Tài liệu Những nhân tố thành công trong dự án hợp tác quốc tế của một số trường Đại học tại Việt Nam: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 66 (6/2019) No. 66 (6/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
55
NHỮNG NHÂN TỐ THÀNH CÔNG TRONG DỰ ÁN HỢP TÁC QUỐC TẾ
CỦA MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM
Success factors in the international cooperation project
of some universities in Vietnam
ThS. Lê Văn Hinh(1), TS. Đỗ Đình Thái(2)
(1)Trường Đại học Kinh tế Luật – ĐHQG TP.HCM
(2)Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Quốc tế hoá giáo dục là điều không thể tránh khỏi trong nền kinh tế trí thức của thế kỷ 21. Nhiều nhân
tố như đa dạng hoá, mở rộng quy mô, tư nhân hoá tác động không nhỏ đến giáo dục đại học trong làn
sóng quốc tế hoá. Vì vậy, các cơ sở giáo dục đào tạo đại học cần xem xét lại các mối quan hệ hợp tác
quốc tế của mình và cần có những chiến lược cần thiết đế thích ứng với tình hình hình mới. Trong
khuôn khổ bài viết này, nhóm tác giả tập tru...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nhân tố thành công trong dự án hợp tác quốc tế của một số trường Đại học tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 66 (6/2019) No. 66 (6/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
55
NHỮNG NHÂN TỐ THÀNH CÔNG TRONG DỰ ÁN HỢP TÁC QUỐC TẾ
CỦA MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM
Success factors in the international cooperation project
of some universities in Vietnam
ThS. Lê Văn Hinh(1), TS. Đỗ Đình Thái(2)
(1)Trường Đại học Kinh tế Luật – ĐHQG TP.HCM
(2)Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Quốc tế hoá giáo dục là điều không thể tránh khỏi trong nền kinh tế trí thức của thế kỷ 21. Nhiều nhân
tố như đa dạng hoá, mở rộng quy mô, tư nhân hoá tác động không nhỏ đến giáo dục đại học trong làn
sóng quốc tế hoá. Vì vậy, các cơ sở giáo dục đào tạo đại học cần xem xét lại các mối quan hệ hợp tác
quốc tế của mình và cần có những chiến lược cần thiết đế thích ứng với tình hình hình mới. Trong
khuôn khổ bài viết này, nhóm tác giả tập trung khai thác các khía cạnh thành công trong mối quan hệ
hợp tác giữa 2 cơ sở giáo dục đào tạo trong quá trình quốc tế hoá giáo dục và qua đó đưa ra các giải
pháp cho một mối quan hệ hợp tác thành công.
Từ khóa: dự án, giáo dục đại học, hợp tác, quốc tế hoá
ABSTRACT
Internationalization in higher education is an inevitable result of the globalized and knowledge-based
economy of the 21st century. Other trends affecting the universities, including diversification,
expansion, privatization, and so on, have a significant impact on the international role of academic
institutions. Therefore, the intersection of the logic of globalization and other pressures facing
universities makes a reconsideration of international programs and strategies necessary. In this article,
the authors focus on exploiting the successful aspects of the cooperation in terms of internationalization
in higher education between two educational institutions and thereby devising solutions for a successful
cooperative relationship.
Keywords: project, higher education, cooperation, internationalization
1. Mở đầu
Trong trào lưu quốc tế hoá giáo dục,
các cơ sở giáo dục (CSGD) đào tạo phải nỗ
lực nhằm tìm kiếm, thiết lập và triển khai
các mối quan hệ với mục tiêu nâng cao chất
lượng đào tạo, cải thiện khả năng nghiên
cứu, tìm kiếm nguồn tài trợ và tăng cường
năng lực cho đội ngũ cán bộ thông qua
nhiều dạng hợp tác khác nhau. Trong quá
trình triển khai quan hệ hợp tác giữa 2
CSGD đào tạo, quan hệ tốt sẽ giúp nâng tầm
hai bên và ngày càng giúp hai đơn vị thắt
chặt mối quan hệ và phát triển trên nhiều
khía cạnh khác nhau. Và đôi khi, không
phải hợp tác nào cũng đi đến thành công
như mong đợi.
Email: thaidd@sgu.edu.vn
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019)
56
Các trường đại học (ĐH) của Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu thế quốc tế hoá
giáo dục này. Minh chứng là các hoạt động
quốc tế hoá giáo dục giữa các trường ĐH tại
Việt Nam và trên thế giới diễn ra rất sôi động
thông qua nhiều dạng hợp tác quốc tế khác
nhau. Hợp tác giữa ĐH Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) và ĐH
California tại Fullerton vào năm 2008 trong
việc đào tạo quản trị ĐH cho các cán bộ
nguồn của ĐHQG-HCM; năm 2012, Trường
ĐH Kinh tế - Luật (UEL) và Trường ĐH
Paris 1 và ĐH Paris 2 đã triển khai việc mở
các chương trình liên kết đào tạo thạc sỹ luật
dân sự và luật kinh doanh quốc tế; Cũng
trong năm 2018, hợp tác giữa UEL và
Trường ĐH Dublin City với sự tài trợ kinh
phí Đại sứ quán Ireland trong việc hợp tác
nghiên cứu, đào tạo và trao đổi cán bộ giảng
viên giữa 2 trường. Ngoài khuôn khổ hợp tác
của ĐHQG-HCM, hợp tác giữa Trường ĐH
Sài Gòn và Trường ĐH khoa học ứng dụng
IMC Krems trong việc mở chương trình liên
kết giữa hai bên. Hình thức hợp tác thứ hai
chúng ta có thể thấy là tài trợ học bổng để
trao đổi giảng viên giữa hai nước hoặc trao
học bổng cho sinh viên, hợp tác giữa UEL và
Quỹ Phát triển Châu Á (ADF) trong việc tài
trợ học bổng 10.000 USD/năm cho sinh viên
giỏi của UEL cũng trong năm 2018. Ngoài
ra, hợp tác còn diễn ra dưới hình thức là tài
trợ kinh phí để xây dựng phòng thí nghiệm
như hợp tác giữa ĐHQG-HCM và ĐH
California at Los Angeles (UCLA) trong
việc xây dựng Phòng thí nghiệm vật liệu
khung cơ kim, mạng lưới các trường ĐH kỹ
thuật (RESCIF) tài trợ cho ĐH Bách khoa
Thành phố Hồ Chí Minh trong việc xây dựng
Phòng thí nghiệm nghiên cứu về nước ở
Châu Á, năm 2011, Trường ĐH Concordia,
Canada đã hợp tác và tài trợ cho ĐHQG-
HCM 20.000 cuốn sách trên nhiều lĩnh vực
khác nhau. Sau cùng là hợp tác toàn diện
giữa hai đơn vị: ĐHQG-HCM hợp tác với
Viện Bách khoa Quốc gia Grenoble
(Grenoble INP) trong việc trao đổi giảng
viên, sinh viên, hỗ trợ các trang thiết bị và
xin nguồn tài trợ của 2 chính phủ để triển
khai các nghiên cứu chung của hai bên.
Như vậy, quốc tế hoá GDĐH diễn ra
dưới nhiều hình thức: (1) trao đổi giảng
viên và sinh viên, trao đổi cán bộ; (2) hợp
tác nghiên cứu khoa học; (3) xây dựng dự
án; (4) trao học bổng; (5) tài trợ các trang
thiết bị và các tài liệu nghiên cứu; (6) đào
tạo các bộ nguồn; (7) mở chương trình liên
kết đào tạo; (8) và các hình thức hợp tác
khác.
Các hình thức hợp tác này diễn ra dưới
một tên chung là dự án hợp tác giữa hai
CSGD giáo dục ĐH. Để đánh giá một mối
quan hệ hợp tác, nhóm tác giả đã đưa ra
các khái niệm dự án, hợp tác và đánh giá
và lấy ý kiến các đối tượng có liên quan
làm việc tại các trường đại học tại Thành
phố Hồ Chí Minh và Hà Nội để rút ra được
các yếu tố đóng góp cho một mối quan hệ
hợp tác thành công.
2. Nội dung nghiên cứu
Như đã nêu trong phần một, tất cả các
hình thức hợp tác trên đây đều diễn ra dưới
dạng dự án. Khái niệm về dự án luôn xuất
hiện trong các tổ chức kinh tế, giáo dục, xã
hội và điều đó cho thấy được tầm quan
trọng của khái niệm này. Trong khuôn khổ
bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích
các khái niệm có liên quan đến việc đánh
giá sự thành công của một dự án, đặc biệt
sự hợp tác thành công của các CSGD ĐH.
2.1. Một số khái niệm
2.1.1. Dự án
Tự điển Larousse1 định nghĩa:
LÊ VĂN HINH và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
57
- Dự án bao gồm các mục đích mà
chúng ta cố gắng đạt đến, là mục tiêu hàng
đầu để nghiên cứu và chỉnh sửa; Trung tâm
quốc gia về ngữ vựng của Pháp cho rằng dự
án là điều mà chúng ta dự kiến làm và cần
các phương tiện cần thiết để thực hiện, mục
tiêu hàng đầu để nghiên cứu và chỉnh sửa.
Theo lesdefinitions.fr cho thấy nghĩa
của từ dự án có rất nhiều nội dung khác
nhau:
- Dự án là tập hợp các hoạt động được
điều phối và hoàn thành một mục tiêu chính
xác, và được hoàn thành trong một khoảng
thời gian xác định cùng với kinh phí được
bố trí cho nó. Dự án được đánh giá như kế
hoạch, chương trình hoặc ý tưởng.
- Ngoài ra, dự án là việc ứng dụng các
kiến thức, phương tiện kỹ thuật vào các
hoạt động của dự án. Một dự án trải qua
nhiều hoạt động: từ ý tưởng ban đầu, nảy
sinh nhu cầu và cơ hội dành cho dự án. Kế
tiếp là thiết kế dự án và đưa ra các kế
hoạch và chiến lược để thực hiện và có
mục tiêu thực hiện. Và sau cùng, sau khi
hoàn thành dự án phải có đánh giá.
Theo tổ chức ISO, tiêu chí 10006, dự
án bao gồm ngày bắt đầu, ngày kết thúc và
nhằm đạt được một mục đích cụ thể ứng với
một mục tiêu, thời gian và chi phí nguồn lực
cụ thể. Để một dự án thành công, dự án bao
gồm 2 yếu tố và 4 giai đoạn. Yếu tố thức
nhất, ý tưởng ban đầu nhằm xây dựng kế
hoạch, dự đoán các tình huống trong tương
lai mà người tham gia chưa nghĩ đến và yếu
tố thứ hai, ý tưởng để thúc đẩy một trường
hợp thông qua tính tự nguyện của con
người. Giai đoạn thứ nhất, nhận diện việc
phải thay đổi thông qua dự án; giai đoạn thứ
hai, lựa chọn chiến lược hợp lý nhất: xây
dựng được các hành động để vượt qua khó
khăn; giai đoạn thứ ba, thực hiện chương
trình: triển khai chiến lược đã lựa chọn để
đạt được các mục tiêu đề ra, mục tiêu ấn
định và sự thay đổi mong muốn và giai
đoạn thứ tư, đánh giá kết quả đạt được.
(Paturet, 2003)
Hầu hết hợp tác nào cũng đều diễn ra
dưới hình thức dự án. Để một dự án thành
công cần đòi hỏi bốn yếu tố: (1) yếu tố thời
gian, (2) yếu tố con người, (3) yếu tố kinh
tế và (4) yếu tố phương pháp (Paturet,
2003). Các CSGD ĐH cần xác định rõ
trong mỗi giai đoạn, mục tiêu cần đạt được
là gì. Bên cạnh đó, cần phải có đánh giá
nghiên cứu tiền khả thi (Feasibility Study)
về khả năng tài chính cung cấp cho dự án
trước khi dự án được bắt đầu nhằm đạt
được những mục tiêu đề ra ban đầu đối với
những dự án được nhìn dưới góc độ tài
chính. Dự án thành công hay không phụ
thuộc phần lớn vào phương pháp quản trị
mà hai bên áp dụng cho dự án của mình và
một yếu tố cực kỳ quan trọng là con người.
Một dự án thành công hay không nhờ vào
sự đóng góp của nhân lực tham gia dự án
đó. Sự thành công của dự án góp phần thắt
chặt mối quan hệ hợp tác và tạo cơ hội mở
rộng trên nhiều lĩnh vực. Để một dự án
thành công, hai CSGD đào tạo cần thiết lập
một mối quan hệ hợp tác.
2.1.2. Hợp tác
Theo tự điển Larousse2 định nghĩa hợp
tác bao gồm các đối tác kinh tế, xã hội nhằm
hướng tới việc thiết lập một mối quan hệ
chặt chẽ. Hợp tác có những mối quan hệ xen
kẽ nhau. Theo Trung tâm quốc gia về ngữ
vựng của Pháp, hợp tác chủ yếu dành cho
con người và xã hội: hợp tác là một hành
động chung giữa các cơ quan khác nhau
trong cùng một mục đích cụ thể; Dhume
(2006) hợp tác là một trong các dạng làm
việc cùng nhau; trong quá trình làm việc
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019)
58
triển khai hợp tác, có thể có xảy ra xung đột;
hợp tác thường là một phi vụ có thương
lượng giữa các đơn vị; giữa các đối tác, mối
quan hệ có thể không bình đẳng.
Hợp tác có thể do mục đích kinh tế, tài
chính, nghiên cứu khoa học, văn hoá và
nghệ thuật v.v Hợp tác để tạo ra sức
mạnh cộng hưởng, tạo ra nguồn lực chung
và có được lợi ích bổ sung cho mỗi bên và
hạng mục công việc. Hợp tác giữa các đối
tác được công nhận thông qua hợp đồng
mà trong đó nêu lên trách nhiệm cụ thể của
mỗi bên về tài chính. Vì vậy, thương lượng
giữa các đối tác là điều không thể tránh
khỏi nhằm có được những lợi ích chung.
Theo Fabrice Dhume (2006), trong
một dự án hợp tác luôn luôn tồn tại những
quyền lợi khác nhau, thậm chí có xung đột
khi dự án đang diễn ra. Các mối quan hệ
hợp tác không thể công bằng đối với các cơ
sở đào tạo khi cùng triển khai một dự án,
đôi khi hai bên phải cùng thay đổi để đạt
được những lợi ích chung. Zay và Gonnin-
Bolo (1995) cho rằng, hợp tác thành công
hay không tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa
các đối tác có bền chặt hay không và được
dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá sau mỗi
giai đoạn.
2.1.3. Đánh giá
Theo Rangeon (1993), đánh giá được
thiết kế như một phương pháp nhằm đo các
kết quả của một hoạt động và tăng tính
hiệu quả. Đánh giá là một khái niệm đo
lường năng suất lao động, Theo tự điển
Larousse, đánh giá nhằm xác định được giá
trị của một sự việc, đo chất lượng và giá
trị; Trung tâm quốc gia về ngữ vựng của
Pháp cho rằng đánh giá nhằm đưa ra các
nhận định tốt về giá trị của một sự vật.
Đánh giá là đưa ra một nhận định và đưa ra
quyết định. Trong mọi đánh giá, sự vật
được đánh giá là định lượng được cho
trước và không có gì thay đổi.
Đánh giá được thực hiện vào nhiều
thời điểm khác nhau và mỗi thời điểm
mang một mục đích khác nhau như đánh
giá khi bắt đầu của hành động, đánh giá
trong quá trình diễn ra hành động và đánh
giá cuối hành động
2.2. Kết quả nghiên cứu
2.2.1. Thông tin khảo sát
Nghiên cứu xây dựng bảng hỏi gồm 18
câu tập trung vào những nhân tố thành
công cũng như thất bại của 1 dự án, thời
gian lý tưởng dành cho 1 dự án, những dự
án mà đối tượng phỏng vấn đã tham gia,
những kinh nghiệm rút ra, các khó khăn,
yếu tố nhân sự khi tham gia dự án, các yếu
tố để bắt đầu 1 dự án và triển khai dự án đó
thành công, sự cần thiết để triển khai các
dự án mới, các điều kiện cần để triển khai
dự án và sau cùng là các lưu ý trong quá
trình triển khai dự án với các đối tác và
mỗi câu hỏi có 4 câu trả lời và một câu ý
kiến khác nhằm tạo điều kiện cho người
phỏng vấn trả lời các câu hỏi ngoài mong
muốn của nhóm tác giả. Tổng số người
tham dự trả lời là 300, bao gồm nhân sự
các phòng ban tại nơi công tác, phòng ban
của ĐHQG-HCM và khoa của các trường
ĐH tại Thành phố Hồ Chí Minh. Các nhân
sự này chịu trách nhiệm triển khai một
trong các loại hình hợp tác như phụ trách
trao học bổng, phụ trách triển khai dự án,
phụ trách các chương trình đào tạo liên kết,
phụ trách hợp tác quan hệ với các nước,
phụ trách việc tuyển chọn nhân sự để đưa
đi đào tạo tại các trường đối tác, phụ trách
việc tuyển chọn sinh viên và giảng viên
đến học tập tại trường hoặc gửi ứng viên từ
trường đi đến các trường đối tác. Các câu
hỏi tập trung vào ba khái niệm trong một
LÊ VĂN HINH và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
59
mối quan hệ hợp tác thành công là dự án,
hợp tác và đánh giá trong mối quan hệ hợp
tác giữa hai cơ sở đào tạo. Thời gian thực
hiện bảng khảo sát này vào năm 2014 dành
cho các trường thành viên của ĐHQG-
HCM như Trường Đại học Bách khoa,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Trường Đại học Công nghệ Thông tin,
Trường Đại học Kinh tế - Luật và tại Hà
Nội là Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Bảng hỏi được gửi đến từng cá nhân, sau
đó nhóm tác giả nhận lại bảng hỏi, đánh
mã cho từng bảng hỏi và tiến hành phân
tích những điểm chung, điểm riêng của
từng bảng trả lời, các ý kiến khác của
nhóm khảo sát.
Ngoài ra, tác giả phỏng vấn hai nhân
sự là quản lý cấp cao: Giám đốc ĐHQG-
HCM và Hiệu trưởng Trường Đại học
Bách khoa (thuộc ĐHQG-HCM). Cả hai
nhân sự đã tham gia vào nhiều loại hình
hợp tác trong quan hệ quốc tế và điều hành,
triển khai ứng dụng các loại dự án khác
nhau tại đơn vị mình. Hai cuộc phỏng vấn
tập trung vào những nhân tố đóng góp cho
những dự án mà hai nhân sự tham gia điều
hành như dự án RESCIF, dự án CARE, dự
án PUF, dự án Manar. Hai cuộc phỏng vấn
này cần có các nội dung như cần phải làm
gì để cải thiện cho các dự án không đạt
được mục đích, lý do nào để một mối quan
hệ đi đến thành công và thời gian dành cho
1 dự án là bao lâu, dự án ban đầu có phải
làm nền tảng mở rộng cho các mối quan hệ
hợp tác khác, trong quan hệ hợp tác có sự
không cân bằng giữa các nước phát triển và
kém phát triển và làm thế nào để thu hẹp sự
mất cân bằng đó.
2.2.2. Kết quả khảo sát
Sau khi phân tích các câu trả lời, nhóm
tác giả rút ra những nhân tố thành công của
một dự án hợp tác như sau:
- Về mặt thời gian: để thành công, một
mối quan hệ của hai cơ sở đào tạo thành
công cần thời gian từ ba đến năm năm.
Trong khoảng thời gian đó, hai đối tác đã
hiểu hơn và sự tin cậy càng nhiều thì việc
triển khai mối quan hệ dễ dàng hơn. Tuy
nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng, thời
gian thành công của dự án tuỳ thuộc vào
bản chất của dự án và các mục tiêu của dự
án đặt ra trước khi triển khai.
- Về mặt tài chính: phân tích cho thấy
rõ hai CSGD đào tạo cần có những lợi ích
chung về mặt tài chính, điều đó giúp mối
quan hệ hợp tác giữa hai đơn vị mới đi đến
cuối cùng.
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019)
60
Biểu đồ 1 về số liệu chi tiết
về mặt thời gian
Biểu đồ 2 về số liệu chi tiết
về mặt tài chính
- Về mặt quản trị dự án: Dự án cần xác
định rõ được những mục tiêu trước khi được
triển khai, xác định rõ chất lượng của sản
phẩm sau khi dự án kết thúc và sau cùng tính
thực tiễn của dự án, dự án có những đóng góp
gì cho xã hội.
- Về mặt con người: khi một dự án
được triển khai cần có sự hợp tác, cùng
tham gia của tất cả các phòng ban, các
nhân sự chính của dự án.
Biểu đồ 3 về số liệu chi tiết
về mặt quản trị dự án
Biểu đồ 4 về số liệu chi tiết
về mặt con người
Sau khi phỏng vấn, nhóm tác giả rút ra
được những nhân tố thành công của một dự
án hợp tác:
- Về mặt thời gian: một dự án, hai đối
tác cần nhiều thời gian để tìm hiểu xây
dựng một mối quan hệ thành công. Một
mối quan hệ bền vững cần có thời gian đủ
dài để hai bên cùng tin tưởng và triển khai
trên nhiều mặt. Sự thành công của dự án
này là tiền đề để triển khai một dự án khác.
LÊ VĂN HINH và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
61
- Về mặt quyền lợi: hai bên đều có
những mục đích riêng cho chính mình. Các
trường Việt Nam có thể gửi ứng viên đi
học ở những nước phát triển, ngược lại, các
nước phát triển có thể nhận những ứng
viên nghiên cứu chất lượng cho các công
trình của mình. Quan hệ hợp tác có thể
không bình đẳng trong thời gian đầu như
các nước phát triển cho học bổng, tài trợ
máy móc, tài trợ kinh phí xây dựng chương
trình nhưng về sau, mối quan hệ này là
cùng có lợi trên nền tảng trao đổi giảng
viên, sinh viên, cùng làm dự án, v.v
2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến mối
quan hệ hợp tác
Có nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến
sự hợp tác của một dự án:
- Mục tiêu của dự án không được xác
định rõ ràng trước khi được bắt đầu và dự án
không có được một kết quả rõ ràng hay không
có một tầm nhìn dài hạn trong tương lai;
- Ngoài ra, việc quản trị dự án sẽ gặp
nhiều khó khăn khi các thủ tục hành chính
chưa được giải quyết hết;
- Nguồn tài chính dành cho dự án
không được bảo đảm cũng là một nhân tố
dẫn đến sự thất bại của dự án hợp tác giữa
hai CSGD đào tạo.
- Một khi dự án đi vào vận hành, kỹ
năng và khả năng của nguồn nhân lực không
bảo đảm sẽ dẫn đến nhiều vấn đề của dự án.
- Tình trạng không kiểm soát được thời
gian triển khai dự án làm cho dự án không
đạt được những kết quả như mong muốn.
- Sau khi dự án kết thúc, hai bên không
đạt được kết quả như mình mong muốn.
- Khi dự án đang vận hành, một trong
2 bên đối tác không mong muốn tiếp tục dự
án cũng là một nguyên nhân làm ảnh
hưởng đến sự hợp tác của 2 bên.
- Ngân sách dự án không được giải
ngân đúng hạn.
- Và sau cùng, hai bên có những bất
đồng khi tiến hành làm dự án.
2.3. So sánh vấn đề hợp tác giữa Việt
Nam và thế giới
Quốc tế hoá giáo dục và hợp tác trong
GDĐH là một trong những nhân tố cách
tân của GDĐH thế kỷ 21 và là tương lai
của GDĐH (Altbach & Teichler, 2011).
Mối quan hệ giữa 2 CSGD đào tạo luôn có
sự bất bình đẳng: nguồn nhân lực các nước
đang phát triển luôn sang các nước phát
triển để học dẫn đến vấn đề chảy máu chất
xám, tốn kém về kinh phí và ngày càng
làm giàu cho các nước phát triển. Nước
đang chiếm đầu xu thế trong việc tiếp đón
sinh viên sang học là Hoa Kỳ. Hàng năm,
Hoa kỳ thu được số tiền khoảng 12 tỉ USD
trong việc tuyển sinh viên quốc tế sang học
(Altbach & Knight, 2007). Tuy nhiên, xu
hướng này đang có chiều hướng giảm khi
Úc, Canada, Nhật Bản và thậm chí Ấn Độ
cũng mở rộng chính sách để thu hút sinh
viên quốc tế (Altbach & Teichler, 2011).
Theo thống kê của Bộ Giáo dục Đào tạo,
hàng năm Việt Nam gửi đi khoảng 60.000
người sang các nước phát triển, trong đó
60% - 70% ở lại để học tiếp, để định cư và
tìm một công việc tại nước sở tại. Và sau
cùng là việc đầu tư tài chính cho các
trường họp tự túc sang nước ngoài học,
điều này dẫn đến nước một bên có lợi về
mặt tài chính và một bên bị thiệt hại. Hệ
thống giáo dục Việt Nam cũng không phải
là một trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, mối
quan hệ này hiện nay ngày càng được cân
bằng hơn khi Việt Nam đã không còn là
một nước kém phát triển, sẵn sàng đầu tư
để mời giáo sư sang Việt Nam giảng dạy,
nghiên cứu và có trả lương. Đặc biệt các tổ
chức giáo dục như Cơ quan Hàn lâm Đức
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019)
62
(DAAD), Viện Giáo dục Quốc tế (IIE), Tổ
chức ĐH Pháp ngữ (AUF), Hội Đồng Anh
(British Council) đã có cơ quan đại diện tại
Việt Nam và tạo cơ hội cho du học sinh
Việt Nam đi du học.
Từ năm 2012 đến 2017, AUF đã tài trợ
tiền là 8.835.336 Euro cho 87 dự án tại
Việt Nam thông qua 28 trường ĐH tại Việt
Nam và 87 dự án trong nhiều lĩnh vực khác
nhau: học bổng, nghiên cứu3. Hơn nữa, Hội
đồng Anh hàng năm tài trợ cho các dự án
giữa các CSGD đào tạo của Việt Nam và
Vương Quốc Anh thông qua chương trình
nghiên cứu Newton4. Và sau cùng, hàng
năm các tổ chức giáo dục đều tổ chức các
triển lãm giáo dục để phỏng vấn ứng viên
Việt Nam trong việc cho học bổng ứng
viên Việt Nam sang các nước phát triển du
học. Riêng đối với DAAD, trong năm
2018, Việt Nam đã gửi 270 ứng viêng sang
Đức học từ cử nhân cho đến tiến sỹ. Ngược
lại, các trường ĐH của Đức cũng cấp cho
các trường ĐH Việt Nam là 74 suất học
bổng. Việt Nam đã gửi đi 54 ứng viên và
nhận về 24 ứng viên trong khuôn chương
trình học bổng Erasmus dành riêng cho
nước Đức5.
3. Kết luận
Trên cơ sở phân tích nguồn dữ liệu
tham khảo, nhóm tác giả rút ra được những
nhân tố thành công dành cho một dự án:
- Một là, thời gian thông thường từ ba
đến năm năm. Tuy nhiên, còn tùy thuộc
vào loại dự án và mục tiêu mà dự án đề ra.
- Hai là, nguồn tài chính phải được bảo
đảm trong suốt quá trình thực hiện dự án
và cả hai CSGD đào tạo phải thấy được
những lợi ích chung khi tham gia dự án.
- Ba là, tất cả các nguồn nhân lực phải
tham gia vào tiến trình thực hiện dự án và
sự đồng thuận của nguồn nhân lực đóng vai
trò rất lớn
- Sau cùng, cần xác định rõ mục tiêu
của dự án và những đóng góp cho xã hội
trước khi dự án được bắt đầu.
Trong tình hình của hệ thống ĐH Việt
Nam hiện nay, việc hợp tác với các ĐH
trong Việt Nam, giữa các hệ thống, các
trường ĐH diễn ra rất đa dạng, dưới nhiều
hình thức khác nhau. Tuy nhiên, nhiều dự
án hợp tác thành công cũng không ít dự án
thất bại. Hệ thống GDĐH Việt Nam
không thể đứng ngoài guồng quay phát
triển của GDĐH thế giới. Do đó, để khai
thác một mối quan hệ hợp tác, các hệ
thống ĐH, các trường ĐH cần đầu tư
nhiều về nhân sự, chi phí và có chiến lược
cụ thể cho việc này.
Chú thích
1 truy xuất từ https://larousse.fr/dictionnaires/francais/projet/64232?q=projet#63510
2 truy xuất từ https://larousse.fr/dictionnaires/francais/coop%c3%a9ration/19056?q=
cooperation#18946
3 truy xuất từ https://www.auf.org
4 truy xuất từ https://www.bristishcouncil.vn
5 truy xuất từ Báo cáo của Văn phòng đại diện DAAD 2018
LÊ VĂN HINH và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
63
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Altbach, P. G. & Knight, J. (2007). The Internationalization of Higher
Education:Motivation and Realities. Journal of Studies in International Education,
11(3-4), 290-305.
Altbach, P. G. & Teichler, U. (2011). Internationalization and Exchange in a Globalized
University. Journal of Studies in International Education, 5(1), 5-25.
Dhume, F. (2006). Qu’est ce que le partenariat ? Contribution à la construction d’un espace
de sens. Journal de l’insertion des CEMEA de Basse Normandie (No 4, May 2002)
Dupont, N. (2013). Evaluer des activités, des acteurs, des pratiques, des performances, des
partenariats. Journal des Sciences de l’éducation 2010/4 (Vol 43, pages 95 à 121)
Mazereau, P. (2013). Le projet ou comment fabriquer du pouvoir d’agir. Journal des
Sciences de l’éducation 2013/2 (Vol 46, pages 7 à 19)
Merini, C. (2001). Acte de la Journée nationale de l’OZP, 5 mai 2001, le partenariat: histoire
et essai de définition:
Merini, C. (1999). Le Partenariat en formation. De la modélisation à une application.
Paris, L’Harmattan – 1999, 223 p
Paturet J. B. (2003). Le projet comme "fiction commune". Empan 2003/1 (No 45), Page 63
à 68
Qiang Z. (2003). Internationalization of Higher Education: Towards a conceptual
framework. Policy Futures in Education, 1(2), 248-270.
Rangeon, F. (1993). La Notion d’Evaluation. L’évaluation dans l’administration. in
CURAPP, PUF, 11-33.
Zay D. & Gonnin-Bolo A. (1995). Établissements et partenariats: stratégies pour des
projets communs. Actes du colloque des 14, 15, 16 janvier 1993, Paris INRP, 457.
Ngày nhận bài: 10/10/2018 Biên tập xong: 15/6/2019 Duyệt đăng: 20/6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9_2757_2214914.pdf