Những thay đổi trong các cuộc tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản ở Việt Nam từ năm 1994 đến nay - Nguyễn Hoà Bình

Tài liệu Những thay đổi trong các cuộc tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản ở Việt Nam từ năm 1994 đến nay - Nguyễn Hoà Bình: Cuộc Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệpvà thuỷ sản (viết tắt là TĐTNTNN & TS) theoQuyết định số: 1785/QĐ - TTg ngày 27 tháng 9 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ vào năm 2011 là cuộc Tổng điều tra lần thứ 4 được tổ chức ở nước ta; các cuộc Tổng điều tra trước đó được tiến hành vào các năm: 1994, 2001 và 2006. So với TĐTNN ở nhiều nước cuộc TĐTNTNN & TS ở Việt Nam không chỉ là cuộc điều tra chuyên ngành về nông nghiệp, mà còn bao gồm cả lĩnh vực lâm nghiệp và thuỷ sản; phạm vi, đơn vị điều tra không những gồm các hộ nông, lâm nghiệp, thuỷ sản ở khu vực thành thị mà còn bao gồm toàn bộ các hộ (nông nghiệp và phi nông nghiệp) ở khu vực nông thôn. So sánh các cuộc TĐTNTNN & TS ở nước ta trong 16 năm qua thì cuộc Tổng điều tra năm 1994 là cuộc điều tra đầu tiên nên khó khăn cũng nhiều nhất, ngành Thống kê lúc đó còn hiểu biết rất ít về cuộc điều tra này. Tuy vậy, với phương châm vừa học, vừa làm, ngay từ năm 1990 Vụ Nông - Lâm nghiệp - Thuỷ sản (nay là Vụ Thống kê Nông, Lâ...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 510 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những thay đổi trong các cuộc tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản ở Việt Nam từ năm 1994 đến nay - Nguyễn Hoà Bình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cuộc Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệpvà thuỷ sản (viết tắt là TĐTNTNN & TS) theoQuyết định số: 1785/QĐ - TTg ngày 27 tháng 9 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ vào năm 2011 là cuộc Tổng điều tra lần thứ 4 được tổ chức ở nước ta; các cuộc Tổng điều tra trước đó được tiến hành vào các năm: 1994, 2001 và 2006. So với TĐTNN ở nhiều nước cuộc TĐTNTNN & TS ở Việt Nam không chỉ là cuộc điều tra chuyên ngành về nông nghiệp, mà còn bao gồm cả lĩnh vực lâm nghiệp và thuỷ sản; phạm vi, đơn vị điều tra không những gồm các hộ nông, lâm nghiệp, thuỷ sản ở khu vực thành thị mà còn bao gồm toàn bộ các hộ (nông nghiệp và phi nông nghiệp) ở khu vực nông thôn. So sánh các cuộc TĐTNTNN & TS ở nước ta trong 16 năm qua thì cuộc Tổng điều tra năm 1994 là cuộc điều tra đầu tiên nên khó khăn cũng nhiều nhất, ngành Thống kê lúc đó còn hiểu biết rất ít về cuộc điều tra này. Tuy vậy, với phương châm vừa học, vừa làm, ngay từ năm 1990 Vụ Nông - Lâm nghiệp - Thuỷ sản (nay là Vụ Thống kê Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản) đã bắt đầu sưu tầm tài liệu, nghiên cứu lý luận từ các tài liệu liên quan của ngoài nước và thực tiễn 2 cuộc TĐTDS trong nước vào các năm 1979 và 1989. Trong đó đáng chú ý nhất là cuốn sách về chương trình Tổng điều tra nông nghiệp thế giới năm 1990 (Programme for the 1990 world Census of Agriculture) của FAO (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp Quốc) và tài liệu TĐTNN một số nước (Thái Lan, Philippin,...). Công tác nghiên cứu này đã giúp ích rất nhiều cho việc xây dựng phương án, xác định mục tiêu, xây dựng hệ thống chỉ tiêu cũng như các bước chỉ đạo của cuộc Tổng điều tra,... Chính vì vậy, ngay khi Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số: 568/TTg Ngày 19 - 11 - 1993 về việc tiến hành Tổng điều tra nông thôn và nông nghiệp trên địa bàn cả nước vào năm 1994, giai đoạn chuẩn bị cho cuộc Tổng điều tra đã khởi động nhanh chóng và hiệu quả. Tổng cục Thống kê theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ với vai trò thường trực cuộc Tổng điều tra (không thành lập Ban chỉ đạo Tổng điều tra Trung ương) đã chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan (Uỷ Ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Thuỷ sản, Tổng cục Quản lý ruộng đất, Bộ Tài chính, Ban kinh tế Trung ương) đề nghị cử cán bộ nghiệp vụ cùng phối hợp chỉ đạo thực hiện cuộc Tổng điều tra. Theo quyết định số: 141 - TCTK/QĐ ngày 18 - 12 - 1993 của Tổng cục Trưởng Tổng cục Thống kê một tổ chuyên viên gồm 24 người (thuộc các Bộ ngành Trung ương và TCTK) được thành lập. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ qui định, tổ chuyên viên đã tiến hành dự thảo phương án, xây dựng các phiếu điều tra và giải thích, dự thảo hệ thống biểu tổng hợp nhanh và tổng hợp chính thức, Sau đó tổ chức nhiều lần Hội thảo khoa học ở Trung ương và tiến hành điều tra thử ở 4 tỉnh (Thái Bình, Nghệ An, Thái 36 CHUYÊN SAN TỔNG ĐIỀU TRA NÔNG THÔN, NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN NĂM 2011 Kinh nghiệm Tổng điều tra NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CÁC CUỘC TỔNG ĐIỀU TRA NÔNG THÔN, NÔNG NGHIỆP VÀ THUỶ SẢN Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1994 ĐẾN NAY Nguyễn Hoà Bình Nguyên, Kiên Giang) đại diện cho 4 vùng kinh tế khác nhau trong cả nước để xây dựng các định mức giao khoán công việc, dự toán kinh phí và hoàn thiện phương án, biểu mẫu Tổng điều tra. Dưới sự hướng dẫn của Trung ương đến cuối năm 1993 Ban chỉ đạo cấp dưới (Tỉnh, huyện, xã) được thành lập. Các bước tiếp theo là: Tuyển chọn điều tra viên; mở các lớp tập huấn ở nhiều cấp; lập bảng kê hộ theo từng địa bàn (thôn, ấp, bản). Công tác tuyên truyền cho cuộc Tổng điều tra nông nghiệp và nông thôn được tiến hành ở mọi cấp một cách hết sức linh hoạt và sáng tạo bằng mọi phương tiện và hình thức thích hợp. Công việc in ấn, phát hành và phân phối một khối lượng rất lớn các tài liệu phục vụ cho cuộc Tổng điều tra được thực hiện khẩn trương theo kế hoạch chung. Mọi khoản kinh phí chi tiêu phục vụ cho Tổng điều tra được dự toán thống nhất giữa Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê và chuyển theo tiến độ công việc cho các địa phương. Giai đoạn chuẩn bị được hoàn tất vào cuối tháng 6 năm 1994 để chuyển sang giai đoạn Tổng điều tra bắt đầu vào ngày 01 đến ngày 30/7/1994. Trong giai đoạn này, công tác điều tra được tiến hành ở các địa phương với sự giám sát chặt chẽ của các giám sát viên Trung ương (mỗi người phụ trách từ 2 - 5 tỉnh) và Ban chỉ đạo TĐT các cấp. Kết thúc quá trình điều tra là công tác tổng hợp nhanh, sau đó chuyển sang bước nghiệm thu các tài liệu Tổng điều tra ở từng cấp. Giai đoạn bàn giao tổng hợp các phiếu điều tra (hộ, xã và doanh nghiệp) được giao cho 3 Trung tâm tính toán ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng thực hiện. Bước vào năm 1995 công tác điều tra chọn mẫu với qui mô 45.000 hộ tiếp tục được triển khai ở cả 2 khu vực (thành thị và nông thôn) trong phạm vi cả nước. Đến cuối năm 1995 hầu như toàn bộ công việc in ấn, công bố, xuất bản tài liệu Tổng điều tra được hoàn thành, chia thành 3 tập với 421 biểu, 2111 trang in; so với các nước Việt Nam đã rút ngắn thời gian thực hiện Tổng điều tra (không kể điều tra mẫu) trong khoảng một năm. Kết quả điều tra cho thấy đây là cuộc Tổng điều tra diễn ra trên qui mô rất lớn liên quan đến 9.616 xã, 71.952 thôn, ấp, bản và 11.974.515 hộ, 1.658 đơn vị quốc doanh nông, lâm nghiệp, thuỷ sản với 57.088.078 nhân khẩu, 27.380.589 lao động. Sau cuộc Tổng điều tra nông thôn và nông nghiệp vào năm 1994, ngành Thống kê đã tiếp tục chỉ đạo thắng lợi 2 cuộc TĐTNTNN & TS vào năm 2001, 2006 và đang bước vào cuộc TĐTNTNN & TS năm 2011. Những kết quả tiến bộ và những bổ sung thay đổi trong các cuộc TĐTNTNN & TS từ năm 1994 đến nay được thể hiện trên các mặt sau: Về mục tiêu, phạm vi, đối tượng và đơn vị Tổng điều tra: Cho đến nay mục tiêu của TĐTNTNN & TS ở nước ta đề ra ngay từ đầu đã sát đúng với chuẩn mực quốc tế cũng như thực tiễn nông nghiệp, nông thôn nước ta. Đối với điều tra toàn bộ mục đích thứ nhất nhằm thu thập những thông tin cơ bản về nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản phục vụ việc đánh giá thực trạng và xu hướng phát triển, thiết lập căn cứ để làm cơ sở xây dựng kế hoạch, hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn tiếp theo và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Tuy vậy để đạt được mục tiêu thứ hai: Tạo lập dàn mẫu cho các cuộc điều tra thường xuyên hàng năm giữa 2 cuộc Tổng điều tra và so sánh quốc tế, theo chúng tôi thì đến cuộc Tổng điều tra năm 2011 với cách thiết kế phiếu điều tra (phiếu số 01/TĐTNN-HO - Tình hình cơ bản của hộ) thì mới đảm bảo có đủ các dữ kiện (về số lao động trong hộ chia theo từng ngành nghề hoạt động và diện tích gieo trồng cây hàng năm và cây lâu năm chủ yếu cũng như diện tích nuôi trồng thuỷ sản và số lượng từng loại gia súc, gia cầm chủ yếu của hộ) để xác lập được các bảng kê danh sách hộ trồng lúa, hộ trồng cây hàng năm khác, hộ chăn nuôi phục vụ cho các cuộc điều tra mẫu năng suất, sản lượng lúa, cây, con khác. Cách thiết kế này cũng đủ căn cứ để tổng hợp được số hộ chuyên ngành (hộ nông 37THÁNG 6 - 2011 Kinh nghiệm Tổng điều tra nghiệp, hộ lâm nghiệp, hộ thuỷ sản, hộ công nghiệp, hộ xây dựng,) theo cả 2 khái niệm sau: - Một là đảm bảo tổng hợp được số hộ nông nghiệp theo khái niệm của quốc tế, vì TĐTNN ở các nước (là cuộc điều tra chuyên ngành về nông nghiệp) nên khái niệm hộ nông nghiệp được qui định là hộ có ít nhất 1 lao động tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp trong năm điều tra. - Hai là đảm bảo tổng hợp được số hộ nông nghiệp (cũng như các hộ chuyên ngành khác) theo khái niệm qui định trong TĐTNTNN & TS ở Việt Nam là những hộ có toàn bộ hoặc phần lớn lao động của hộ tham gia hoạt động chuyên ngành đó trong năm điều tra nhằm tránh tổng hợp trùng lắp hộ vượt quá tổng số hộ trên địa bàn nông thôn. Mặt khác, về phạm vi, đơn vị điều tra của cuộc TĐTNT, NN ở nước ta ngay từ đầu (1994) đã qui định: Điều tra toàn bộ các loại hộ (nông nghiệp và phi nông nghiệp) trên địa bàn nông thôn (khác với các nước là chỉ điều tra hộ nông nghiệp trong cả nước). Cho đến nay phạm vi điều tra này vẫn được kế thừa trong các cuộc TĐTNTNN & TS là phù hợp với nhu cầu thực tiễn phục vụ đánh giá toàn diện về nông thôn, nông nghiệp nước ta theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng (nhất là Nghị quyết TW 5, Nghị quyết TW 7 về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn). Một điểm khác nữa so với các nước kinh tế trang trại phát triển với qui mô lớn khi điều tra thường bỏ qua những nông hộ có qui mô sản xuất nhỏ (như nuôi dưới 20 con gia cầm, dưới 3 con lợn, trồng trọt dưới 0,1 ha,). Đối với Việt Nam từ cuộc TĐTNT & NN đầu tiên 1994, căn cứ vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp trong nước (qui mô sản xuất của hộ phổ biến còn nhỏ, phân tán) nên đã qui định điều tra toàn bộ các hộ có hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong năm điều tra bất kể là qui mô lớn hay nhỏ. Về nội dung cuộc Tổng điều tra: Vấn đề này liên quan nhiều đến việc nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu cho mỗi cuộc Tổng điều tra (điều tra toàn diện và điều tra mẫu), kể cả việc chuẩn hoá các khái niệm, nội dung và phương pháp tính chỉ tiêu, mã hoá chỉ tiêu, Ngay từ cuộc Tổng điều tra năm 1994, nội dung điều tra toàn diện đã tập trung vào những yếu tố cơ bản nhất của hộ (gồm: Nhân khẩu, lao động; nhà ở và một số đồ dùng; diện tích đất; diện tích gieo trồng; chăn nuôi và các loại máy chủ yếu). Tuy vậy, trong Tổng điều tra NN & NT năm 1994 ngành thuỷ sản với 3.260 km bờ biển, 112 cửa sông lạch, trên 1 triệu km2 vùng đặc quyền kinh tế biển, gần 2 triệu ha mặt nước nội địa, có rất nhiều tiềm năng nhưng chưa được quan tâm chú ý đầy đủ, ngoài chỉ tiêu về số hộ, diện tích nuôi trồng thuỷ sản và số lượng tàu thuyền đánh bắt thuỷ sản thì không còn chỉ tiêu nào khác. Đồng thời, nội dung Tổng điều tra năm 1994 cũng thiếu những chỉ tiêu phản ánh về môi sinh, môi trường, phát triển nông nghiệp bền vững,... Mặt khác, trong cuộc Tổng điều tra ở nước ta năm 1994 cũng không điều tra ở khu vực thành thị. Qui định này, ngay trong quá trình điều tra không ít tỉnh (TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai,) đã phải điều tra thêm các hộ nông, lâm nghiệp, thuỷ sản khu vực thành thị để có thể tổng thể chung hộ nông, lâm nghiệp, thuỷ sản toàn tỉnh. Quá trình tổng hợp số liệu chung cũng cho thấy: qui định này đã làm thiếu đi bức tranh chung về nông, lâm nghiệp và thuỷ sản cả nước và không đồng nhất khi so sánh kết quả TĐTNN với các nước. Trong khi đó chỉ tiêu sản lượng cây lâu năm được điều tra toàn bộ, tổng hợp kết quả cho thấy chất lượng số liệu rất thấp, không sử dụng được. Nội dung điều tra mẫu bên cạnh những nội dung thiết thực (cơ cấu kinh tế nông thôn, hiệu quả sản xuất cây trồng, con gia súc chủ yếu) cũng có những nội dung (như: Thu nhập, chi tiêu và nhà ở) của hộ nông thôn trùng lắp với điều tra toàn diện và với cuộc điều tra về mức sống dân cư. Do đó, từ cuộc TĐTNTNN & TS những năm 2001, 2006 để khắc phục những nhược điểm nêu trên đã không 38 CHUYÊN SAN TỔNG ĐIỀU TRA NÔNG THÔN, NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN NĂM 2011 Kinh nghiệm Tổng điều tra điều tra sản lượng cây lâu năm, không điều tra thu nhập, chi tiêu và nhà ở của hộ. Đồng thời bổ sung điều tra hộ nông, lâm nghiệp, thuỷ sản khu vực thành thị và các chỉ tiêu điều tra về thuỷ sản, vốn đầu tư phát triển của hộ nông thôn, Trong nội dung TĐTNTNN & TS năm 2011 đã có những cải tiến cơ bản sau: - Khai thác nhiều nhất dữ kiện từ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 (như: các bản vẽ sơ đồ địa bàn, bảng kê hộ dân số, các khái niệm hộ, nhân khẩu thường trú, 15% số địa bàn mẫu chủ,) để làm căn cứ lập bảng kê danh sách các hộ tại địa bàn thôn/xã điều tra và xây dựng qui trình điều tra hộ mẫu. - Cân đối nội dung TĐTNTNN & TS với các cuộc điều tra khác trong chương trình điều tra thống kê quốc gia của ngành Thống kê để giảm bớt những nội dung đã được điều tra (như điều tra doanh nghiệp, điều tra mức sống dân cư, điều tra lao động - việc làm,). Từ đó tinh giản không điều tra các doanh nghiệp, HTX nông, lâm nghiệp, thuỷ sản vì đã điều tra doanh nghiệp hàng năm; không điều tra thu nhập, chi tiêu của hộ dân cư vì Vụ Thống kê Xã hội - Môi trường đã điều tra theo chu kỳ 2 năm tổ chức một lần vào các năm chẵn,... - Bổ sung một thêm nhiều nội dung mới theo khuyến nghị của FAO phục vụ yêu cầu đánh giá thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs) của Liên Hợp Quốc (như: an ninh lương thực, bình đẳng giới, bảo vệ môi trường, lao động việc làm, xoá đói giảm nghèo,) cũng như bổ sung thêm yêu cầu mới của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 về vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân (như: phát triển nông nghiệp bền vững; kết quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về hỗ trợ người nghèo; đào tạo nghề cho lao động nông thôn; vai trò phụ nữ trong sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản; ảnh hưởng của sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản đến môi trường,). Cùng với hoàn thiện nội dung điều tra, là việc chuẩn hoá các khái niệm, nội dung và phương pháp tính chỉ tiêu, mã hoá chỉ tiêu và chuẩn hoá con số đáp ứng yêu cầu tổng hợp xử lý bằng kỹ thuật hiện đại (Scanning). Về phương pháp Tổng điều tra: Cùng với việc bổ sung hoàn thiện nội dung Tổng điều tra, phương pháp điều tra cũng được hoàn thiện từng bước. Một thay đổi lớn so với cuộc Tổng điều tra năm 1994 là đã xây dựng được 6 qui trình thực hiện trong các cuộc Tổng điều tra từ năm 2001 đến nay (gồm: qui trình lập bảng kê, tập huấn nghiệp vụ, thu thập và kiểm tra tại địa bàn, điều tra mẫu, phúc tra, nghiệm thu). Các qui trình này được coi như những chuẩn mực phải thực hiện nghiêm túc trong Tổng điều tra, đây là một trong các yếu tố quyết định giảm bớt sai số phi chọn mẫu, nâng cao chất lượng số liệu Tổng điều tra. Ví dụ: Trong qui trình thu thập và kiểm tra thu thập số liệu tại địa bàn điều tra đã qui định rõ việc làm trong từng ngày của điều tra viên và tổ trưởng điều tra; cách phỏng vấn đối tượng điều tra, cách kiểm tra cân đối chỉ tiêu trong từng phiếu điều tra và giữa các phiếu điều tra; cách bàn giao tài liệu hàng ngày giữa tổ trưởng và điều tra viên; cách kiểm tra ngẫu nhiên của tổ trưởng với điều tra viên, Những bổ sung thay đổi về qui trình điều tra nêu trên ngày càng hoàn thiện hơn trong các cuộc TĐTNTNN & TS sau (xem bài giới thiệu về các qui trình áp dụng trong TĐTNTNN & TS năm 2011). Phương pháp điều tra mẫu trong TĐTNTNN & TS ngày càng được hoàn thiện theo hướng khách quan, khoa học hơn trong từng bước phân tầng, chọn mẫu theo khoảng cách, khắc phục cách chọn chủ quan, tuỳ tiện. Nếu như năm 1994 phạm vi điều tra còn bao gồm cả 2 khu vực nông thôn và thành thị thì đến các cuộc Tổng điều tra từ năm 2001 đến nay chỉ tập trung điều tra mẫu ở khu vực nông thôn, phục vụ giải đáp các yêu cầu thiết thực những mục tiêu quốc gia trong từng thời kỳ đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân (xem bài nội dung và 39THÁNG 6 - 2011 Kinh nghiệm Tổng điều tra phương pháp điều tra mẫu trong TĐTNTNN & TS năm 2011). Về thời điểm, thời kỳ trong Tổng điều tra: Đối với nước ta, một cộng đồng 54 dân tộc, diện tích tự nhiên trải dài hàng nghìn km từ Bắc xuống Nam với địa hình phức tạp (miền núi, trung du, đồng bằng, hải đảo), khí hậu, thời tiết đa dạng biến đổi khác nhau theo từng vùng miền,... Điều đó cho thấy: chọn được thời điểm Tổng điều tra thích hợp cho tất cả các vùng, miền ở nước ta là rất khó. Thực tế cuộc TĐTNT NN & TS năm 2001 chọn vào tháng 10 (từ 01 - 30/10/2001), đối với Đồng bằng sông Cửu long là vào mùa ngập lũ, nên đã gặp rất nhiều khó khăn, tốn kém thêm kinh phí cho việc di chuyển của điều tra viên và kiểm tra giám sát của Tổ trưởng điều tra cũng như của BCĐTĐT các cấp. Do vậy, các cuộc tổng điều tra TĐTNT NN & TS từ năm 2006 đến nay đều được qui định sớm hơn vào ngày 01/7. Tuy vậy, vào thời điểm này đối với các tỉnh miền núi, Tây Nguyên ở một số huyện, xã thuộc vùng sâu , vùng xa của tỉnh nếu mùa mưa đến sớm cũng có thể gặp nhiều khó khăn trong việc điều tra. Trong cuộc TĐTNTNN năm 1994 (vào ngày 01/7/1994) đã cho phép những huyện, xã đặc thù có thể triển khai điều tra sớm hơn (nhưng không được sau ngày 01/7 làm ảnh hưởng tiến độ chung của cuộc Tổng điều tra) và phải báo cáo và được sự nhất trí của cơ quan thường trực Tổng điều tra (Tổng cục Thống kê). Về thời kỳ trong TĐTNTNN & TS cho đến nay đều lấy trong 12 tháng qua (tính từ ngày 01/7 năm trước đến ngày 30 tháng 6 năm Tổng điều tra). Những bổ sung thay đổi khác trong Tổng điều tra: Có rất nhiều những bổ sung thay đổi khác trong các bước tổ chức chỉ đạo thực hiện TĐTNTNN & TS từ năm 1994 đến nay: - Trước hết, rút kinh nghiệm từ việc không thành lập Ban chỉ đạo Tổng điều tra Trung ương năm 1994 khiến cho việc điều hành, phối hợp giữa các Bộ ngành liên quan ở TW thiếu chặt chẽ. Từ cuộc TĐTNTNN & TS năm 2001 đều thành lập Ban chỉ đạo ở cả 4 cấp (TW, tỉnh, huyện, xã) để đảm bảo tính hệ thống, hiệu lực và thông suốt từ TW đến cơ sở. - Đổi mới cách phân công, phân rõ trách nhiệm của từng ngành, từng cấp, mở rộng thêm quyền và trách nhiệm cho địa phương; cải tiến cách phân công trong Tổ thường trực TW theo nhóm chuyên trách (nhóm nghiệp vụ, nhóm biểu mẫu và nhóm kinh phí) đã nâng cao tính chuyên nghiệp và trách nhiệm cụ thể của từng nhóm. - Công tác kiểm tra, giám sát của Ban chỉ đạo các cấp được tăng cường hơn trong mỗi cuộc TĐTNTNN & TS đã góp phần nâng cao trách nhiệm điều tra, nâng cao chất lượng số liệu điều tra. - Để đảm bảo tiến độ thời gian, công việc, chất lượng số liệu Tổng điều tra trong công tác tuyển chọn điều tra viên đã bổ sung những tiêu chuẩn, qui chế chặt chẽ. Rút kinh nghiệm từ cuộc TĐTNT, NN năm 1994 không có tổ trưởng giám sát điều tra tại địa bàn đã gây tốn kém thêm rất nhiều công sức, kinh phí để làm sạch phiếu. Từ cuộc TĐTNTNN & TS 2001 đến nay, tổ trưởng điều tra được tuyển chọn kỹ càng với các tiêu chuẩn, chất lượng đòi hỏi cao hơn điều tra viên./. 40 CHUYÊN SAN TỔNG ĐIỀU TRA NÔNG THÔN, NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN NĂM 2011 Kinh nghiệm Tổng điều tra

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcsnn_b5_7392_2214896.pdf
Tài liệu liên quan