Tài liệu Những thành tựu của văn hóa phương tây cổ trung đại và ảnh hưởng đối với nền văn hóa thế giới: NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY CỔ TRUNG
ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NỀN VĂN HÓA THẾ GIỚI
(P2)
II. Những thành tựu của văn hóa phương Tây cổ - trung đại và ảnh
hưởng của nó đối với nền văn hóa thế giới
1. Chữ viết
Những thành tựu huy hoàng của văn minh Hi Lạp đã trở thành mẫu mực và
đỉnh cao cuả nhiều thời đại. Đó là kết quả của một nền kinh tế phát triển cao,
một thể chế dân chủ không bị chi phối bởi tôn giáo và sự tiếp thu một cách
tinh tế những thành tựu của văn hóa phương Đông.
Chữ viết của Hi Lạp đã xuất hiện từ thời Crete – Mycenae. Vào những năm
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, người ta đã tìm thấy hàng nghìn tấm đất sét
được khắc chữ cổ được xác định là của thời kì này.
Sau khi bị người Dorien thống trị, loại chữ trên đã bị mai một. Đến cuối thế
kỉ VII TCN, người Hi Lạp khôi phục lại chữ viết của mình trên cơ sở văn tự
của người Phoenicia. Đến năm 403 TCN, nhà nước Athens đã thống nhất
quy định thể thức viết từ trái sang phải và giảm từ 40 chữ ...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 816 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những thành tựu của văn hóa phương tây cổ trung đại và ảnh hưởng đối với nền văn hóa thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY CỔ TRUNG
ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NỀN VĂN HÓA THẾ GIỚI
(P2)
II. Những thành tựu của văn hóa phương Tây cổ - trung đại và ảnh
hưởng của nó đối với nền văn hóa thế giới
1. Chữ viết
Những thành tựu huy hoàng của văn minh Hi Lạp đã trở thành mẫu mực và
đỉnh cao cuả nhiều thời đại. Đó là kết quả của một nền kinh tế phát triển cao,
một thể chế dân chủ không bị chi phối bởi tôn giáo và sự tiếp thu một cách
tinh tế những thành tựu của văn hóa phương Đông.
Chữ viết của Hi Lạp đã xuất hiện từ thời Crete – Mycenae. Vào những năm
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, người ta đã tìm thấy hàng nghìn tấm đất sét
được khắc chữ cổ được xác định là của thời kì này.
Sau khi bị người Dorien thống trị, loại chữ trên đã bị mai một. Đến cuối thế
kỉ VII TCN, người Hi Lạp khôi phục lại chữ viết của mình trên cơ sở văn tự
của người Phoenicia. Đến năm 403 TCN, nhà nước Athens đã thống nhất
quy định thể thức viết từ trái sang phải và giảm từ 40 chữ cái xuống còn 27
chữ 9sau này rút lại còn 24 chữ). Loại chữ này được sử dụng rộng rãi và
được coi là thứ chữ đẹp nhất thế giới bởi sự cân đối, hài hòa, thanh nhã và
tiện dụng.
So với hệ thống chữ tượng hình của người phương Đông, hệ thống chữ cái
Hi Lạp đã đạt đến trình độ khái quát hóa rất cao. Với khoảng hơn 20 chữ cái
người ta có thể diễn đạt mọi ý tưởng trừu tượng nhất bằng cách ghép chữ
dựa theo âm tiết. Đây là một trong những cống hiến lớn lao của Hi Lạp vào
kho tàng văn hóa chung của nhân loại. Từ chữ cái Hy Lạp cổ sau này đã
hình thành nên chữ cái Latinh và chữ cái Cyrill (của các ngôn ngữ gốc Slav).
Đó là các cơ sở chữ cái mà nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay đang sử
dụng.
Tiếng Hy Lạp viết bằng bảng chữ cái Hy Lạp có từ thế kỷ thứ 8 trước Công
nguyên. Bảng chữ cái Hy Lạp bao gồm:
Chữ Hoa:
Α, Β, Γ, Δ, Ε, Ζ, Η, Θ, Ι, Κ, Λ, Μ, Ν, Ξ, Ο, Π, Ρ, Σ, Τ, Υ, Φ, Χ, Ψ, Ω.
Chữ Thường:
α, β, γ, δ, ε, ζ, η, θ, ι, κ, λ, μ, ν, ξ, ο, π, ρ, σ (ς), τ, υ, φ, χ, ψ, ω.
Tiếng Hy Lạp được dạy trong các trường và đại học ở nhiều nước từ thời
Phục hưng trở đi. Tiếng Hy Lạp hiện nay có khác nhiều so với tiếng Hy Lạp
cổ đại nhưng vẫn có thể nhận ra nhiều điểm giống nhau. Trên thế giới có
khoảng 12 triệu người sử dụng tiếng Hy Lạp (ở Hy Lạp và những quốc gia
có người Hy Lạp sinh sống).
Ở La Mã, chữ viết của người Etrusque xuất hiện vào khoảng thế kỉ VIII –
VII TCN nhưng đến hiện giờ người ta vẫn chưa đọc được loại chữ này. Theo
nhiều nguồn tài liệu, người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN
có nguồn gốc từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hy Lạp cổ, người La Mã
đã bổ sung và hoàn thiện, đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta
quen gọi là chữ Latinh.
Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng trở nên
phổ biến và được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La Mã. Chữ
Latinh chính là nguồn gốc của nhiều ngôn ngữ châu Âu hiện đại (Ý, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha, PhápNgười La Mã còn để lại hệ thống chữ số mà
ngày nay người ta vẫn thường dùng và quen gọi là chữ số La Mã.
Có thể nói, từ bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ mà ngày
nay được sử dụng làm ngôn ngữ chung cho cả thế giới, trên tất cả các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học, nghệ thuậtmang mọi nền
văn hóa của các quốc gia dần xích lại gần nhau hơn.
2. Văn học
Văn học Hi Lạp gồm 3 bộ phận gắn bó chặt chẽ với nhau: thần thoại, thơ,
kịch. Theo tiếng Hi Lạp thần thoại có nghĩa là một tập hợp, tổng thể những
câu chuyện dân gian truyền miệng với những nội dung hoang đường, kì ảo
gồm những truyện về sự sáng tạo thế giới, các đấng thần linh, các anh hùng,
dũng sĩ Hi Lạp... Điểm nổi bật trong thần thoại Hi Lạp chính là hình ảnh các
vị thần. Hệ thống các vị thần trong thần thoại Hi Lạp đa dạng và phong phú,
được miêu tả rất gần với cuộc sống đời thường của con người, khác với các
vị thần của phương Đông. Sau này người La Mã đã tiếp thu các vị thần của
Hi Lạp và cải biên đi thành các vị thần của mình:
- Thần Zeus – thần Jupiter: thần sấm sét tối cao trong 12 vị thần trên đỉnh
Olympus
- Nữ thần Aphrodite – nữ thần Venus: thần tình yêu và sắc đẹp
- Nữ thần Demeter – nữ thần Cerès: nữ thần nông nghiệp
Thần thoại Hi Lạp là những câu chuyện rất hấp dẫn về các vị thần và các anh
hùng với những tính cách, khát vọng, tình cảm gần gũi với con người. Đằng
sau cái vẻ cổ xưa thần thoại là những vấn đề nhân văn và nhân sinh rất con
người được thể hiện qua hình ảnh các vị thần. Không phải ngẫu nhiên mà
cho đến nay vô số chủ đề thơ kịch, tiểu thuyết của châu Âu lấy đề tài từ
những vị thần của Hi Lạp. Những giá trị nhân văn của văn học Phục hưng có
thể được bắt nguồn từ đây.
Thần thoại Hi Lạp là nguồn cảm hứng cho nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác
của Hi Lạp: thơ, kịch, kiến trúc, điêu khắc
Về thơ ca, nổi bật lên là 2 bộ sử thi Iliade và Odixe của Homer, có giá trị cả
về lịch sử lẫn văn học, để lại cho thế giới nhiều điển tích VH cho đến ngày
nay: gót chân Asin, con ngựa thành TroyHai bộ sử thi này cũng được
nhiều nhà văn, nhà thơ La Mã lựa chọn đề tài để sáng tác.
Nghệ thuật kịch Hi Lạp ra đời và phát triển rực rỡ với nhiều nhà soạn kịch
nổi tiếng: Etsin, SôpôclơĐây chính là nguồn gốc của kịch châu Âu đương
đại. Sau này chính Shakespear là người đã kế thừa truyền thống và tinh hoa
của kịch Hi Lạp, La Mã cổ đại đưa nghệ thuật kịch lên tuyệt đỉnh.
Nghệ thuật kịch Hi Lạp đã cho ra đời một công trình kiến trúc khá hiện đại
và quy mô: nhà hát Athens.
Văn học La Mã về sau chủ yếu tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn
học Hi Lạp. Hai tập sử thi nổi tiếng của Hi Lạp là Iliat va Ôđixe đã trở thành
nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà soạn kịch La Mã tiêu biểu như nhà
thơ Vieecsgilut với trường ca Eneit có chủ đề, kết cấu, tình tiết ngôn từ được
phỏng theo sử thi Iliat và Ôđixe. Hay các nhân vật trong Iliat và Ôđixe như
tráng sĩ Agamemnong trở thành nhân vật trong vở Orextex của Etsin.
Thời kì Phục hưng, trên cơ sở kế thừa những thành tựu của văn học Hi Lạp
và La Mã, văn học Tây Âu phát triển rực rỡ, để lại nhiều tác phẩm giá trị cho
văn học thế giới.
Về thơ ca, tiêu biểu là Đantê với “Thần khúc”, mở đầu cho thơ ca thời kì
phục hưng. Ngoài ra còn có Pêtêraca, Bôcaixôđây đều là những tác giả
say mê nghiên cứu và chịu những ảnh hưởng nhất định từ nền văn học của
Hi Lạp và La Mã. Về tiểu thuyết, Rabơle được xem là học giả vĩ đại nhất
của văn học Phục hưng Pháp với tác phẩm “Cuộc đời đáng chán của người
khổng lồ Gácgăngchuya và người con Păngtagruyen”, trở thành cha đẻ của
hai nhân vật khôi hài nhất trong lịch sử văn chương. Đặc biệt trong nền văn
học Phục hưng nổi lên một học giả lừng danh là nhà văn Xecvantec với tác
phẩm Đônkihôtê. Cuốn tiểu thuyết là một bắc tranh chân thực, rõ ràng về xã
hội Tây Ban Nha thế kỉ XVI, đồng thời cũng là tác phẩm châm biếm toàn bộ
xã hội phong kiến. Giá trị và ảnh hưởng của tác phẩm không cần phải nói gì
nhiều, chỉ nghe đến tên thì rất nhiều người biết rất rõ về tác giả và tác phẩm,
đủ cho thấy tầm ảnh hưởng của nó rộng rãi như thế nào.
Về kịch, đại văn hào William Shakespears đã trở thành nhà soạn kịch vĩ đại
của không chỉ của nước Anh mà của cả thế giới với các tác phẩm: Romeo và
Juliet, Hămlet, Macbeth, vua LearNhững tác phẩm của ông vừa mang tính
chất bi kịch vừa mang tính chất hài kịch nhưng tràn đầy một sức sống huy
hoàng, mạnh mẽ. Tài năng và tầm ảnh hưởng của ảnh hưởng của ông đã
được cả thế giới công nhận “Shakespear không chỉ thuộc về nước Anh mà
ông thuộc về mọi thời đại”, các tác phẩm của ông cho đến ngày nay vẫn
đang được biểu diễn trên khắp các sân khấu kịch châu Âu và thế giới. Tài
năng của Shakespears được K. Marx và F. Engels nhắc nhiều trong các tác
phẩm của mình.
Tại Việt Nam, sau 1975 ở trường phổ thông và đại học đã bắt đầu giảng dạy
một số tác phẩm của Shakespear
*Vài nét về Shakespears: ông sinh ra và lớn lên ở Staford, trong một gia
đình khá giả, ông được học hành tử tế cho đến năm 18 tuổi phải thôi học vì
hoàn cảnh gia đình và lấy vợ. Cuộc đời Shakespear trải qua nhiều thăng
trầm, để có thể viết kịch và làm trong nhà hát ông đã phải làm rất nhiều
nghề: nhắc tuồng, giữ chân ngựa, sửa bản innhưng cuối cùng đã trở thành
một nhà viết kịch thiên tài của thế giới.
Nhìn chung, văn học thời kì Phục hưng mang tính nhân văn sâu sắc, một mặt
văn học đóng vai trò phê phán lên án giáo hội và phong kiến, mặt khác nó lại
đề cao những giá trị con người, tính lạc quan, lòng yêu tự do, công bằng,
danh dự Tuy nhiên nền văn học Phục hưng cũng là một trong những cơ sở
cho sự ra đời của chủ nghĩa cá nhân sau này.
Tóm lại, trải qua một thời dài từ cổ đại đến trung đại, nền văn học phương
Tây đã để lại cho thế giới một kho tàng văn học đồ sộ với một hệ thống các
tác phẩm có giá trị về nhiều mặt, nhiều tác phẩm được xem là khuôn mẫu,
chuẩn mực cho văn học và nghệ thuật của châu Âu và thế giới. Sự đóng góp
và ảnh hưởng của những thành tựu văn học phương Tây cổ trung đại đối với
châu Âu và thế giới không chỉ trong giai đoạn cổ trung đại mà cho đến tận
ngày nay, nhiều tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị và không ngừng được khai
thác, nghiên cứu, phát triển nhiều mặt.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_thanh_tuu_cua_van_hoa_phuong_tay_co_trung_dai_va_anh_huong_doi_voi_nen_van_hoa_the_gioi_8127_2.pdf