance of antioxidant
vitamins in immunity and health in animals
Anim Feed Sci Tech, 59(1-3): 103-114
[7] Chiocca E A, P J Davies, and J P Stein (1989)
Regulation of tissue transglutaminase gene
expression as a molecular model for retinoid
effects on proliferation and differentiation J
Cell Biochemi, 39(3): 293-304
[8] Coffey M T and J H Britt (1993) Enhancement
of sow reproductive performance by beta-caro-
tene or vitamin A Journal of Animal Science,
71(5): 1198-1202
[9] Drogemuller C, H Hamann, and O Distl (2001)
Candidate gene markers for litter size in different
German pig lines, J Anim Sci, 79(10): 2565-70
[10] Gibson JP, Z H Jiang, JAB Robinson, AL
Archibald, CS Haley (2002) No detectable
association of the ESR PvuII mutation with sows
productivity in Meishan × Large White F2 pop-
ulation Anim Genet 33: 448 450
[11] Goliasova E, J Wolf (2004) Impact of the ESR
gene on litter size and production traits in Czech
Large White pigs Anim Genet 35: 293-297
[12] Harney J P and F W Bazer (1990) Effects of
conceptus and conceptus secretory products on
uterine development in the pig Reproduction,
Fertil Develop, 2(2): 179-187
[13] Harney J P, T L Ott, and F W Bazer (1993)
Retinol-biding protein gene expression in cyclic
10
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 14, Số 1 (2019): 3–11
and pergmant endometrium of pigs, sheep and
cattle, Biol Reprod, 49: 1066-1073
[14] Hirvonen-Santti S J, V Sriraman, M Anttonen,
S Savolainen, J J Palvimo, M Heikinheimo, J S
Richards, and O A Janne (2004) Small nuclear
RING finger protein expression during gonad
development: regulation by gonadotropins and
estrogen in the postnatal ovary, Endocrinol,
145: 2433-2444
[15] Isler BJ, KM Irvin, SM Neal, SJ Moeller,
ME Davis (2002) Examination of the rela-
tionship between the estrogen receptor gene
and reproductive traits in swine J Anim Sci
80:2334 2339
[16] King, AH, Z Jiang , JP Gibson, CS Haley,
AL Archibald (2003) Mapping quantitative
trait loci affecting female reproductive traits
on porcine chromosome 8 Biol Reprod 68,
2172–2179
[17] Korwin-Kossakowska A, Kamyczek M, Cieslak
D, Pierzchala M, Kuryl J (2003) Candidate gene
markersforreproductive traits 990 pig line J
Anim Breed Genet 120, 181-91 [in Polish]
[18] Lefebvre P, P J Martin, S Flajollet, S Dedieu, X
Billaut, and B Lefebvre (2005) Transcriptional
activities of retinoic acid receptors, Vitamins &
Hormones, 70: 199-264
[19] Linville R C, D Pomp, R K Johnson, and M
F Rothschild (2001) Candidate gene analysis
for loci affecting litter size and ovulation rate in
swine, J Anim Sci, 79(1): 60-67
[20] Marantidis A, G P Laliotis, and M Avdi (2015)
Association of RBP4 Genotype with Phenotypic
Reproductive Traits of Sows, Genetics Research
International, 2016: 1-5
[21] Moilanen A M, H Poukka, U Karvonen, M
Hakli, O A Janne, and J J Palvimo (1998)
Identification of a novel RING finger protein as
a coregulator in steroid receptor-mediated gene
transcription, Mol Cell Biol, 18(9): 5128–5139
[22] Naqvi A N (2007) Application of Molecular
Genetic Technologies in Livestock Production:
Potentials for Developing Countries, Adv Biol
Reasear, 1(3-4): 72-84
[23] Niu B Y, L Z Ye, F E Li, C Y Deng, S W
Jiang, M G Lei, and Y Z Xiong (2009) Identifi-
cation of polymorphism and association analysis
with reproductive traits in the porcine RNF4
gene, Anim Reprod Sci, 110(3–4): 283-292
[24] Noguera JL, L VaronaL Gomez-Raya, A
Sanchez, D Babot, J LA Estany Messer, M
Rothschild, M Perez-Enciso (2003) Estrogen
receptor polymorphism in Landrace pigs and its
associations with litter size performance Livest
Prod Sci 82: 53-59
[25] Ollivier L, L A Messer, M F Rothschild, and
C Legault (1997) The use of selection experi-
ments for detecting quantitative trait loci, Genet
Resear, 69(03): 227-232
[26] Omelka R, M Martiniaková, D Peškovičová,
and M Bauerová (2008) Associations between
RBP4/MspI polymorphism and reproductive
traits in pigs: an application of animal model, J
Agrobiol, 25: 77-80
[27] Rohrer G, J Ford, T Wise, J Vallet, and R
Christenson (1999) Identification of quantita-
tive trait loci affecting female reproductive traits
in a multigeneration Meishan-White composite
swine population, J Anim Sci, 77(6): 1385-1391
[28] Rothschild M F, C,Jacobson, D Vaske, C
Tuggle, L Wang, T Short, G Eckardt, S Sasaki,
A Vincent, and D Mclaren (1996) The estrogen
receptor locus is associated with a major gene
influencing litter size in pigs, Proceedings of the
National Academy of Sciences, 93(1): 201-205
[29] Rothschild M F (1998) Analysis of new candi-
date genes for reproduction in the pig Plant and
Animak genome VI conference San Diego USA
(1998), W61
[30] Rothschild F M, L Messer, L Day, R Wales,
T Short, O Southwood, and G Plastow (2000)
Investigation of the retinol-binding protein 4
(RBP4) gene as a candidate gene for increased
litter size in pigs, Mammal Genom, 11(1): 75-77
[31] Saville B, H Poukka, M Wormke, O A Janne,
J J Palvimo, M Stoner, I Samudio, and S Safe
(2002) Cooperative coactivation of estrogen
receptor α in ZR-75 human breast cancer cells
by SNURF and TATA-binding protein, J Biol
Chem, 277: 2485–2497
[32] Schindler J (1986) Retinoids, polyamines and
differentiation, Retinoids and Cell Differentia-
tion (MI Sherman, Ed), CRC Press, Boca Raton,
FL: 137-159
11
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Hoàng Thịnh và ctv
MOLECULAR GENETIC APPROACHES IN PIG BREEDING:
TO IMPROVE REPRODUCTIVE PERFORMANCE
Nguyen Hoang Thinh*1, Do Duc Luc1, Hoang Thi Hong Nhung2,
Nguyen Thi Vinh1, Vu Dinh Ton1
1Faculty of Animal Science, Vietnam National University of Agriculture;
2Faculty of Agricultural, Forestry and Aquacultural Science, Hung Vuong University
AbsTrAcT
This review has metioned the advance in molecular genetics that have led to the identification of genes and marker associated with reproductive performance in pig The pig genome has been sequencing
since 2005 but has not yet done until now Hence, the data from the pig genome has provide a huge
amount of information to identify molecular marker associated with reproduction of pig Up to now,
more than 3,000 genes and 1,400,000 marker genetics and 27,456 QTLs, of which more than 1,000 QTLs
related to reproductive performance in sows were detected Currently, there are a number of beneficial
molecular markers that have been identified, but the application of them in the breeding program is
limited because there are some inconsistencies such as: may have influence on this breed/population but
has no effect on other breed/populations, the interaction among gene to gene and the environment are
unknown Most molecular genetics applications in the current breeding program should be combine a
database of phenotypes and genotypes to evaluate the correlation between candidate genes with produc-
tion traits
Keywords: Molecular genetics, reproductive performance, gene�
[33] Short TH, MF Rothshild, OI Southwood,
DG McLaren, A de Vries Van, H der Steen,
GR Eckardt, CK Tuggle, J Helm, DA Vaske,
AJ Mileham, GS Plastow (1997) Effect of the
estrogen receptor locus on reproduction and
production traits in four commercial pigs lines
J Anim Sci 75:3138-3142
[34] Spotter A, S Muller, H Hamann, and O Distl
(2009) Effect of polymorphisms in the genes for
LIF and RBP4 on litter size in two German pig
lines, Reprod Domest Anim, 44(1): 100-5
[35] Terman A, K Marek, P Daniel, and P Konrad
(2007) Retinol binding protein 4 gene and repro-
ductive traits in pigs Arch Tierz, Dummerstorf
50: 181-185
[36] Van Rens BT, PN de Groot, T van der Lende
(2002) The effect of estrogen genotype on litter
size and placental traits at term in F2 crossbred
gilts Theriogenol 57: 1635-1649
[37] Vincent A, C Tuggle, M F Rothschild, G
Evans, T Short, O Southwood, and G Plastow
(1998) The prolactin receptor gene is associated
with increased litter size in pigs
[38] Wang X, A Wang, J Fu, and H Lin (2006)
Effects of ESR1, FSHB and RBP4 genes on litter
size in a Large White and a Landrace Herd
Arch Tierz, Dummerstorf
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_1_14_nguyen_hoang_thinh_4961_2215740.pdf